Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh sơn la...

Tài liệu Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh sơn la

.PDF
84
357
51

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI QUÀNG THỊ DIỆU LINH GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TỪ THỰC TIỄN TỈNH SƠN LA Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TƯỜNG DUY KIÊN HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Học viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tác giả Quàng Thị Diệu Linh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chương 1: MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH SƠN LA ............ 8 1.1. Khái lược về giáo dục pháp luật....................................................................... 8 1.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La ...................................................................................... 20 Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH SƠN LA HIỆN NAY ........................... 29 2.1. Các điều kiện địa lý, tự nhiên, chính trị, kinh tế - xã hội và văn hoá ảnh hưởng đến việc giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La ..................................................................................................................... 29 2.2. Thực trạng giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La trong thời gian qua ...................................................................................... 43 Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH SƠN LA ................................................................................................................ 61 3.1. Yêu cầu đối với việc tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La ...................................................................................... 61 3.2. Phương hướng tăng cương giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La............................................................................................ 63 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La trong thời gian tới ................................... 67 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 77 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BDT Ban Dân tộc BTC Bộ Tài Chính BTP Bộ Tư pháp BGDDT Bộ Giáo dục và đào tạo CHXHCN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa CP Chính phủ CT Chỉ thị DTTS Dân tộc thiểu số GDPL Giáo dục pháp luật HĐND Hội đồng nhân dân HĐPH Hội đồng phối hợp HĐPHPBGDPL Hội đồng phối hợp Phổ biến giáo dục pháp luật NĐ Nghị định NXB Nhà xuất bản PBGDPL Phổ biến giáo dục pháp luật QĐ Quyết định QH Quốc hội SGDĐT Sở Giáo dục và đào tạo TTg Thủ tướng Chính phủ TW Trung ương TT Thông tư THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông UBND Uỷ ban Nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Pháp luật của mỗi quốc gia tuy khác nhau nhưng pháp luật ở đâu cũng đóng một vai trò khá quan trọng, không thể thiếu trong đời sống của con người. Nó là cơ sở pháp lý, là định hướng trước tiên tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước, sau đó là quyền lợi và nghĩa vụ của công dân. Pháp luật ra đời cùng với Nhà nước, là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực Nhà nước, duy trì và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị; Nhà nước ban hành ra pháp luật và bảo đảm cho pháp luật được thực hiện. Ngay từ khi mới ra đời, pháp luật đã trở thành phương tiện đặc biệt quan trọng trong việc quản lý Nhà nước và xã hội, nhưng pháp luật chỉ có thể phát huy được hiệu lực dựa trên cơ sở vững chắc của pháp chế. Vì vậy, quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN) đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức là một yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Nhà nước càng phát triển, xã hội càng hiện đại thì yêu cầu về hiểu biết là thực hiện pháp luật của con người càng cao bởi vì pháp luật không chỉ là phương tiện để nhà nước quản lý có hiệu quả các mặt của đời sống xã hội mà còn là phương tiện thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra ngay sau khi lật đổ ách thống trị của thực dân và phong kiến tay sai, lập nên chính quyền mới của nhân dân. Người kêu gọi nhân dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi và bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công việc nước nhà và nhấn mạnh “phải làm cho cả làng biết chữ, biết đạo đức và trách nhiệm công dân” [18, tr. 328]. Pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng, đặc biệt giáo dục ý thức tiến bộ cho nhân dân trong đó bao gồm ý thức về pháp luật luôn được Người quan tâm, Người kêu gọi: “Mọi người dân Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có 1 kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà” [19, tr. 36]. Để mỗi công dân có thể hiểu biết quyền lợi của mình thì mỗi công dân phải thật sự hiểu biết về pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật là lẽ đương nhiên, là yêu cầu cấp bách của mỗi cá nhân và là đòi hỏi của xã hội. Chính vì vậy, công tác giáo dục pháp luật (GDPL) là một trong những công tác quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt là thời kỳ xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN hiện nay, là một bộ phận của công tác giáo dục, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể; là khâu then chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thực sự đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng công dân trong xã hội. Sau hơn 25 năm thực hiện công cuộc “Đổi mới” do Đảng ta đề xướng và lãnh đạo, chúng ta đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, đã đưa đất nước vượt qua được thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, giải quyết một cách có hiệu quả những vấn đề kinh tế - xã hội. Xây dựng “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”[23, tr. 5]. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: “Pháp huy dân chủ đi đôi với giữ vũng kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục phát luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật”. Vì vậy, công tác GDPL rất được chú trọng và được đưa vào trong hệ thống các trường học, các cơ quan, tổ chức, các đoàn thể nhân dân. Tuy nhiên bên cạnh sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, tại những vùng có đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) sinh sống thì đại bộ phận người dân tộc thiểu số đều thuộc địa bàn đặc biệt khó khăn, bị chia cắt về địa lý, giao thông không thuận lợi, đời sống chưa được nâng cao. Vấn đề bảo đảm quyền của các 2 DTTS luôn được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, pháp huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình; Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển đất nước” [23, tr. 6]. Nhà nước ta đã và đang thực hiện hiệu quả công tác GDPL cho đồng bào các dân tộc thiểu số trên cả nước. Tỉnh Sơn La là một trong những các tỉnh miền núi phía Bắc có điều kiện địa lý đặc thù, khí hậu khắc nghiệp, đường xá quanh co, hiểm trở, nền kinh tế chậm phát triển, đời sống của đồng bào các dân tộc nhất là các đồng bào sống vùng dọc biên giới Việt – Lào còn nhiều khó khăn. Sự “ Khó khăn” của đồng bào các DTTS của tỉnh Sơn La là sự khó khăn về kinh tế, đời sống, khó khăn về nhận thức và hiểu biết nhất là sự tiếp cận, nhận thức và hiểu biết về pháp luật. Lợi dụng điều này các thế lực thù địch đã ra sức tuyên truyền, kích động người dân chống phá cách mạng, phá hoại đoàn kết giữa các dân tộc từ sự thiếu hiểu biết pháp luật của bộ phận các DTTS, ngoài ra tình trạng vi phạm pháp luật của đồng bào DTTS ngày càng tăng cả về số lượng và mức độ nghiêm trọng. Thực trạng trên dù được lý giải thế nào thì cũng phải nhấn mạnh rằng, sự coi nhẹ và thiếu năng động trong công tác GDPL cho đồng bào các dân tộc thiểu số là một trong những nguyên nhân dẫn đến số lượng các vụ việc vi phạm pháp luật ngày càng tăng. Điều đó đã đặt ra cho chúng ta thấy sự cần thiết phải nhận thức được ý nghĩa quan trọng của công tác GDPL cho đồng bào các DTTS nói chung và đồng bào DTTS trên địa bàn tỉnh Sơn La nói riêng. Với những lý do trên, tôi nhận thấy tầm quan trọng của công tác GDPL cho đồng bào các DTTS nói chung và cho đồng bào các DTTS trên địa bàn tỉnh 3 Sơn La là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc xây dựng Nhà nước Pháp quyền XHCN. Chính vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: “Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số từ thực tiễn tỉnh Sơn La” làm đề tài luận văn tốt nghiệp, nhằm đóng góp một phần công sức nhỏ bé trong công tác GDPL nói chung và GDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La nói riêng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Giáo dục pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết trong giai đoạn phát triển của đất nước ta hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý rất quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về GDPL được công bố, như: Những Nghiên cứu về vấn đề lý luận chung về GDPL (gồm: khái niệm, mục đích, đối tượng, hình thức của GDPL) như: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới”, Đề tài khoa học cấp Bộ năm 1994, của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp; “Một số vấn đề về giáo dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay”, Vụ phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ Tư Pháp, Nxb Thanh niên, 1997; “Bàn về hiệu quả giáo dục pháp luật của nước ta hiện nay”, GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế, 2011… Những nghiên cứu về GDPL đối với các đối tượng cụ thể nhằm lý giải những đặc thù và tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiểu quả GDPL cho từng đối tượng như: “Giáo dục pháp luật cho phụ nữ của nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sỹ Luật của Phạm Thị Ngọc Minh, năm 2012; “Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cơ quan hành chính ở thành phố Hà Nội hiện nay”, Luật văn thạc sỹ Luật của Phạm Kim Dung, 2011; “Giáo dục pháp luật cho phạm nhân trong các trại giam ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ Luật của Ngô Văn Trù, 2015; “ Giáo dục pháp luật cho nhân dân các dân tộc ít người ở tỉnh Đắk Lắk – Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ Luật của Phạm Hàn Lâm, 2001… Nghiên cứu giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với các nội dung khác (với ý thức pháp luật, lối sống theo pháp luật, với tăng cường pháp chế xã hội 4 chủ nghĩa, với việc hình thành nhân cách ở thanh niên…) như: “Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật cho sinh viên Việt Nam hiện nay (Qua khảo sát thực tế ở Hà Tĩnh), Luận văn thạc sỹ Triết học của Phạm Thị Thanh Huyền, 2013; “Giáo dục ý thức pháp luật với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”, Luận án phó tiến sỹ Luật học của Trần Ngọc Đường, 1988… Nhìn chung, từ trước đến nay các công trình nghiên cứu khoa học của tập thể, cá nhân, các bài viết của các tác giả nghiên cứu về GDPL đã đóng góp rất nhiều các vấn đề cơ bản cả về vấn đề lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau về vấn đề GDPL. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống về GDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu có hệ thống vấn đề GDPL cho đồng bào các DTTS từ thực tiễn của tỉnh Sơn La. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn xây dựng cơ sở lý luận của giáo GDPL cho đồng bào các DTTS. Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng GDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác GDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Xuất phát từ mục đích nghiên cứu, luận văn có những nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận về GDPL, phân tích những quan niệm khác nhau về GDPL và vai trò của GDPL, làm rõ cơ sở lý luận của GDPL cho đồng bào các DTTS ở tỉnh Sơn La. - Làm rõ mục đích, vai trò và đặc điểm chủ yếu của GDPL cho đồng bào các DTTS. - Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về GDPL cho đồng bào các DTTS ở tỉnh Sơn La. Từ đó rút ra những kinh nghiệm thực tiễn của việc GDPL 5 cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La nói riêng cũng như đồng bào các DTTS ở Việt Nam. - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, xây dựng luận cứ khoa học, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng GDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở tỉnh Sơn La. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tập trung nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở tỉnh Sơn La với các nội dung: cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhầm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở tỉnh Sơn La. Địa điểm nghiên cứu: tỉnh Sơn La, là tỉnh miền núi có 12 dân tộc cùng sinh sống, trong đó có 11 dân tộc thiểu số (bao gồm các dân tộc: Thái, Mông, Mường, Dao, Xinh mun, Khơ mú, La Ha, Kháng, Lào, Tày, Hoa). Thời điểm nghiên cứu: từ năm 2009 đến nay (căn cứ Quyết định số 554/QĐ-TTg ngày 04/5/2009 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Đề án tuyên truyền phổ biến pháp luật cho người dân nông thôn và đồng bào các DTTS). 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Phương pháp luận của luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, về công tác GDPL nói chung và đặc biệt là công tác GDPL cho đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La. 6 Phương pháp nghiên cứu của luận văn là sử dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo tổ chức hoạt động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương trong việc GDPL đối với đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp một phần nhỏ tài liệu hoạch định chính sách đối với đồng bào các DTTS tại tỉnh Sơn La. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên cứu, tuyên truyền GDPL… 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số lý luận của việc Giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La. Chuơng 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La hiện nay Chương 3: Phương hướng và giải pháp cơ bản tăng cường giáo dục pháp luật cho đồng bào các dân tộc thiểu số tại tỉnh Sơn La. 7 Chương 1 MỘT SỐ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI TỈNH SƠN LA 1.1. Khái lược về giáo dục pháp luật 1.1.1 Khái niệm chung về giáo dục pháp luật Khái niệm về giáo dục pháp luật ở nước ta cho đến nay đã được nghiên cứu một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống. Có nhiều quan điểm khác nhau đưa ra khái niệm về giáo dục pháp luật. Vì vậy, cần phải hiểu một cách đúng đắn nhất về GDPL để từ đó hiểu đúng bản chất của GDPL. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Giáo dục” là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [15, tr. 293]. Giáo dục là là tất cả những gì được truyền tải và tác động lên cách tư duy, cách hành xử, làm việc của mỗi con người trong chúng ta. “Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những phẩm chất, đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội” [13, tr. 179]. “Pháp luật” là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước, là yếu tố bảo đảm sự ổn định và trật tự của xã hội. “Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống những quy tắc xử sự do Nhà nước XHCN ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và đại đa số nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, được bảo đảm thực hiện bằng bộ máy Nhà nước và phương thức tác động của Nhà nước, trên cơ sở giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế của Nhà nước nhằm xây dựng chế độ XHCN” [36, tr. 4]. 8 Từ khái niệm về giáo dục và pháp luật, xét ở một góc độ nhất định, GDPL được khái niệm là hoạt động tác động có tổ chức, có mục đích có tính định hướng tác động lên các đối tượng giáo dục nhằm làm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm đối với pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành. GDPL là một khái niệm rộng bao gồm cả quá trình nâng cao tri thức pháp luật cho đối tượng và bằng mọi cách (thuyết phục, nêu gương, ám thị…) hình thành tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tượng, từ đó nâng cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối tượng. Giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật. Sự khẳng định vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội gắn liền với quá trình không ngừng nâng cao ý thức và tích cực tham gia của mọi tầng lớp nhân dân trong việc bảo vệ pháp luật. Tăng cường pháp chế XHCN (mà một trong những yếu tố cấu thành là sự phát triển của nhận thức pháp luật và văn hoá pháp lý của nhân dân), mở rộng và hoàn thiện nền dân chủ sẽ không có ý nghĩa khi không thực hiện được một cách toàn diện, hiệu quả công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam đòi hỏi công dân phải có tri thức khoa học, có hiểu biết về pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật. Thực tế hiện nay cho thấy, tình hình vi phạm pháp luật trong xã hội ngày càng tăng. Mặt khác, việc mở cửa nền kinh tế cũng có những ảnh hưởng, tác động đến truyền thống, đạo đức xã hội, một số nét đẹp trong đạo đức truyền thống bị phá vỡ, đạo đức xã hội có biểu hiện xuống cấp, ý thức pháp luật trong dân chúng chưa cao, việc tuân thủ pháp luật chưa được coi trọng. Xã hội càng phát triển, nhu cầu hiểu biết pháp luật và vận dụng pháp luật trong các hoạt động kinh tế hay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân trong xã hội càng lớn. Do đó, việc hiểu khái niệm và bản chất của GDPL rất quan trọng; đồng thời, GDPL là việc làm đúng đắn, cần thiết và cấp bách đáp ứng đòi hỏi khách quan của sự phát triển của xã hội nhằm nâng cao dân trí pháp 9 lý và thực hiện chủ trương của Đảng đã đề ra trong các Nghị quyết hội nghị Trung ương. 1.1.2. Mục đích, yêu cầu của giáo dục pháp luật 1.1.2.1. Mục đích của giáo dục pháp luật Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”. GDPL được xem là cầu nối giữa đưa các chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân. Vì vậy, vấn đề xác định được mục đích của GDPL có ý nghĩa quan trọng, nhằm xây dựng ý thức pháp luật trong nhân dân. Dựa trên các nghiên cứu khoa học cũng như trong thực tiễn, GDPL có những mục đích cơ bản như sau: - Thứ nhất, Nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng (Mục đích nhận thức): Không phải lúc nào mọi người trong xã hội cũng chủ động tìm hiểu, quan tâm, đồng tình ủng hộ và nghiêm túc thực hiện pháp luật của Nhà nước. Mặc dù, pháp luật được coi là phương tiện để công dân thực hiện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khỏi sự xâm hại của người khác, kể cả từ một số cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước. Trong xã hội, pháp luật cũng được một số người dân tìm hiểu, quan tâm và nắm bắt xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của bản thân như học tập, nghiên cứu, kiện tụng hay nhu cầu sản xuất kinh doanh của họ. Cũng có những người luôn theo sát và tìm hiểu những quy định pháp luật mới được ban hành nhưng không nhiều và sự hiểu biết rõ về quy định pháp luật chưa sâu. Trong khi đó, do nhu cầu phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật phải được thực hiện và liên tục. Do đó, số đông quần chúng nhân dân chưa có điều kiện tiếp cận pháp luật cũng như có tiếp cận cũng chưa hiểu biết hết về pháp luật. Nếu pháp luật không được nhân dân biết đến và hiểu đúng thì pháp luật vẫn không đi vào cuộc sống và phát huy đúng vai trò của pháp luật trong Nhà nước pháp chế XHCN. Chính vì vậy, mục đích của GDPL là nâng cao hiểu biết pháp luật cho đối tượng là một trong những mục đích quan trọng. GDPL là phương tiện truyền tải 10 những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy định pháp luật đến với người dân, giúp cho họ hiểu biết, nắm bắt kịp thời pháp luật; là phương tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho nhân dân. -Thứ hai, Hình thành lòng tin vào pháp luật của đối tượng (Mục đích cảm xúc): Để nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật không thể chỉ dùng biện pháp cưỡng chế mà phải tạo được lòng tin, sự tin tưởng của mọi người dân vào những quy định của pháp luật. Đây là mục đích rất quan trọng, vì nếu không có sự tôn trọng, lòng tin vào pháp luật cũng như các cơ quan bảo vệ pháp luật thì người dân rất dễ bị thế lực xấu kích động đứng lên chống phá nhà nước hoặc có những hành động vi phạm pháp luật. Tạo dựng lòng tin vào pháp luật cho mỗi người dân trong xã hội đòi hỏi sự kết hợp của nhiều yếu tố. Một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng là GDPL để mọi người hiểu biết về pháp luật, hiểu biết về quá trình thực hiện áp dụng pháp luật. Từ đó, mọi người sẽ hiểu biết đúng về quyền và lợi ích của bản thân trong xã hội và sẽ đồng tình ủng hộ pháp luật. -Thứ ba, Nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật của đối tượng (Mục đích hành vi): Tự giác là tự mình hiểu mà làm, không cần nhắc nhở, đốc thúc. [19, tr. 145]. Xây dựng ý thức tự giác chấp hành luật pháp của người dân đang là vấn đề được Nhà nước và xã hội rất quan tâm, bởi việc chấp hành pháp luật là điều kiện tiên quyết để xã hội vận hành có trật tự, kỷ cương và là điều kiện quyết định góp phần phát triển bền vững đất nước. Trong xã hội hiện đại, ý thức chấp hành pháp luật là một trong các biểu hiện của lối sống có văn hóa. Ý thức pháp luật của người dân được hình thành từ hai yếu tố là tri thức pháp luật và tình cảm pháp luật. Tri thức pháp luật là sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể có được qua việc học tập, tìm hiểu pháp luật, qua quá trình tích luỹ kiến thức của hoạt động thực tiễn và công tác. 11 Tình cảm pháp luật chính là trạng thái tâm lý của các chủ thể khi thực hiện và áp dụng pháp luật, họ có thể đồng tình ủng hộ với những hành vi thực hiện đúng pháp luật, lên án các hành vi vi phạm pháp luật. Sự tự giác ý thức pháp luật có được từ kết quả của nhiều yếu tố, trong đó giáo dục kết hợp với răn đe, xử lý, giữ vai trò quan trọng giúp mỗi cá nhân chấp hành luật pháp một cách nghiêm túc. Tất nhiên, để việc chấp hành pháp luật trở thành ý thức tự giác của phần lớn nhân dân, còn cần tới sự gương mẫu chấp hành của những người "cầm cân nảy mực", sự công bằng và minh bạch trong thi hành pháp luật, có sự hỗ trợ và kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, đoàn thể, khu dân phố và có sự tham gia của cả cộng đồng. Và hơn hết, mỗi người cần xác định rõ trách nhiệm của mình, để từng bước hình thành và xây dựng nếp sống tự giác chấp hành pháp luật, coi đó là tiêu chí của lối sống văn hóa từ trong chính gia đình, làng xóm, tổ dân phố, khu dân cư, nơi làm việc của mình. - Thứ tư, GDPL góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý Nhà nước, quản lý xã hội: Vai trò quan trọng trong công tác GDPL bắt nguồn từ chính vai trò và giá trị xã hội của pháp luật là phương tiện hàng đầu để quản lý Nhà nước, quản lý xã hội. GDPL giúp cho mọi người có tri thức pháp lý, tình cảm pháp luật đúng đắn và hành vi hợp pháp, tạo tiền đề cho việc sử dụng quyền lực nhà nước, tăng cường pháp chế, phát huy dân chủ và quyền tự do của mỗi người. GDPL đồng thời tạo ra khả năng đổi mới các quan hệ xã hội trong môi trường quản lý nhà nước bằng pháp luật, hình thành các điều kiện và nhân tố thuận lợi cho quá trình quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tạo ra khả năng phát hiện và loại trừ những hiện tượng tiêu cực, chống đối pháp luật diễn ra trong quá trình quản lý. 1.1.2.2. Yêu cầu của giáo dục pháp luật - Yêu cầu chung đối với việc phổ biến, giáo dục pháp luật Đề cao tính Đảng trong giáo dục pháp luật: Pháp luật và đường lối chính sách của Đảng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Pháp luật bao giờ cũng là sự 12 thể chế hoá đường lối chính sách của Đảng, đường lối chính sách của Đảng là “linh hồn” của pháp luật. Do đó, GDPL cũng chính là việc tuyên truyền giáo dục đường lối, chính sách của Đảng. Pháp luật được thực hiện nghiêm minh, chính xác và đầy đủ thì uy tín lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định. Công tác GDPL bao giờ cũng phải đề cao tính Đảng. Sự lơ là, coi thường và không quán triệt đầy đủ tính Đảng sẽ rơi vào chủ quan duy ý chí, phiến diện. Bởi vì đường lối chính sách của Đảng bao giờ cũng phản ánh quy luật khách quan của quá trình vận động xã hội, nêu lên những yêu cầu, đòi hỏi và đường lối phát triển của kinh tế, văn hoá xã hội. Pháp luật cụ thể hoá đường lối đó, nhưng không phải là cụ thể hoá tất cả, chi tiết hoá đầy đủ thành các quy định để điều chính các quan hệ xã hội. Mặt khác, các quan hệ xã hội luôn biến đổi vận động, do đó việc thực hiện và áp dụng pháp luật và việc tuyên truyền giáo dục pháp luật phải lấy đường lối chính sách của Đảng là kim chỉ nam cho các hoạt động đó. Muốn đề cao tính Đảng trong công tác giáo dục pháp luật thì phải hiểu biết, quán triệt đầy đủ đường lối chính sách của Đảng đối với từng thời kỳ, từng vấn đề và đường lối chung xây dựng kinh tế, xã hội. Đường lối chính sách của Đảng cũng như pháp luật là hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, phản ánh cơ sở kinh tế, do đó nó cũng thường xuyên được sửa đổi, bổ sung và có quá trình vận động như các hiện tượng khác. Chính vì vậy, GDPL và tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng luôn phải bắt nhịp được với những thay đổi trong đời sống chính trị - pháp luật của đất nước. Bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản: GDPL không giống việc tuyên truyền phổ biến giáo dục về văn hoá văn nghệ. Khi tuyên truyền, phổ biến giáo dục về văn hoá văn nghệ, người ta có thể nhân cách hoá, hư cấu thành những hình tượng nghệ thuật để phục vụ cho mục đích của họ. GDPL khác với các loại hình phổ biến giáo dục khác ở chỗ nội dung được GDPL, là những quy tắc xử sự được Nhà nước ban hành, có cấu trúc chặt 13 chẽ từ câu chữ tới nội dung và yêu cầu của các quy định đó. Do đó, GDPL phải tuân thủ các nguyên tắc nhất định, bảo đảm tính khoa học, tính chuẩn xác, truyền đạt trung thành văn bản. GDPL không chỉ thông tin cho đối tượng cần truyền đạt được biết các văn bản pháp luật và những điều luật mới được ban hành mà còn phải giải thích về các văn bản pháp luật và các điều luật đó. Một trong những yêu cầu đã trở thành nguyên tắc trong giải thích pháp luật là phải bảo đảm tính khoa học. Tính khoa học trong giải thích pháp luật. - Yêu cầu đối với người làm công tác giáo dục pháp luật Có kiến thức pháp lý nhất định: GDPL là hoạt động chính đưa các quy định pháp luật vào cuộc sống người dân. Trong xã hội, các đối tượng được GDPL rất đa dạng về tri thức, trình độ và tầm nhận thức về pháp luật. Mỗi đối tượng cụ thể cần có nội dung và hình thức GDPL phù hợp, giúp đối tượng hiểu và thực hiện được tốt. Chính vì vậy, đòi hỏi người làm công tác GDPL cần phải có kiến thức pháp lý nhất định để có hình thức GDPL phù hợp với từng đối tượng tuyên truyền, GDPL và tình hình thực tiễn. Có nhiệt tình, tâm huyết, tận tuỵ với công tác GDPL: GDPL là một hoạt động mang tính chất xã hội, đối tượng phục vụ của GDPL là quảng đại quần chúng nhân dân, do đó một trong các yêu cầu đầu tiên và hết sức quan trọng của người làm công tác GDPL là có tinh thần nhiệt tình, tận tuỵ với công tác. Tinh thần nhiệt tình trong công tác GDPL được thể hiện là không quản ngại khó khăn, gian khổ, luôn phấn khởi, hăng say trong công tác, lấy công tác GDPL là niềm vui, là niềm say mê; nó không đơn thuần là trách nhiệm được giao phó mà việc GDPL được cho nhiều người, nhiều đối tượng với chất lượng và hiệu quả là niềm vui của người làm công tác GDPL. Người làm công tác GDPL còn cần phải tận tuỵ với công việc, luôn phấn khởi phục vụ cho mọi đối tượng, không quản ngại đối với những vấn đề mới, văn bản pháp luật mới; bản thân luôn phải cố gắng học tập, phấn đấu vươn lên; 14 tích luỹ kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, kiến thức chuyên ngành, tài liệu, số liệu, dẫn chứng minh hoạ để hoàn thành công tác được giao. Có khả năng nói và viết: GDPL là truyền đạt thông tin pháp luật và giải thích pháp luật cho người khác, chính vì thế ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết đóng vai trò rất quan trọng cho sự thành công của người làm công tác GDPL. Sự kết hợp giữa khả năng nói và viết trong người làm công tác GDPL sẽ đem lại hiệu quả cao trong công tác GDPL. Có khả năng hoà đồng và giao tiếp: Làm công tác GDPL là làm công tác vận động quần chúng, nó không thuần tuý là đi thông tin và giải thích pháp luật cho các đối tượng được tuyên truyền. Trước khi thực hiện công tác GDPL, người làm công tác GDPL cần phải biết đối tượng được GDPL là ai, họ cần gì, công việc của họ ra sao, họ đang cần lĩnh vực pháp luật nào và mình phải quan hệ công tác với họ như thế nào. GDPL là một hoạt động mang tính hai chiều, không đơn thuần là sự truyền đạt thông tin và giải thích pháp luật của người làm công tác GDPL có mà sự phản hồi của đối tượng được tuyên truyền, giáo dục. Chính vì vậy, đòi hỏi người làm công tác GDPL phải hội đủ kiến thưc cần thiết cũng như đáp ứng các yêu cầu của người được GDPL. 1.1.3. Chủ thể và đối tượng của giáo dục pháp luật 1.1.3.1. Chủ thể của giáo dục pháp luật Theo lý luận giáo dục học thì chủ thể giáo dục là thầy cô giáo và tất cả những người làm công tác giáo dục khác. Vận dụng vào giáo dục pháp luật, có thể hiểu chủ thể của giáo dục pháp luật là tất cả những người có chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện các mục đích giáo dục pháp luật cho các đối tượng của GDPL. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí, nhiệm vụ, yêu cầu và trình độ, kỹ năng GDPL khác nhau. 15 Chủ thể chuyên nghiệp GDPL là những người có chức năng, nhiệm vụ chủ yếu, trực tiếp của họ là thực hiện mục đích, nội dung GDPL (giảng viên luật, các báo cáo viên, tuyên truyền về pháp luật…) Chủ thể không chuyên nghiệp GDPL là những người mà chức năng, nhiệm vụ chính không phải là GDPL, nhưng một trong các nhiệm vụ của họ là thông qua hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ để thực hiện mục đích GDPL (Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp…) Các loại chủ thể đều có các hình thức, phương thức và phương pháp tiến hành hoạt động GDPL khác nhau. 1.1.3.2. Đối tượng (khách thể) của giáo dục pháp luật Khách thể được quan niệm là “đối tượng chịu sự chi phối của hành động, trong quan hệ đối lập với đối tượng gây ra hành động gọi là chủ thể” [42]. Từ khái niệm chung đó có thể đồng nhất khách thể với đối tượng chịu sự tác động. “Khách thể của (đối tượng) của giáo dục pháp luật là những cá nhân, nhóm cộng đồng xã hội cùng với ý thức và hành vi pháp luật của họ”. Tại Mục 2, Chương II- Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 có chỉ ra một số đối tượng đặc thù của phổ biến GDPL, gồm: Người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân; người lao động trong các doanh nghiệp; nạn nhân bạo lực gia đình; người khuyết tật; người đang chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc và người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người bị phạt tù được hưởng án treo. [22, tr.10]. GDPL là giáo dục cho tất cả người dân trong xã hội. Quá trình GDPL thực chất là quan hệ xã hội giữa một bên là người giáo dục (chủ thể) và một bên là người được giáo dục (khách thể hay đối tượng). Mối quan hệ này có tác động 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan