Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện an lão, tỉnh...

Tài liệu Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện an lão, tỉnh bình định

.PDF
74
60
93

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, muốn tăng cường công tác quản lý xã hội bằng pháp luật nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thực hành và phát huy các quyền dân chủ của công dân thì nhất thiết phải quan tâm tới việc nâng cao trình độ dân trí về pháp luật. Giáo dục pháp luật (GDPL) là một trong những công tác quan trọng trong đời sống xã hội, là chiếc cầu nối và là phương tiện không thể thiếu trong việc nâng cao tri thức pháp luật, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật của mọi tầng lớp nhân dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, mặt khác Người quan tâm đặc biệt đến giáo dục ý thức tiến bộ cho nhân dân trong đó bao gồm ý thức về pháp luật, Người kêu gọi: “Mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc xây dựng nhà nước”. Người cũng cho rằng chấp hành pháp luật là nghĩa vụ cao cả của công dân và đòi hỏi công dân phải cùng nhau ra sức giữ gìn trật tự, tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của Chính phủ. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, công tác GDPL càng có ý nghĩa quan trọng và được quan tâm nhiều hơn ở mọi cấp, mọi ngành. Công tác GDPL tốt sẽ giúp mọi người hiểu biết pháp luật, chấp hành pháp luật và luôn có ý thức: “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, góp phần tích cực trong ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội và thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững ở từng địa phương nói riêng và cả nước nói chung. 1 Thực tiễn vừa qua, công tác GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện An Lão đã có những chuyển biến tích cực, góp phần xây dựng ý thức sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật của cán bộ và nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác GDPL chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, bộc lộ những hạn chế, bất cập trên nhiều mặt, từ việc xác định mục tiêu GDPL, xây dựng đội ngũ báo cáo viên (BCV), tuyên truyền viên (TTV) pháp luật, lựa chọn nội dung, phương pháp cho hình thức GDPL cho đối tượng này. Ý thức pháp luật và tình hình thực hiện pháp luật của một bộ phận không nhỏ nhân dân nói chung đồng bào DTTS nói riêng còn rất hạn chế nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều nhân dân các dân tộc ít người đang sinh sống. Bối cảnh đó càng cho thấy việc tuyên truyền và GDPL Nhà nước, đưa pháp luật vào cuộc sống tại nơi đây là vấn đề lớn đòi hỏi cần được đáp ứng kịp thời. Nhất là trong giai đoạn hiện nay ở các huyện của tỉnh Bình Định nói chung và huyện An Lão nói riêng có những vấn đề về an ninh trật tự khá phức tạp và nhạy cảm. Xuất phát từ những lý do trên, trên cơ sở các kiến thức tiếp thu được trong quá trình theo học khóa đào tạo cao học luật, tôi quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số từ thực tiễn huyện An Lão, tỉnh Bình Định” làm đề tài luận văn thạc sĩ, với mong muốn đóng góp một phần công sức trong công tác GDPL nói chung và GDPL cho đồng bào các DTTS tại huyện An Lão, tỉnh Bình Định nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Giáo dục pháp luật với tư cách là một phạm trù pháp lý là một dạng hoạt động của Nhà nước trong tổ chức thực hiện pháp luật, biện pháp tăng cường pháp chế, vấn đề này đã thu hút sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều cơ quan và các nhà khoa học từ trước đến nay đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới 2 đất nước, đổi mới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. + Luận văn, luận án: - Nguyễn Đình Lộc (1987). “Ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa và GDPL cho nhân dân lao động ở Việt Nam”, Luận án phó tiến sĩ luật học. + Sách tham khảo chuyên khảo: - Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai (1995), “Bàn về giáo dục pháp luật”, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội. - Đào Trí Úc (1995), “Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật”, Nxb Chính trị quốc gia , Hà Nội. + Một số bài viết của các tác giả đã đăng trên Tạp chí thời gian gần đây: - Hồ Viết Hiệp (2000), “Xã hội hóa công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong tình hình mới”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9, Hà Nội. - Nguyễn Ngọc Minh (1983), “Giáo dục pháp luật cho nhân dân” của tác giả Tạp chí Cộng sản, số 10, tr.34-38, Hà Nội. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể, cá nhân, các bài viết từ trước đến nay về GDPL đã có những đóng góp quan trọng về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, có thể nói rằng cho đến nay chưa có một công trình luận án, luận văn nào nghiên cứu về GDPL cho đồng bào dân tộc ít người tại huyện An Lão, tỉnh Bình Định. Trong công trình này, tác giả đã tập trung vào lý giải những vấn đề lý luận về ý thức pháp luật, như khái niệm, đặc điểm và cấu trúc của ý thức pháp luật; đồng thời, tác giả tập trung khảo sát tình hình giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam, chỉ ra những điểm tích cực cũng như hạn chế trong công tác giáo dục ý thức pháp luật; từ đó, đề xuất những giải pháp cho công tác GDPL tại Việt Nam. Hầu như các nhà nghiên cứu về GDPL đều coi đây là công trình 3 đặt nền móng cho việc nghiên cứu về GDPL và giáo dục ý thức pháp luật ở Việt Nam. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống về GDPL cho đồng bào các DTTS từ thực tiễn của huyện An Lão, tỉnh Bình Định. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích lý luận, thực tiễn GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện An Lão; luận văn đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm tăng cường công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Trình bày một số vấn đề lý luận về GDPL cho đồng bào DTTS: khái niệm, mục đích, đặc điểm của GDPL và các nội dung, phương pháp, hình thức GDPL cho đồng bào DTTS. - Phân tích tình hình GDPL cho người DTTS ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định. Làm rõ những kết quả, hạn chế, và nguyên nhân của vấn đề trong công tác tuyên truyền GDPL đối với người DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định. - Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định, từ đó đề xuất các định hướng chung trong thời gian đến. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS. Luận văn đề cập về công tác GDPL cho đối tượng là đồng bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4 - Phạm vi về không gian: Phạm vi khảo sát thực tiễn công tác GDPL tại huyện An Lão, tỉnh Bình Định. - Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu thực tiễn công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định trong thời gian từ 2017 đến 2019. - Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu thực tiễn công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng và pháp luật Nhà nước ta về công tác dân tộc, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, về vai trò giáo dục pháp luật nói chung và cho đồng bào dân tộc thiểu số nói riêng. Cơ sở thực tiễn của luận văn là các báo cáo, các số liệu thống kê của các cấp ủy đảng, chính quyền về công tác tuyên truyền PBGDPL. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, giải quyết các yêu cầu đặt ra, luận văn sử dụng các phương pháp tổng hợp và phân tích; phương pháp lịch sử và lôgic; thống kê so sánh; khái quát hóa, hệ thống hóa.... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Về mặt ý nghĩa lý luận - Luận văn góp phần làm rõ tính đặc thù của công tác GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định; từ đó nâng cao nhận thức, trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức hoạt động thực tiễn của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong việc GDPL đối với đồng bào DTTS ở huyện An Lão. Trên cơ sở đó góp 5 phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện. 6.2. Về mặt thực tiễn - Từ việc tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm về công tác GDPL cho nhân dân tại một số địa phương, một số vùng ở Việt Nam, luận văn rút ra những bài học kinh nghiệm có thể vận dụng trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định. - Trong khuôn khổ nghiên cứu của luận văn, căn cứ kết quả tìm hiểu, nắm bắt thông tin và từ các nguồn tài liệu có sẵn; tập trung phân tích, đánh giá, chỉ ra những kết quả, hạn chế, nguyên nhân trong công tác GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện An Lão. - Luận văn đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp toàn diện, đảm bảo nâng cao chất lượng, hiệu quả trong GDPL cho đồng bào DTTS trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định. - Luận văn đề cập, phân tích một trong những vấn đề quan trọng và cấp thiết nhưng chưa được nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống vấn đề GDPL cho đồng bào DTTS ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định. Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về GDPL cho một đối tượng, khu vực cụ thể; đồng thời bổ sung thêm những luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng, hoàn thiện về lý luận GDPL cho đồng bào các DTTS ở tỉnh Bình Định nói chung và đồng bào DTTS ở huyện An Lão, tỉnh Bình Định nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận văn kết cấu gồm 3 Chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. 6 Chương 2: Thực tiễn giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định. Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định. 7 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số 1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật Khái niệm “GDPL thường được quan niệm là một dạng hoạt động gắn liền với việc triển khai thực hiện pháp luật cũng như trong hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật”. Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về giáo dục pháp luật: - Theo nghĩa rộng: “giáo dục là sự ảnh hưởng, tác động của những điều kiện khách quan và của cả những nhân tố chủ quan nhằm hình thành những phẩm chất, kỹ năng nhất định của đối tượng giáo dục”. - Theo nghĩa hẹp: “giáo dục là quá trình tác động định hướng của nhân tố chủ quan lên khách thể giáo dục, truyền bá những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri thức về tự nhiên, xã hội, tư duy, để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào lao động và đời sống xã hội”. Trong quá trình hoạt động thực tiễn, các nhà lý luận cũng đã thừa nhận những yếu tố ảnh hưởng của các điều kiện khách quan tác động đến sự hình thành ý thức cá nhân của con người. Song các nhà lý luận khoa học sư phạm đã nhấn mạnh đến yếu tố tác động hàng đầu cực kỳ quan trọng và thậm chí quyết định của nhân tố chủ quan trong giáo dục. Vì vậy khái niệm giáo dục hiện nay chúng ta thường được hiểu theo nghĩa hẹp. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Giáo dục” là một hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào 8 đó, làm cho đối tượng đó dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [Error! Reference source not found., tr.57]. Giáo dục pháp luật là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng [Error! Reference source not found.]. Từ phân tích như trên, xét ở một góc độ nhất định, có thể định nghĩa GDPL như sau: GDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể GDPL để cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm và hành vi hợp pháp cho đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ ý thức pháp luật đúng đắn và thói quen hành động phù hợp với các quy định pháp luật và đòi hỏi của nền pháp chế XHCN. 1.1.1.1. Mục đích của giáo dục pháp luật Mục đích của giáo dục pháp luật trong điều kiện hiện nay cần xác định cụ thể ở những vấn đề sau đây: - Một là, từng bước nâng cao nhận thức về pháp luật cho công dân. Nâng cao nhận thức, mở rộng sự hiểu biết của con người trên các lĩnh vực là một yêu cầu khách quan của công tác giáo dục nói chung. Trong GDPL thì mục đích được đặt ra là không ngừng nâng cao nhận thức pháp lý cho đối tượng được GDPL để họ có kiến thức vững vàng nắm bắt được những tri thức về Nhà nước về pháp luật và đặc biệt là pháp luật thực định. Trong điều kiện ở nước ta hiện nay, thực tế cho thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến việc nâng cao dân trí nhất là dân trí pháp lý. Tuy nhiên do đặc điểm và điều kiện ở một số vùng sâu, vùng xa nên nhân dân các dân tộc ít người có hạn chế về hiểu biết pháp luật. Vì thế việc xác định đúng đắn mục 9 đích GDPL có ý nghĩa thực tiễn đặc biệt quan trọng. Chỉ có thể GDPL, nâng cao nhận thức pháp lý làm cho mọi người hiểu một cách đầy đủ và đúng đắn về giá trị xã hội và vai trò điều chỉnh của pháp luật từ đó hình thành tâm lý, tình cảm và thái độ tôn trọng pháp luật, tin tưởng vào pháp luật và điều chỉnh hành vi xử sự của mình. Khi mà mọi thành viên trong xã hội đã đạt đến một ý thức “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” thì đó là mục đích cao nhất và đó là hệ quả của quá trình GDPL. - Hai là, hình thành tình cảm pháp lý và niềm tin nội tâm đối với pháp luật. Việc nâng cao trình độ kiến thức pháp lý là mục đích đầu tiên vô cùng quan trọng nhưng bản thân nó chưa phải là sự quyết định đến hành vi xử sự hợp pháp. Nếu đã có kiến thức pháp luật, nhưng trong mỗi con người cần phải có tình cảm pháp lý, nghĩa là có thái độ tôn trọng pháp luật và tin tưởng vào sự công bằng của pháp luật từ đó mới tạo ra khả năng điều chỉnh hành vi hợp pháp của mình. Thiếu tình cảm và niềm tin vào pháp luật thì mọi hành động dễ bị chệch hướng khỏi chuẩn mực pháp lý vì những mục đích, động cơ cá nhân. Thực tế cho thấy nếu một người có sự hiểu biết pháp luật, có tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì họ sẽ tin theo những quy định của pháp luật. Tuy nhiên để có được tình cảm và lòng tin vào pháp luật thì cần phải giáo dục tình cảm, lòng tin và sự công bằng, trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân, thái độ không khoan nhượng với kẻ thù. Tất cả những vấn đề đó sẽ là cơ sở hình thành động cơ của hành vi hợp pháp. - Ba là, “giáo dục pháp luật nhằm hình thành động cơ và hành vi, thói quen xử sự hợp pháp, tích cực”. Hành vi xử sự theo pháp luật của con người là kết quả của quá trình nhận thức pháp luật. trong quá trình nhận thức thì có nhiều yếu tố tác động 10 (chủ quan và khách quan) để hình thành nên hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật trong đó hoạt động GDPL là yếu tố cơ bản. Bởi lẽ thông qua GDPL sẽ cung cấp tri thức pháp luật, lòng tin sâu sắc vào sự cần thiết vào sự tuân theo một cách tự nguyện những quy định của pháp luật. Để đạt được mục đích này trong quá trình GDPL phải lựa chọn nhiều hình thức, phương pháp và thường xuyên, liên tục để mọi công dân hiểu được sự cần thiết, tính hợp lý của pháp luật vì lợi ích chung của xã hội. Thực tiễn hiện nay ở nước ta, mục đích này có quan hệ vô cùng to lớn khi mà đa số nhân dân lao động vẫn còn tình trạng chưa có thói quen xử sự theo pháp luật, việc sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của hiến pháp và pháp luật còn hạn chế, thậm chí còn vi phạm nghiêm trọng. GDPL nhằm đạt được ba mục đích nêu trên, ngoài ra mục đích của nó còn giúp cho việc xác định hiệu quả của quá trình GDPL. Không dựa vào mục đích của GDPL thì không thể đánh giá được hiệu quả và các chỉ số xác định hiệu quả của quá trình GDPL. 1.1.1.2. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật Trong hoạt động GDPL các cá nhân, tổ chức theo chức năng của mình tham gia vào việc tuyên truyền phổ biến pháp luật như giảng dạy, phân tích, trình bày, giải thích pháp luật gọi là chủ thể, những người được truyền thụ học tập, nghiên cứu, tìm hiểu lĩnh hội pháp luật gọi là đối tượng. * Về chủ thể của giáo dục pháp luật Chủ thể nói chung được hiểu “là đối tượng gây ra hành động mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị chi phối bởi hành động tác động, gọi là khách thể” [Error! Reference source not found., tr.130]. Vận dụng vào GDPL, có thể hiểu chủ thể GDPL là những người hoạt động GDPL. Hay nói khác đi thì chủ thể GDPL được hiểu là tất cả những người, mà theo 11 chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã tham gia góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu GDPL. Việc xác định chủ thể, đối tượng GDPL có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn. Trong mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể và đối tượng GDPL trong quá trình GDPL, chủ thể khi tiến hành mọi hoạt động GDPL thì sự tác động đó có ý thức, có mục đích, có kế hoạch đến đối tượng giáo dục. Trên cơ sở đó, chủ thể xác định những nhu cầu, khả năng và điều kiện tiếp nhận tác động GDPL của đối tượng cũng như các yêu cầu đòi hỏi khách quan đối với các chủ thể GDPL trong việc xác định nội dung, hình thức, phương pháp phù hợp để tiếp cận GDPL và tiến hành giáo dục có hiệu quả cao nhất. * Về đối tượng giáo dục pháp luật Năm 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị 02/1998/CT-TTg và Quyết định 03/QĐ-TTg ngày 07/1/1998 về việc ban hành kế hoạch triển khai công tác phổ biến GDPL. Căn cứ vào kế hoạch của Chính phủ thì đối tượng GDPL bao gồm: Cán bộ công chức (CBCC) nhà nước Đối tượng này là CBCC Nhà nước, họ đã được đào tạo bồi dưỡng nên đã có trình độ và khả năng nhận thức nhất định. Trong đối tượng này, vấn đề GDPL phải chú ý hơn đến những người đang làm việc trong các cơ quan bảo vệ pháp luật như Tòa án, Viện kiểm sát, thanh tra... Trong mối quan hệ này, họ là đối tượng cần được GDPL, nhưng mối quan hệ khác họ lại là chủ thể của GDPL cho nhân dân lao động. Trong những năm gần đây đội ngũ CBCC nhà nước ta đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật. Tuy nhiên nhiều CBCC Nhà nước do không được đào tạo cơ bản nên kiến thức pháp luật còn chắp vá, thiếu hệ thống. Điều đó đã hạn chế rất nhiều đến năng lực quản lý nhà nước, khả năng giải quyết công việc trong 12 các cơ quan Nhà nước. Vì vậy GDPL cho đối tượng là CBCC là vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài, phải thường xuyên, liên tục mới có thể đáp ứng đòi hỏi của quá trình quản lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta. Học sinh - Sinh viên Đối tượng này là những công dân trẻ, khỏe, thông minh và sáng tạo, là chủ nhân tương lai của đất nước. Học sinh, sinh viên đang thực sự là lực lượng xung kích trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, công nghệ. Tuy nhiên về ý thức pháp luật của họ vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy tình trạng vi phạm pháp luật đã xảy ra trong các học đường, cũng như ngoài xã hội. Các tệ nạn xã hội như ma túy, lối sống buông thả, đồi trụy phần nhiều lại do thanh thiếu niên mắc phải. Vì thế GDPL cho đối tượng học sinh - sinh viên cũng là một yêu cầu đòi hỏi khách quan của xã hội đang được Nhà nước thực sự coi trọng. Có như vậy thì học sinh sinh viên ra trường họ có kiến thức khoa học vững vàng, có lối sống lành mạnh và ý thức pháp luật được nâng cao. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ta là nhất quán ổn định lâu dài. Nhà nước tạo ra môi trường pháp luật bình đẳng nhằm bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp cũng như sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong mọi thành phần kinh tế. Song Nhà nước cũng đòi hỏi nghiêm ngặt các doanh nghiệp, các thương nhân phải hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật. Thành tựu kinh tế hơn 30 năm đổi mới ở nước ta có sự đóng góp đáng kể của hàng vạn doanh nghiệp (đến nay là trên sáu vạn doanh nghiệp). Tuy nhiên trên thực tế việc sản xuất, kinh doanh vẫn bị ảnh hưởng của cơ chế cũ và trật tự kỷ cương pháp luật còn lỏng lẻo. Không ít các doanh nghiệp, các thương nhân, đặc biệt là những người sản xuất nhỏ hay làm kinh tế gia đình khi tham gia vào nền kinh tế thị trường, do kiến thức pháp luật còn hạn chế, nhất là pháp luật 13 kinh tế. Vì vậy, hiện tượng vi phạm hợp đồng, hoặc bị lừa đảo hoặc dẫn đến thua lỗ là khó tránh khỏi. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “lối làm ăn chạy theo lợi nhuận bất kể giá nào, dẫn đến vi phạm pháp luật, lừa đảo, hối lộ, làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, xâm phạm nghiêm trọng tài sản xã hội chủ nghĩa và của công dân, làm cho kỷ luật, kỷ cương và pháp luật không nghiêm” [Error! Reference source not found., tr. 25]. Như vậy, GDPL là đòi hỏi từ nhu cầu thiết thân của các nhà kinh doanh và yêu cầu quản lý kinh tế của nhà nước. Có như vậy mới giúp họ có những kiến thức cơ bản về pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, từng bước tạo cho họ thói quen kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật, tránh tình trạng phá rào, vi phạm pháp luật như hiện nay. * Tầng lớp nhân dân lao động mà đặc biệt là nhân dân các dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa Đây là lực lượng đông đảo, chiếm đa số những người lao động trong xã hội. Dù vậy lực lượng đông nhất trong xã hội này lại có ít điều kiện được tiếp cận, học tập, nghiên cứu và tìm hiểu pháp luật. Đặc biệt nhân dân các dân tộc ít người ở vùng sâu, vùng xa miền núi như Tây Nguyên, ý thức pháp luật còn rất thấp. Tại Đăk Lăk cần phải chú ý đến vai trò của già làng trưởng bản với tư cách vừa là chủ thể giáo dục vừa là đối tượng GDPL. Có thể nói Già làng, trưởng bản là những người rất có uy tín ở buôn thôn, những việc xích mích trong buôn làng với nhau đều do Già làng, trưởng bản tham gia giải quyết một cách có hiệu quả. Già làng, trưởng bản khi tham gia giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân ở buôn làng thì với tư cách là chủ thể của GDPL. Có thể nói các già làng, trưởng bản ở các buôn làng Tây Nguyên thường chỉ dựa vào uy tín tập quán, luật tục để chỉ dẫn và giải quyết công việc, còn kiến thức pháp luật còn hạn chế. Do vị trí vai trò của già làng, trưởng bản, nên họ 14 cần phải được bồi dưỡng kiến thức pháp luật hơn ai hết ở cơ sở các cộng đồng dân cư. Vì vậy họ có vai trò "kép" vừa là chủ thể vừa là đối tượng của GDPL. 1.1.2. Khái niệm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số Giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số là hoạt động có định hướng, có tổ chức do các chủ thể giáo dục tiến hành theo chương trình, nội dung, phương pháp và hình thức lên đối tượng giáo dục là đồng bào dân tộc thiểu số làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật, tạo niềm tin vào pháp luật để họ có đầy đủ khả năng tham gia vào các quan hệ xã hội phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành, góp phần xây dựng và củng cố ý thức về quyền con người, quyền công dân của đồng bào DTTS để họ có thể tiếp cận và bảo vệ các quyền đó một cách hiệu quả. 1.1.3. Đặc điểm giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số Theo số liệu Tổng cục Thống kê ngày 01/4/2019, người Kinh chiếm 85,3% dân số, 53 dân tộc thiểu số chiếm 14,7% dân số. Các dân tộc Việt Nam có truyền thống đoàn kết, cùng chung vận mệnh lịch sử, từ lâu đời đã sớm có ý thức gắn bó với nhau trong chinh phục thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, truyền thống đoàn kết các dân tộc ngày càng được củng cố và phát triển. Các DTTS sinh sống chủ yếu ở miền núi, với địa bàn rộng lớn chiếm 3/4 diện tích cả nước, bao gồm khu vực biên giới, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, quốc phòng và môi trường sinh thái. Các DTTS ở nước ta có số lượng dân cư không đều, sống xen kẽ, không có dân tộc nào ở vùng lãnh thổ riêng, tạo điều kiện thuận lợi để các dân tộc tăng cường hiểu biết, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Tại Bình Định hiện có 27 dân tộc thiểu số sinh sống, trong đó riêng huyện An Lão là huyện miền núi của tỉnh Bình Định với gần 40% dân số là 15 đồng bào DTTS, dân tộc thiểu sổ ở đây chủ yếu là người dân tộc Hre và dân tộc Bana. Đối với DTTS vì nhiều nguyên nhân về lịch sử, địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội… mà trình độ dân trí hiểu biết về pháp luật cò nhiều hạn chế. Có những người đồng bào DTTS chỉ biết rất ít hoặc không biết về các quy định của pháp luật, trong đó có các quy định về quyền con người, quyền công dân, từ đó dẫn đến khó có thể tiếp cận để bảo vệ quyền co người và quyền công dân của mình. Vì vậy, muốn trang bị kiến thức pháp luật cho đồng bào DTTS thì phương thức chủ yếu mà các cơ quan chức năng, các ban ngành đoàn thể liên quan phải triển khai là GDPL cho họ. Điều đó nói lên một trong những vai trò hết sức quan trọng của giáo dục pháp luật là góp phần cung cấp thông tin, trang bị và nâng cao kiến thức về hiểu biết pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Các nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định chủ thể GDPL là tổ chức, cá nhân có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp, thường xuyên thực hiện nhiệm vụ GDPL cho người DTTS; là những cá nhân, tổ chức mà chức năng, nhiệm vụ chính của họ không phải là GDPL, nhưng thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của họ có gắn với mục đích GDPL; là các cấp chính quyền, cán bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội; là những cá nhân, tổ chức mà qua hoạt động của họ có tác dụng GDPL hoặc tự giác tham gia GDPL. 1.1.4. Vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số Nhà nước pháp quyền XHCN là pháp luật luôn đặt ở vị trí thượng tôn, không một cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào có thể đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. Nhà nước xây dựng, ban hành pháp luật là điều chỉnh các quan hệ xã hội bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của Nhà nước, tập thể và 16 công dân. Muốn pháp luật được thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc trong thực tế xã hội, phát huy được đầy đủ vai trò, chức năng của nó thì pháp luật phải được thẩm thấu vào trong nhận thức và bộc lộ thông qua hành vi pháp luật hợp pháp của mỗi con người trong xã hội. Tuy nhiên pháp luật không thể tự nó đến được với mỗi người mà phải thông qua giáo dục pháp luật. Pháp luật được mọi người dân thực hiện nghiêm chỉnh và thực sự hiệu quả khi họ tin tưởng vào các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Chỉ khi nào người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ các nguyên tắc, quy định của pháp luật thì họ mới có thể thực hiện pháp luật một cách tự giác mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào từ Nhà nước. Từ vai trò cung cấp thông tin, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, giáo dục pháp luật góp phần xây dựng củng cố niềm tin của người dân đối với pháp luật. Có niềm tin vào tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật thì đồng bào DTTS sẽ biết cách thực hiện hành vi pháp luật phù hợp với yêu cầu của pháp luật một cách tự nguyện, tự giác. GDPL cho đồng bào các DTTS giữ vai trò cung cấp cho đồng bào các DTTS biết quyền và nghĩa vụ của mình, về những việc mà pháp luật quy định được phép làm và những việc mà pháp luật không cho phép hoặc nghiêm cấm, về cách thức để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số chỉ được nâng cao khi giáo dục pháp luật được tiến hành thường xuyên, kịp thời và hiệu quả, có tính thuyết phục góp phần hình thành, củng cố niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với pháp luật, ngày càng nâng cao hiểu biết về các văn bản quy phạm pháp luật của họ, các sự kiện xảy ra trong đời sống của họ, từ đó nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đồng bào dân tộc thiểu số. Giáo dục pháp luật củng cố niềm tin sâu sắc của đồng bào DTTS vào sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện các quy định của pháp luật là 17 những yếu tố quan trọng làm hình thành hành vi pháp luật tích cực. Những tình cảm công bằng, trách nhiệm, nhận thức không khoan nhượng với các hành vi phạm tội là những yếu tố tâm lý, tư tưởng không thể tách rời hành vi pháp luật chủ động, tự giác, tích cực. Phải nhờ vào động lực thôi thúc nội tâm và niềm tin vững chắc vào pháp luật thì mới có thể hình thành hành vi pháp luật hợp pháp, tự nguyện và tích cực trong đồng bào DTTS. Điều đó là một trong những vai trò hết sức quan trọng của hoạt động GDPL cho đồng bào DTTS, góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, thực hiện hành vi pháp luật hợp pháp của đồng bào DTTS. Việc xây dựng và củng cố niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số đối với pháp luật càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh đời sống kinh tế của đa số người dân còn gặp nhiều khó khăn và mang đậm tính cộng đồng, phong tục tập quán chi phối mạnh mẽ , các thế lực phản động, thù địch có âm mưa lợi dụng sự thiếu hiểu biết và lòng cả tin để thực hiện các hoạt động tuyên truyềnkích động nhằm xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, gây chia rẽ giữa đồng bào DTTS. Vì vậy, GDPL cho đồng bào DTTS là một trong những yêu cầu hết sức quan trọng để xây dựng và đổi mới đất nước. 1.2. Nội dung, hình thức, phương pháp của giáo dục giáo dục pháp luật 1.2.1. Nội dung giáo dục pháp luật Việc xác định nội dung của GDPL là vấn đề đặc biệt quan trọng bởi việc xác định nội dung GDPL là gì? Mức độ như thế nào? Cho từng loại đối tượng nào? là vấn đề cốt lõi quyết định hiệu quả của GDPL. Nói cách khác trên cơ sở mục đích và đối tượng mà xác định một nội dung GDPL thiết thực để có hiệu quả cao. 18 Phạm vi của nội dung GDPL bao gồm hệ thống pháp luật thực định, các văn bản pháp luật; các văn bản hướng dẫn thực hiện pháp luật và thực tiễn pháp luật, các thông tin về tình hình vi phạm pháp luật, tình hình tội phạm; kết quả xử lí các vi phạm pháp luật theo các nguyên tắc, quy định của pháp luật hiện hành; các thông tin phản hồi từ các tầng lớp nhân dân góp ý, đề xuất ý kiến về việc thực hiện, xây dựng và hoàn thiện pháp luật… 1.2.2. Hình thức, phương pháp của giáo dục pháp luật Cần phải thông qua các phương thức truyền tải thông tin, các hình thức giao tiếp giữa chủ thể và đối tượng GDPL bằng những hình thức và phương pháp khác nhau. Nếu chủ thể giáo dục biết cách lựa chọn các hình thức, phương pháp nào phù hợp với từng loại đối tượng thì giáo dục sẽ mang lại hiệu quả cao. Nếu hình thức và phương pháp không phù hợp thì hiệu quả sẽ thấp. Giữa hình thức, phương pháp và nội dung của giáo dục pháp luật cũng có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, nó có tác động làm cho việc truyền tải nội dung thấm sâu vào nhận thức của từng đối tượng và nội dung đến lượt nó càng hoàn thiện hơn , thông qua việc truyền tải thông tin để bổ sung vào chương trình nội dung của giáo dục pháp luật. Phương pháp giáo dục pháp luật: là cách thức và biện pháp được chủ thể sử dụng để truyền đạt nội dung pháp luật tác động đến đối tượng nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết, nâng cao về nhận thức pháp luật và lòng tin cũng như thói quen xử sự theo pháp luật. 19 1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số Cũng như các dạng hoạt động xã hội khác, thì hoạt động GDPL cho đồng bào các DTTS luôn chịu sự tác động, ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó bao gồm các yếu tố chủ quan, các yếu tố khách quan. 1.3.1. Các yếu tố chủ quan Có nhiều yếu tố chủ quan, song về cơ bản, các yếu tố chủ quan bao gồm trình độ học vấn và các nhân tố tâm lý. a. Trình độ học vấn Trình độ học vấn có vai trò đặc biệt quan trọng, có ảnh hưởng mạnh mẽ tới hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động của con người. Nó vừa là nền tảng sức mạnh tinh thần, vừa là động lực thúc đẩy mỗi người vươn lên trong cuộc sống, học tập, lao động, sản xuất nhằm làm chủ xã hội và bản thân. Thực tế cho thấy, do nhiều nguyên nhân về lịch sử, kinh tế, xã hội nên nhìn chung trình độ học vấn của đồng bào DTTS còn thấp; đây là một khó khăn thực sự, ảnh hưởng tiêu cực tới chất lượng, hiệu quả GDPL cho đồng bào. Thiếu nền tảng tri thức cần thiết để tiếp thu, lĩnh hội kiến thức pháp luật làm cho chủ thể GDPL mất nhiều thời gian vì phải giải thích lại nhiều lần. Về phía đối tượng, nghe mà không hiểu, không nhớ sẽ nảy sinh tâm lý chán nản, thiếu tự tin, không còn mặn mà tham gia các buổi PBGDPL nữa... Hệ quả của tình trạng này là GDPL không đạt được hiệu quả như mong muốn. b. Các nhân tố tâm lý Chất lượng, hiệu quả GDPL cho các đối tượng, trong đó có đồng bào DTTS dù ít hay nhiều đều chịu ảnh hưởng của các nhân tố tâm lý, quan trọng nhất là quá trình tâm lý bắt chước và quá trình lây lan tâm lý. Quá trình tâm 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan