ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
HOÀNG THỊ DUNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------
HOÀNG THỊ DUNG
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Vũ Hảo
Hà Nội – 2014
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện. Các số
liệu, kết quả phân tích trong luận văn là hoàn toàn trung thực, bảo đảm tính khách
quan. Các tài liệu tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách
nhiệm về nghiên cứu của mình.
Tác giả
Hoàng Thị Dung
iii
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được thực hiện và hoàn thành với sự giúp đỡ và hướng dẫn của các
thầy, cô trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội; bạn bè, đồng nghiệp,
người thân trong gia đình cùng với sự giúp đỡ của các anh chị Thành Đoàn Hà Nội
và cán bộ cơ quan UBND quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn Hà Nội, Thành đoàn Hà Nội và cán bộ cơ quan UBND quận Thanh Xuân,
thành phố Hà Nội đã quan tâm động viên, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu và thực hiện Luận văn; qua đó giúp tôi tập dượt với công tác nghiên cứu về
lĩnh vực mà tôi tâm huyết.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Nguyễn Vũ Hảo - Giảng viên
khoa Triết học trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội, người đã tận
tâm chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình xây dựng đề cương và hoàn thành Luận văn.
Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam là
một vấn đề rất khó, từ lý luận đi vào thực tiễn đã nảy sinh nhiều vấn đề nan giải, do
vậy chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Rất mong
nhận được sự đóng góp chân thành của các thầy, cô, các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng
nghiệp để tôi hoàn thiện, nâng cao chất lượng luận văn, tiếp tục nghiên cứu nâng cao
hiệu quả công tác đóng góp cho thực tiễn.
Xin chân thành cảm ơn.
Tác giả
Hoàng Thị Dung
iv
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO
SINH VIÊN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .............. 11
1.1. Giáo dục đạo đức cho sinh viên ....................................................................... 11
1.1.1. Một số quan niệm về đạo đức..................................................................... 11
1.1.2. Một số quan niệm về giáo dục đạo đức...................................................... 14
1.1.3. Sinh viên - đối tượng của giáo dục đạo đức hiện nay ............................... 17
1.1.4. Chủ thể và phương thức giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay........... 21
1.2. Khái niệm "Hội nhập" và các hình thức hội nhập hiện nay .......................... 26
1.2.1. Khái niệm "Hội nhập" .............................................................................. 26
1.2.2. Các hình thức hội nhập hiện nay .............................................................. 29
1.3. Bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay: những tác động tích cực,
thách thức và những yêu cầu đối với đạo đức sinh viên ........................................ 30
1.3.1. Những tác động tích cực đối với đạo đức sinh viên trong bối cảnh
hội nhập ở Việt Nam hiện nay ................................................................................. 31
1.3.2. Những thách thức được đặt ra cho đạo đức sinh viên trong bối cảnh
hội nhập ở Việt Nam hiện nay ................................................................................. 34
1.3.3. Những yêu cầu đối với đạo đức sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở
Việt Nam hiện nay .................................................................................................... 38
1.4. Mục đích và nội dung của giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh
hội nhập ở Việt Nam hiện nay ................................................................................ 43
1.4.1. Mục đích của giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập
ở Việt Nam hiện nay................................................................................................. 43
1.4.2. Nội dung của giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập
ở Việt Nam hiện nay................................................................................................. 44
1
Chương 2: GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN TRONG BỐI CẢNH
HỘI NHẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP............... 58
2.1. Thực trạng của giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở
Việt Nam hiện nay ................................................................................................... 58
2.1.1. Những thành tựu của giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh
hội nhập hiện nay..................................................................................................... 58
2.1.2. Những hạn chế trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trong
bối cảnh hội nhập hiện nay ...................................................................................... 77
2.2. Những giải pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập
ở Việt Nam hiện nay ................................................................................................ 85
2.2.1. Đổi mới nhận thức, nâng cao sự lãnh đạo của Đảng và nhà nước
thông qua các chính sách phát triển giáo dục hiện nay........................................... 85
2.2.2. Đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố của giáo dục đạo đức cho
sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay theo hướng phát triển
nhân cách, năng lực của người học......................................................................... 88
2.2.3. Kết hợp chặt chẽ gia đình, nhà trường và xã hội trong giáo dục
đạo đức cho sinh viên ............................................................................................... 91
2.2.4. Thúc đẩy ý thức tự giác tự rèn luyện đạo đức cho sinh viên hiện nay ...... 95
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 101
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là một trong những hình thái ý thức xã hội, đạo đức được xem như một tấm
gương phản ánh khá trung thực điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội và bị qui
định bởi những điều kiện sinh hoạt vật chất ấy. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất
định, đạo đức cũng có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của đời sống kinh tế
xã hội. Lịch sử nhân loại đã chứng kiến sự suy vong của các vương triều hay chế
độ xã hội bởi chính từ sự suy thoái, băng hoại về đạo đức và lối sống của những
người cầm quyền.
Là những người con đất Việt, chúng ta cảm thấy tự hào về những trang sử
hào hùng và vẻ vang của dân tộc Việt Nam, về truyền thống kiên cường, bất khuất
của người Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử. Ở một dân tộc phải trải qua biết
bao cuộc chiến tranh khốc liệt, hòa bình có những lúc chỉ được tính bằng ngày bằng
tháng, tự do phải đổi bằng biết bao xương máu, thì hạnh phúc càng trở nên thiêng
liêng và vô giá. Chính những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đã làm nên những trang sử
hào hùng và kỳ diệu của người dân Việt Nam để hôm nay nước ta có thể vững vàng
phát triển kinh tế, từng bước hội nhập với các quốc gia trên thế giới.
Quá trình hội nhập với thế giới tạo điều kiện cho các cá nhân phát huy khả
năng và thế mạnh của mình, trong đó có lực lượng sinh viên là lớp người có trình
độ, có tri thức, đầy nhiệt huyết, nhạy bén trong việc tiếp thu cái mới. Song quá trình
hội nhập cũng đặt ra những thách thức không nhỏ về nguồn nhân lực chất lượng cao
để đáp ứng nhu cầu phát triển của thời đại. Tuy nhiên, sinh viên không chỉ là lớp
người chịu nhiều ảnh hưởng tích cực mà còn cả những tác động tiêu cực của đời
sống xã hội, của cơ chế thị trường và việc mở rộng hội nhập quốc tế. Trước những
thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội, của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc
tế, thang giá trị đạo đức của con người Việt Nam cũng có nhiều biến đổi. Điều đó
đặt ra vấn đề làm thế nào để sinh viên, những người “chủ tương lai của đất nước”
3
được giáo dục và định hướng theo những giá trị đạo đức đúng đắn để có thể thực
hiện được vai trò, nhiệm vụ của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
Việt Nam sao cho có thể sớm “sánh vai các cường quốc năm châu” như Chủ tịch
Hồ Chí Minh từng mong ước.
Là một tầng lớp xã hội đặc thù, năng động, sáng tạo trong học tập, có ý chí
vươn lên, thích tìm tòi cái mới và dễ thích nghi với cái mới.., đại bộ phận sinh viên
say mê trong học tập, chịu khó trong trau dồi, rèn luyện đạo đức, phẩm chất, nhân
cách để trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn một
bộ phận không nhỏ sinh viên sống thực dụng, xa hoa, lãng phí, thậm chí có lối sống
xa rời truyền thống đạo lý của dân tộc, bởi vì kinh nghiệm và vốn sống còn hạn chế,
sự trải nghiệm ở họ chưa nhiều.
Thực tế cũng cho thấy, quá trình giáo dục đạo đức cho sinh viên trong những
năm qua có nhiều đổi mới về nội dung, phương pháp, chương trình của một số môn
học, hình thức dạy và học cũng từng bước được cải tiến, hình thức đào tạo cũng
ngày càng da dạng. Tuy nhiên Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam cũng
chỉ rõ: “Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới
chậm…Quản lý nhà nước về giáo dục còn bất cập, xu hướng thương mại hóa và sa
sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở hành nỗi
bức xúc của xã hội” [13, tr.167-168].
Để khắc phục sự suy thoái về đạo đức trong một bộ phận sinh viên, không
ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức, đào tạo các thế hệ sinh viên Việt Nam kế tục và
phát huy nguyên khí quốc gia với tính cách là lực lượng bổ sung quan trọng cho đội
ngũ trí thức trong tương lai - nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp
phát triển đất nước trong thời kỳ mới, thì việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt
Nam trong quá trình hội nhập là hết sức hệ trọng và cần thiết hiện nay đang đặt ra
nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cho giáo dục và toàn xã hội. Vì vậy tôi chọn “Giáo
dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài luận văn thạc sỹ triết học của mình.
4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề giáo dục đạo đức nói chung và giáo dục đạo đức cho sinh viên trong
bối cảnh hội nhập ở nước ta nói riêng đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều công trình được công bố với những mức độ,
cách tiếp cận khác nhau. Đã có một số đánh giá về cơ sở cơ sở lý luận và thực tiễn,
quan điểm và giải pháp đổi mới công tác giáo dục đạo đức của Đảng hiện nay. Tuy
nhiên có thể kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
* Sách chuyên khảo tham khảo
Liên quan đến vấn đề giáo dục, cuốn sách “Giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
đổi mới, chủ trương, thực hiện, đánh giá”, Ban Khoa giáo Trung ương, NXB Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nôi, 2002 bao gồm các văn kiện của Đảng, một số bài
phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tập trung đánh giá những
thành tựu cũng như những hạn chế của ngành giáo dục, đồng thời chỉ ra phương
hướng và nhiệm vụ trong thời gian tới giúp chúng ta nắm vững đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục và đào tạo ở nước ta
trong thời kỳ đổi mới.
Cuốn sách “Những vấn đề giáo dục hiện nay, quan điểm và giải pháp”
(2008) của nhiều tác giả, Nhà Xuất bản Tri thức bao gồm một số bài viết quan trọng
về các vấn đề mấu chốt và cấp bách của giáo dục do các tác giả trong và ngoài nước
viết đã hoặc chưa được công bố trên các phương tiện truyền thông.
Sinh viên là một bộ phận của thanh niên, cũng có không ít công trình lớn
nghiên cứu tới vấn đề thanh niên hiện nay. Cuốn sách “Thanh niên và lối sống của
thanh niên Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế” do PGS.TS
Phạm Hồng Tung chủ trì. Cuốn sách là kết quả của việc nghiên cứu đề tài cấp Nhà
nước được xuất bản năm 2011 tại Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia. Cuốn sách tập
trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về thanh niên và lối sống của thanh niên;
khảo sát và phân tích tình hình thanh niên Việt Nam và lối sống của thanh niên
trong hơn hai thập kỷ đổi mới đất nước, thông qua đó chỉ ra những đặc trưng cơ bản
của thanh niên và đặc trưng lối sống của thanh niên; xu hướng biến đổi của thanh
5
niên trong hội nhập quốc tế, chỉ ra những yếu tố tác động cơ bản và đưa ra các giải
pháp nhằm xây dựng lối sống của thanh niên Việt Nam phù hợp với tiến trình đổi
mới của đất nước.
Cuốn sách “Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào
thanh thiếu niên giai đoạn 2007-2012” do PGS.TS Nguyễn Đắc Vinh - Ủy viên Dự
khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Bí thư thứ
nhất Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh làm chủ biên được xuất
bản năm 2012. Cuốn sách tiếp cận các vấn đề liên quan đến thanh niên và đặt nó
trong tương quan chung của xã hội, so sánh với các giai đoạn trước để chỉ ra những
biến đổi, chiều hướng biến đổi của các vấn đề; những yếu tố tác động đến sự biến
đổi đó; tổng kết xác định những vấn đề nổi bật về tình hình thanh niên trong giai
đoạn 5 năm qua; đã đánh giá hiệu quả công tác, tác động của hoạt động Đoàn đến
thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng. Đồng thời nghiên cứu những cơ sở lý
luận, thực tiễn từ đó đề xuất mục tiêu, phương hướng, giải pháp công tác Đoàn
trong nhiệm kỳ tới, khuyến nghị một số vấn đề với Đảng, Nhà nước và tổ chức
Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Cuốn sách là kết quả của việc nghiên cứu
Đề tài cấp bộ cùng tên.
Các công trình trên là bức tranh khái quát về vấn đề giáo dục và lối sống của
thanh thiếu niên trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên do chủ đích của các tác giả, mà
các cuốn sách đều chưa đi sâu phân tích, nghiên cứu một cách chi tiết và có hệ
thống về vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
* Luận văn, luận án
Dưới một góc độ khác Luận án tiến sĩ triết học “Giáo dục đạo đức đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”
của tác giả Trần Sỹ Phán (1996) tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đi
sâu phân tích đặc điểm nhân cách sinh viên, trong đó khẳng định “nhân cách sinh
viên là nhân cách chưa hoàn chỉnh, đang trong giai đoạn định hình”, vì vậy, sự biến
đổi đạo đức diễn ra ở tầng lớp xã hội đặc thù này là một tất yếu. Trên cơ sở đó tác
giả tập trung phân tích vai trò của giáo dục - nhất là giáo dục đạo đức - đối với sự
hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6
Luận án “Ý thức đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay” của tác giả Võ Minh
Tuấn tại Đại học Khoa học xã hội và nhân văn năm 2004 và Luận án “Vấn đề xây
dựng đạo đức mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của tác giả
Trịnh Duy Huy năm 2007 tại Viện Triết học - Viện khoa học Xã hội Việt Nam lại
làm sáng tỏ sự biến đổi nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường, và tính cần thiết phải xây dựng, giáo dục nhân cách đạo đức sinh viên trong
điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay.
Bên cạnh những công trình trên, những công trình đi sâu phân tích về đạo
đức truyền thống Việt Nam cũng có ý nghĩa quan trọng tạo ra một cái nhìn toàn
diện và sâu sắc trong quá trình giáo dục đạo đức nói chung cho sinh viên. Trong đó
phải kể đến các luận án: Luận án “Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong
xây dựng nhân cách con người Việt Nam hiện nay” của tác giả Cao Thu Hằng năm
2011 tại Học viện khoa học Xã hội - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam; Luận án
“Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt
Nam hiện nay” của tác giả Ngô Thị Thu Ngà năm 2011 tại Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh đã cho chúng ta một cách nhìn khái quát về vai trò của các giá trị
đạo đức truyền thống trong đời sống con người, trong quá trình xây dựng đạo đức
mới, trên cơ sở đó khẳng định sự cần thiết phải giáo dục tình cảm đạo đức cho mọi
đối tượng xã hội.
* Bài báo khoa học
Liên quan đến đề tài luận văn, có thể kể đến một số bài báo của các tác giả:
Bài báo “Những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tình trạng suy thoái đạo đức ở
nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Hà đăng tại Tạp chí Triết học, số 3
(2002); Bái báo“Tác động của toàn cầu hóa đến đạo đức sinh viên Việt Nam hiện
nay” của tác giả Võ Minh Tuấn đăng tại Tạp chí Triết học, số 4 (2004); Bài báo
“Hội nhập quốc tế: cơ hội và thách thức đối với giá trị truyền thống trong điều kiện
toàn cầu hóa” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đăng tại Tạp chí Triết học, số 8
(2004); Bài báo “Toàn cầu hóa và nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống cho con
người Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền đăng tại Tạp chí
Triết học, số 2 (2007).
7
Trong các bài viết này, các tác giả tập trung phân tích sự chuyển dịch thang
giá trị đạo đức xã hội Việt Nam những năm gần đây dưới tác động của điều kiện
kinh tế xã hội, nhất là xu thế hội nhập và toàn cầu hoá; phân tích ảnh hưởng của hội
nhập quốc tế tới nhiều phương diện như: lối sống, văn hóa, đạo đức, tư duy… đặc
biệt là đối với thế hệ trẻ và đề ra một số giải pháp phát huy những mặt tích cực và
hạn chế mặt tiêu cực.
Nhìn chung, các công trình trên đã có đóng góp nhất định trong việc nêu rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về yêu cầu của việc giáo dục đạo đức trong bối
cảnh hội nhập ở nước ta hiện nay. Đã làm sáng tỏ ở mức độ nhất định tác động của
bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế tới sự biến đổi của đạo đức xã hội ở nước
ta trong quá trình đổi mới, đề ra một số phương hướng để đẩy mạnh quá trình giáo
dục đạo đức trong bối cảnh hội nhập. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập. Những đề tài trên đã cung cấp cơ sở khoa học lý luận và
thực tiễn quan trọng để tác giả đi sâu nghiên cứu những vấn đề mà đề tài của tác giả
đặt ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là: phân tích làm rõ những vấn đề lý luận và thực
trạng việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện
nay, từ đó đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường việc giáo dục đạo đức
cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm rõ những vấn đề lý luận giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối
cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong giáo dục đạo đức
cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy giáo dục đạo đức cho sinh
viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay.
8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội
nhập ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Đây là một đề tài khá rộng, vì vậy trong khuôn khổ
hạn hẹp của một luận văn thạc sỹ, nghiên cứu này có thể coi là bước đầu tìm hiểu
việc giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam trong thập
kỷ gần đây. Đặc biệt, chủ yếu đi sâu phân tích quá trình giáo dục đạo đức cho sinh
viên tại các nhà trường Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, có kế
thừa những giá trị của các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp lịch sử - lôgíc, phân tích và tổng hợp, thống
kê, so sánh, khảo sát thực tế, điều tra xã hội học và phương pháp liên ngành khác.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Làm rõ cả về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề giáo dục đạo đức cho sinh
viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy việc giáo đạo đức cho sinh
viên Việt Nam trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về
giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập ở Việt Nam hiện nay; phân
tích đánh giá những tác động của bối cảnh hội nhập với việc giáo dục đạo đức cho
sinh viên; nội dung của giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập
quốc tế ở Việt Nam hiện nay, góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho
sinh viên.
9
- Kết quả nghiên cứu đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho các công trình
khoa học, công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận liên
quan đến giáo dục đạo đức trong đời sống xã hội của con người.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 6 tiết.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Giáo dục đạo đức cho sinh viên
1.1.1. Một số quan niệm về đạo đức
Trước khi nghiên cứu về đạo đức sinh viên và giáo dục đạo đức cho sinh
viên, chúng ta cần phải nghiên cứu thật kỹ những khái niệm cơ bản như đạo đức,
giáo dục đạo đức mới làm tiền đề quan trọng để chúng ta có thể nhận thức được lý
do tại sao cần phải giáo dục đạo đức cho sinh viên đặc biệt trong bối cảnh hội nhập
hiện nay.
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, xuất hiện từ khi con người thoát thai
từ động vật và có những biến chuyển trong quá trình phát triển xã hội loài người.
Đạo đức thuộc về ý thức xã hội thể hiện sự phản ánh của con người trong mối quan
hệ với tự nhiên - xã hội và ngay chính bản thân con người với nhau, thể hiện trình
độ phát triển của con người trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Xét về yếu tố
cá nhân, đạo đức là nhân tố quan trọng bậc nhất trong nhân cách của mỗi một con
người, nó thể hiện mối quan hệ giữa bản thân cá nhân với cộng đồng xã hội và giới
tự nhiên. Đây cũng là lý do tại sao trong tác phẩm Luận cương về Phoi-ơ-bắc,
C.Mác lại khẳng định: Trong tính hiện thực của mình, bản chất con người là tổng
hòa các mối quan hệ xã hội [47, tr.11]. Con người là động vật cao cấp, nhưng khác
biệt với tự nhiên, con người có các mối quan hệ xã hội. Và chính đạo đức của con
người được hình thành từ các mối quan hệ xã hội đó, hay nói cách khác, đạo đức xã
hội chính là thành tố quan trọng của bản chất “xã hội” của con người.
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng Latinh là mos, moris, nghĩa là lề thói
“moralis”, nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa. Còn có một danh từ thường
được xem như đồng nghĩa với đạo đức là luân lý học, có gốc từ chữ Hy Lạp là
ethicos, cũng có nghĩa là lề thói, tập tục. Như vậy, khi ta nói đến đạo đức là nói đến
những lề thói, tập tục biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người với người trong
giao tiếp với nhau hàng ngày.
11
Ở phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại
xuất hiện sớm. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, là đường sống của con người
trong xã hội. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn chung đức là biểu
hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có thể nói đạo đức ở
người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những nguyên tắc do cuộc sống
đặt ra mà con người phải tuân theo.
Quan điểm mác xít coi đạo đức là một trong những hình thái ý thức xã hội,
một chế định xã hội, nó phản ánh tồn tại xã hội, phản ánh hiện thực đời sống. Đạo
đức là sản phẩm của những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, của cơ sở kinh
tế.. Sự hình thành, phát triển, hoàn thiện bản chất xã hội của đạo đức được quy định
bởi trình độ phát triển và hoàn thiện của thực tiễn và nhận thức xã hội của con
người. Ph.Ănghen viết: “Chung qui lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay
đều là sản phẩm của tình hình kinh tế - xã hội lúc bấy giờ” [50, tr. 137]. Đạo đức
chính là yếu tố bản chất của con người trong quá trình phát triển của mình theo
hướng ngày càng đạt tới giá trị đích thực của cái thiện.
Đặc trưng quan trọng của đạo đức là năng lực ý thức và hành động tự
nguyện, tự giác của con người vì cái thiện, vì lợi ích và hạnh phúc của con người và
tiến bộ xã hội. Tính tự giác của đạo đức thể hiện ở sự quan tâm của con người đến
người khác, đến xã hội. Sự tự giác, tự nguyện là một trong những cơ sở của tự do.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Người ta không thể bàn về đạo đức và pháp quyền mà lại
không nói đến vấn đề gọi là tự do ý chí, lương tri của con người, quan hệ giữa tất
yếu và tự do” [49, tr.162]. Người ta chỉ có thể đạt được sự tự do của đạo đức khi có
nhận thức sâu sắc nội dung, ý nghĩa của những yêu cầu, quy phạm đạo đức xã hội,
biến nó thành nhu cầu đạo đức nội tại, thành chuẩn mực hành vi mà cá nhân tự giác,
tự nguyện tuân thủ. Các nhà mác xít cũng chỉ ra mối quan hệ của cơ sở kinh tế và
đạo đức đồng thời chủ trương xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa làm nền tảng hình thành và phát triển đạo đức cao đẹp - đạo đức cộng
sản. V.I.Lênin đã nêu giá trị đạo đức được xác định ở chỗ nó phục vụ cho tiến bộ xã
hội vì hạnh phúc của con người.: "Đạo đức giúp cho xã hội loài người tiến lên trình
độ cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động" [43, tr.356].
12
Nói đến đạo đức là nói đến quan hệ giữa cái tốt và cái xấu, giữa cái đúng và
cái sai. Cơ chế vận hành của đạo đức trong đời sống xã hội bao gồm: ý thức đạo
đức, hành vi đạo đức và đánh giá đạo đức. Ý thức đạo đức bao hàm những chuẩn
mực, thói quen, tập quán và phong tục đạo đức tác động đến tư tưởng, tình cảm và
hành vi của con người. Chúng có thể đóng vai trò định hướng tinh thần trong cuộc
sống cá nhân và cộng đồng [Xem: 100, tr.46]. Các chuẩn mực đạo đức là cơ sở để
con người sống với nhau một cách hòa thuận, nhân ái.
Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, trên cơ sở truyền
thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta
di sản quý báu trong đó có tư tưởng đạo đức của Người. Đó là là một hệ thống các
quan điểm về vai trò của đạo đức; những phẩm chất đạo đức cơ bản, đạo đức cách
mạng và những nguyên tắc xây dựng nền đạo đức mới.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh gần gũi với mỗi người với những chuẩn
mực đạo đức cụ thể cho từng đối tượng, từ cán bộ, đảng viên, nông dân, trí thức,
công an, bộ đội, cho đến văn nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, thiếu niên. Hơn nữa,
không chỉ nêu những yêu cầu về đạo đức mà bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh là một
tấm gương sáng ngời về đạo đức, suốt đời không mệt mỏi tự rèn mình, giáo dục,
động viên cán bộ, đảng viên, nhân dân cùng thực hiện.
Ngày nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về đạo đức, song theo chúng tôi
định nghĩa sau đây là phù hợp: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp
những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách
ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được
thực hiện với niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã
hội”[44, tr.8].
Theo định nghĩa này, đạo đức được xem xét ở ba phương diện chủ yếu:
Thứ nhất, đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội bao gồm toàn
bộ những quan điểm, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh hành vi và đánh giá cách
ứng xử trong quan hệ con người với con người, con người với xã hội nhằm đảm
bảo quan hệ lợi ích của cá nhân với cộng đồng.
13
Thứ hai, đạo đức là phương thức để điều chỉnh hành vi của con người.
Những chuẩn mực và quy tắc là những yêu cầu của xã hội nhằm điều chỉnh hành vi
của mỗi cá nhân trong mối quan hệ với nhau và với xã hội.
Thứ ba, đạo đức là một hệ thống giá trị. Đó là các giá trị vật chất và tinh thần;
các giá trị sản xuất và tiêu dùng; các giá trị chính trị - xã hội, thẩm mỹ, tôn giáo…
Đạo đức có các chức năng: chức năng nhận thức, chức năng điều chỉnh hành
vi và chức năng giáo dục.
Chức năng nhận thức của đạo đức giúp con người đi đến sự nhận biết, phân
biệt những giá trị: đúng sai, tốt xấu, thiện ác,... hướng tới giá trị bao quát đó là cái
chân, thiện, mỹ. Từ nhận thức này mà chủ thể hình thành và phát triển thành các
quan điểm và nguyên tắc sống của mình.
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức làm cá nhân và xã hội cùng tồn
tại và phát triển, bảo đảm quan hệ lợi ích cá nhân và cộng đồng.
Chức năng giáo dục của đạo đức là để hình thành những quan điểm cơ bản
nhất, những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho con người; nó còn giúp
cho con người có khả năng lựa chọn, đánh giá các hiện tượng xã hội; từ đó con
người tự điều chỉnh hành vi của mình để không ngừng hoàn thiện. Chức năng giáo
dục đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người.
Tóm lại, có thể thấy đạo đức ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn
tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Đạo đức là một trong những
nhân tố cơ bản điều chỉnh hành vi con người, là cội nguồn của hạnh phúc và là động
cơ, sức mạnh để chống lại cái ác, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế, sự tiến bộ
xã hội. Đạo đức có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội.
1.1.2. Một số quan niệm về giáo dục đạo đức
Đạo đức là một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng, một hình thái ý thức xã
hội, luôn tồn tại với hiện thực xã hội. Tuy nhiên không phải lúc nào đạo đức cũng tự
mình sinh ra và mất đi, nó cần một quá trình lưu giữ và phát triển. Quá trình này có
thể thực hiện nhờ nhiều hình thức khác nhau, nhưng quan trọng nhất, chỉ có thể
thông qua giáo dục thì đạo đức mới có thể tồn tại và phát triển.
14
Nói đến giáo dục người ta nhận thấy đây là một hiện tượng xã hội đặc biệt,
bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội của các thế
hệ loài người, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn
hóa dân tộc, nhân loại được kế thừa, bổ sung và trên cơ sở đó không ngừng tiến lên.
Theo Từ điển tiếng Việt có định nghĩa: “giáo dục, đó là hoạt động nhằm tác động
một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó,
làm cho đối tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề
ra” [69, tr. 394].
Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội, cho nên quá trình này phải bao
hàm những yếu tố quan trọng tạo điều kiện để giáo dục thực hiện chức năng của
mình. Đó là sự ảnh hưởng từ người giáo dục đến người được giáo dục thông qua
những phương pháp và cách thức giáo dục. Như vậy, muốn phát huy được vai trò
của giáo dục phải quan tâm đến tất cả các thành tố đó.
Có điều chúng ta cũng cần phải làm rõ, giáo dục không chỉ đơn thuần là giáo
dục trong nhà trường, và đối tượng của giáo dục là học sinh. Nếu hiểu theo cách đó
thì chưa chính xác. Giáo dục diễn ra ở khắp mọi nơi trong xã hội từ giáo dục gia
đình đến giáo dục nhà trường và xa hơn nữa là giáo dục ngoài xã hội. Mỗi một lĩnh
vực giáo dục lại có mục tiêu và cách thức khác nhau.
Mục tiêu của giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống
đến sự phát triển thể chất và tinh thần của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng
ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực theo yêu cầu đặt ra. Là hoạt
động hướng tới con người thông qua một hệ thống các biện pháp tác động nhằm
truyền thụ những tri thức và kinh nghiệm, rèn luyện kỹ năng và lối sống, bồi
dưỡng tư tưởng và đạo đức cần thiết cho đối tượng, giúp hình thành và phát triển
năng lực, phẩm chất, nhân cách phù hợp với mục đích, mục tiêu chuẩn bị cho đối
tượng tham gia lao động sản xuất và đời sống xã hội. Mục tiêu giáo dục trong nhà
trường của Việt Nam luôn được xác định trong Luật Giáo dục đó là: nâng cao dân
trí - bồi dưỡng nhân tài và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Một trong
15
những nội dung giáo dục của nhà trường luôn quan tâm và xác định quan trọng
hàng đầu đó là giáo dục đạo đức, hình thành nhân cách cho học sinh, lưu truyền
đạo đức truyền thống cho quốc gia, hình thành nếp sống mới phù hợp với thời đại
[Xem: 2].
Theo đó, giáo dục đạo đức là quá trình tác động đến đối tượng của giáo dục
nhằm hình thành ở họ ý thức, tình cảm, niềm tin, lý tưởng, hành vi đạo đức, đó là
những phẩm chất đạo đức cần thiết theo yêu cầu của xã hội, trong từng giai đoạn
phát triển nhất định.
Giáo dục đạo đức là con đường, là cách thức cơ bản và chủ yếu để hình
thành những phẩm chất đạo đức cho con người. Giáo dục đạo đức góp phần chuyển
những quan niệm đạo đức, những chuẩn mực và nguyên tắc đạo đức từ yêu cầu xã
hội thành sự thôi thúc nội tâm của mỗi sinh viên, giúp cho họ nhận thức một cách
đầy đủ, đúng đắn và chủ động nội dung, yêu cầu, quy tắc đạo đức, qua đó góp phần
điều chỉnh hành vi của sinh viên cho phù hợp yêu cầu của xã hội.
Cùng với việc nâng cao trình độ nhận thức các chuẩn mực, giá trị đạo đức,
giáo dục đạo đức là một phương thức để xây dựng những quan điểm, phẩm chất đạo
đức mới, quan niệm và lẽ sống tích cực cho sinh viên. Đồng thời, thông qua giáo
dục đạo đức giúp cho họ nhận diện phê phán và đấu tranh loại bỏ những biểu hiện
vi phạm đạo đức, những quan niệm đạo đức sai lầm, lạc hậu, lệch chuẩn hay không
còn phù hợp với điều kiện mới.
Thông qua giáo dục đạo đức, hình thành những xúc cảm, tình cảm đạo đức
như tình yêu quê hương, đất nước, yêu thương con người, tôn trọng lao động.
Chính tình cảm đạo đức là động lực thúc đẩy sinh viên thực hiện những hành vi
đạo đức, là động lực làm tăng thêm sự phong phú, sâu sắc và tinh tế của thế giới
nội tâm, thúc đẩy con người vươn lên trong cuộc sống. Có được tình cảm đạo đức
là nguồn sức mạnh tinh thần giúp sinh viên phấn đấu cho những giá trị Chân,
Thiện, Mỹ.
16
- Xem thêm -