ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐỖ THANH HOÀNG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
1986 - 2000
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Hà Nội - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐỖ THANH HOÀNG
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
1986 - 2000
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60220313
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Đình Lê
Hà Nội - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Tên đề tài luận văn không trùng với bất cứ nghiên cứu nào đã được
công bố. Các số liệu, tài liệu trích dẫn trong luận văn là trung thực, khách quan
và rõ ràng về xuất xứ.
Ngoài ra, tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Ban Giám hiệu Nhà trường và
Khoa Lịch sử tạo điều kiện và cho phép tôi được bảo vệ luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 tháng 12 năm 2017
Tác giả luận văn
Đỗ Thanh Hoàng
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới thầy giáo PGS,TS. Nguyễn Đình Lê, đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và luôn động
viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, cùng các cán bộ, nhân viên ở Phòng Đào tạo; các thầy,
cô giáo trong Khoa Lịch sử đã nhiệt tình dạy dỗ, truyền thụ những kiến thức
khoa học quý báu trong suốt thời gian tôi được theo học tại Trường.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến GS. Đặng Quốc Bảo
(nguyên Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp) đã tận tình giúp
đỡ, chỉ bảo, góp ý cho đề tài luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới anh em, bạn bè, đồng nghiệp,
người thân, - đặc biệt là chồng và các con tôi đã hỗ trợ, động viên, khích lệ, tạo
điều kiện cho tôi được học tập và thực hiện thành công luận văn này.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với sinh viên,
học viên cao học, nghiên cứu sinh trong việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy về
giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận văn
Đỗ Thanh Hoàng
DANH MỤC TỪ CHỮ VIẾT TẮT
Số thứ tự Chữ viết tắt
Diễn giải
1
CĐ
Cao đẳng
2
CNH
Công nghiệp hóa
3
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
4
ĐH
Đại học
5
DHTT
Dài hạn tập trung
6
GDĐH
Giáo dục đại học
7
GD-ĐT
Giáo dục – Đào tạo
8
GS
Giáo sư
9
HĐH
Hiện đại hóa
10
NCS
Nghiên cứu sinh
11
Nxb
Nhà xuất bản
12
PGS
Phó Giáo sư
13
PTS
Phó Tiến sĩ
14
ThS
Thạc sĩ
15
Tp. HCM
Thành phố Hồ Chí Minh
16
TS
Tiến sĩ
17
TSKH
Tiến sĩ khoa học
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 3
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 7
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................... 8
6. Đóng góp của luận văn .............................................................................. 8
7. Kết cấu luận văn ........................................................................................ 9
Chương 1: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TỪ NĂM
1986 ĐẾN NĂM 1990 ................................................... 10
1.1. Khái quát tình hình giáo dục đại học Việt Nam từ năm 1975
đến năm 1985 ....................................................................................... 10
1.2. Chủ trương, chính sách giáo dục đại học (1986-1990) ........................ 14
1.3. Hệ thống trường đại học, cơ sở vật chất, ngân sách và quản lý ........... 17
1.4. Cán bộ giảng dạy và sinh viên ............................................................. 20
1.5. Chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy .................................... 26
1.6. Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế ............................................. 28
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 32
Chương 2: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TỪ NĂM
1991 ĐẾN NĂM 1995 .................................................. 33
2.1. Chủ trương, chính sách giáo dục đại học sau 5 năm đổi mới (1991-1995).... 33
2.2. Hệ thống trường đại học, cơ sở vật chất, ngân sách và quản lý ........... 35
2.3. Cán bộ giảng dạy và sinh viên ............................................................. 40
2.4. Chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy .................................... 50
2.5. Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế ............................................. 52
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 55
Chương 3: GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM TỪ NĂM
1996 ĐẾN NĂM 2000 .................................................. 56
3.1. Chủ trương, chính sách giáo dục đại học sau 10 năm đổi mới (1996-2000).. 56
3.2. Hệ thống trường đại học, cơ sở vật chất, ngân sách và quản lý ........... 58
1
3.3. Cán bộ giảng dạy và sinh viên ............................................................. 61
3.4. Chương trình đào tạo, phương pháp giảng dạy .................................... 73
3.5. Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế ............................................. 76
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 77
KẾT LUẬN ................................................................................................. 78
Tài liệu tham khảo ..................................................................................... ..80
Phụ lục ......................................................................................................... 91
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục nói chung trong đó có giáo dục đại học có vai trò to lớn trong đời
sống kinh tế - xã hội. Giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự còn là đòn
bẩy quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Trong giáo dục, thì giáo dục đại học là
nơi đào tạo ra nguồn nhân lực có trình độ cao, nơi tiếp cận tri thức ở mức cao nhất
góp phần tạo ra những tiến bộ, những bước nhảy vọt về sản xuất.
Năm 1907, thực dân Pháp thành lập Trường Đại học Đông Dương ở Hà
Nội, đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của giáo dục đại học ở Việt Nam. Sự
nghiệp giáo dục đại học từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến năm 1985
đã đạt được những thành tựu to lớn, trong đó quan trọng nhất là đã góp phần tạo
ra các thế hệ trí thức Việt Nam có tài, có đức. Đây là một trong những nhân tố
quyết định thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Năm 1986, Đại hội đại biểu toàn quốc thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới. Trải qua hơn 30 năm đổi mới, nền giáo
dục Việt Nam, trong đó có giáo dục đại học có sự thay đổi mạnh mẽ nhằm đáp
ứng nguồn nhân lực trình độ cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và hội nhập quốc tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đại học đối với sự phát triển
của đất nước, trong những năm vừa qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra các
chủ trương cải cách giáo dục. Một trong những nghị quyết của Đảng có tác động
sâu sắc tới giáo dục đại học là Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 04/11/2013 về
đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghị quyết xác định, nền giáo
dục ở nước ta, trong đó có giáo dục đại học vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế.
Để giáo dục Việt Nam từng bước phát triển theo xu hướng chung của thế giới,
3
giáo dục đại học Việt Nam cần được tiếp tục đổi mới toàn diện hơn nữa để dần
tiệm cận được các chuẩn chung giáo dục tiến bộ của khu vực và thế giới.
Từ năm 1986 đến năm 2000 là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới ở
Việt Nam. Trong giai đoạn này, giáo dục đại học Việt Nam đã đạt được những
thành tựu đáng kể trên nhiều phương diện, nhưng cũng bộc lộ những hạn chế
cần phải khắc phục trong những giai đoạn về sau. Tuy là một giai đoạn quan
trọng nhưng cho đến nay chưa có nhiều công trình nghiên cứu một cách toàn
diện, hệ thống về giáo dục đại học trong giai đoạn này. Vì vậy, tôi quyết định
chọn “Giáo dục đại học Việt Nam 1986 - 2000” là đề tài luận văn thạc sĩ lịch
sử, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục nói chung trong đó có giáo dục đại học đã có nhiều công trình
nghiên cứu, đề cập. Trong đề tài này, luận văn đã tiếp cận được một số công trình
nói về giáo dục đại học Việt Nam từ đổi mới (năm 1986) đến năm 2000 như:
Các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục:
- Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập, 4, tập 6, tập 7, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia.
Các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam như:
- Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IV, V, VI, VII, VIII, IX; Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới; các Nghị quyết Hội nghị Trung ương có
thông tin liên quan đến giáo dục – đào tạo.
Các nguồn tư liệu từ các sách nói về giáo dục như:
- GS. TS. Lê Văn Giạng, Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục
Việt Nam (Sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc gia, 2003. Luận văn đã tham
khảo phần nói về giáo dục Việt Nam cuối thế kỷ XX.
- GS.TS. Phạm Minh Hạc, Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ
XXI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. Tác giả đã đề cập đến tính chất của
4
nền giáo dục, nguyên lý, nội dung, hệ thống giáo dục ở nước ta qua các giai
đoạn lịch sử, trong đó có giáo dục đại học, đồng thời nêu bật vai trò, thành tựu
của nền giáo dục Việt Nam từ trước năm 1945 đến năm 2000.
- GS.TS. Nguyễn Văn Khánh, Trí thức Việt Nam trong tiến trình lịch sử
dân tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, 2015. Luận văn đã tham khảo Phần I của cuốn
sách viết về các hoạt động, những đóng góp của trí thức Việt Nam trên các lĩnh
vực đời sống kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đổi mới liên quan đến
đề tài luận văn.
- GS.TS. Trần Hồng Quân (Chủ biên), 50 năm phát triển sự nghiệp giáo
dục và đào tạo (1945 – 1995), Nxb. Giáo dục, 1995. Nội dung cuốn sách phản
ánh những chủ trương và thực tiễn quan trọng nhất của giai đoạn đổi mới giáo
dục (từ năm 1987 đến năm 1995).
- Hội khoa học Kinh tế Việt Nam, Trung tâm Thông tin và Tư vấn
phát triển (biên soạn), Giáo dục Việt Nam 1945 – 2005, Nxb. Chính trị Quốc
gia, 2005. Nội dung cuốn sách đề cập đến truyền thống, lịch sử phát triển
của giáo dục đào tạo Việt Nam nói chung và của các tỉnh thành nói riêng
trong thời gian 1945 – 2005. Luận văn đã khai thác, tổng hợp các số liệu về
giáo dục đại học từ 1986 đến năm 2000 để sử dụng vào từng phân đoạn của
đề tài.
- Câu lạc bộ Báo Kinh tế Việt Nam – Trung tâm thông tin Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Toàn cảnh giáo dục – đào tạo Việt Nam, Nxb. Giáo dục, 2000. Tác giả
luận văn tiếp cận và tham khảo nhiều thông tin cơ bản liên quan về tình hình
giáo dục – đào tạo của Việt Nam trong phạm vi nghiên cứu.
- Trong Lịch sử giáo dục Việt Nam của tác giả Bùi Minh Hiền, Nhà xuất
bản Đại học Sư phạm xuất bản năm 2005 được tác giả nghiên cứu sâu và có hệ
thống về lịch sử giáo dục Việt Nam từ thời phong kiến đến năm 2000.
- Hiệp hội các trường Đại học và Cao đẳng Việt Nam, Một số tư liệu về đổi
5
mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 1987-1997, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2017.
Nội dung cuốn sách gồm các bài phát biểu chỉ đạo của một số lãnh đạo Đảng và Nhà
nước về đổi mới giáo dục đại học; Các báo cáo chính và kết luận của các đồng chí
lãnh đạo ngành giáo dục – đào tạo tại các Hội nghị đại học, cao đẳng toàn quốc và
các báo cáo chuyên đề về giáo dục.
- GS, TS. Đặng Quốc Bảo, Bùi Việt Phú, Phạm Minh Giản, Phạm Minh
Xuân, Đổi mới, cải cách giáo dục ở Việt Nam và nhân tố quản lý trong tiến trình đổi
mới giáo dục, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2017. Nội dung cuốn sách đề
cập đến đổi mới giáo dục Việt Nam từ cải cách giáo dục thời dân chủ đến đổi mới
giáo dục trong xu thế hội nhập quốc tế; đồng thời, các tác giả cũng đưa ra những
kinh nghiệm và quan điểm về giáo dục qua các thời kỳ.
- Nguyễn Phương Hoa, Nguyễn Quý Thanh (đồng chủ biên), Giáo dục đại
học, một số thành tố của chất lượng), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2007.
Cuốn sách gồm 6 phần được sắp xếp theo lôgic của quá trình đào tạo từ những
yếu tố đầu vào cho đến những yếu tố đảm bảo chất lượng bên trong các trường
đại học, đến việc nâng cao chất lượng giáo dục đại học Việt Nam.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Quan hệ Quốc tế, Hướng dẫn về quan hệ
quốc tế trong giáo dục và đào tạo, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996, luận văn đã
tham khảo và khai thác một số thông tin cơ bản về hợp tác quốc tế trong giáo
dục đào tạo giữa Việt Nam và một số nước trên thế giới để sử dụng trong đề tài.
Ngoài các thông tin tư liệu được khai thác từ các nguồn tư liệu quý trên,
luận văn còn tham khảo một số các báo cáo, các bài báo đăng trên các Tạp chí,
Luận án Tiến sĩ.
- Các bài của GS. TSKH. Vũ Ngọc Hải (2006), 20 năm đổi mới giáo dục
Việt Nam, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số (10)
Các công trình khoa học trên đã đưa ra nhiều góc độ tiếp cận khác nhau về
giáo dục – đào tạo nói chung, giáo dục đại học Việt Nam nói riêng; về thực trạng và
6
giải pháp đối với giáo dục đào tạo. Những công trình này đã cung cấp cho luận văn
một khối lượng tư liệu phong phú và quý giá trong quá trình khai thác, tham khảo và
sử dụng vào đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Qua tìm hiểu, phân tích, tổng hợp các nguồn tư liệu, đề tài làm rõ thực
trạng giáo dục đại học Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2000, từ đó rút ra một số
nhận xét, đánh giá về giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn này.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn thực hiện nhiệm vụ như sau:
Một là, tập hợp các nguồn tư liệu để làm rõ bối cảnh kinh tế - xã hội, nội
dung, kết quả giáo dục đại học Việt Nam từ đổi mới (năm 1986) đến năm 2000.
Hai là, trình bày thực trạng giáo dục đại học trong giai đoạn (1986-2000),
rút ra một số nhận xét về vai trò của giáo dục đại học Việt Nam từ năm 1986 đến
năm 2000.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là giáo dục đại học Việt Nam từ năm 1986 đến
năm 2000.
Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung nghiên cứu
Đề tài chủ yếu đi sâu vào nghiên cứu thực trạng giai đoạn đại học Việt
Nam qua chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hệ thống trường học,
đội ngũ cán bộ giảng viên và sinh viên, chương trình và phương pháp đào tạo,
hoạt động nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế.
7
- Phạm vi không gian
Đề tài nghiên cứu về giáo dục đại học ở Việt Nam.
- Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu về giáo dục đại học Việt Nam từ năm 1986 đến năm
2000. Mốc năm 1986 là năm Đảng Cộng sản Việt Nam bắt đầu tiến hành công
cuộc đổi mới đất nước, trong đó có đổi mới giáo dục đại học. Mốc năm 2000 là
năm bản lề bước sang thiên niên kỷ mới, đồng thời là năm cuối của Chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (1991-2000) và kế hoạch 5 năm (1996-2000).
Từ năm 1986 đến năm 2000 được xác định là thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới
đất nước.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Đề tài sử dụng các nguồn tư liệu sau:
Nguồn tư liệu lưu trữ. Đây là những tư liệu gốc được khai thác từ các
Phông Lưu trữ đang được bảo quản tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, Phông
Bộ Giáo dục, Bộ trưởng Trần Hồng Quân giai đoạn 1982 - 1997 gồm các Tập
tài liệu về phương hướng chiến lược dài hạn ngành giáo dục.
- Các văn kiện của Đảng về giáo dục.
- Các công trình nghiên cứu về giáo dục dưới dạng sách, báo, tạp chí, luận án.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu để thực hiện đề tài này là phương pháp
lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra, đề tài còn kết hợp một số phương pháp
nghiên cứu như phương pháp thống kê, phân tích và so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng giáo dục đại học Việt Nam trong
giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000 qua đó khẳng định chủ trương, đường lối
8
của Đảng về đổi mới giáo dục Việt Nam là đúng đắn và cần thiết.
Về thực tiễn
Nghiên cứu giáo dục đại học thời kỳ đổi mới (1986 – 2000), để thấy được
những thành tựu, hạn chế và kết quả của giáo dục đại học, từ đó đúc rút những
kinh nghiệm thiết thực, phục vụ sự nghiệp đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục
đại học ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với sinh viên,
học viên cao học, nghiên cứu sinh trong việc nghiên cứu, giảng dạy và những
người quan tâm đến giáo dục đại học Việt Nam trong giai đoạn này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
có 3 chương như sau:
Chương 1: Giáo dục đại học ở Việt Nam từ năm 1986 đến năm 1990
Chương 2: Giáo dục đại học ở Việt Nam từ năm 1991 đến năm 1995
Chương 3: Giáo dục đại học ở Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2000
9
Chương 1
GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 1990
1.1. Khái quát giáo dục đại học Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1985
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ra đời, lịch sử giáo dục nước nhà sang một trang mới. Trong thời
gian từ năm 1945 đến giữa năm 1975, trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ,
lâu dài chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, ở nước ta song song tồn
tại hai nền giáo dục khác nhau, một ở vùng do nhân dân ta làm chủ và một do
thực dân Pháp và sau đó là do tay sai đế quốc Mỹ kiểm soát. Từ tháng 30 tháng
4 năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và tiến lên
chủ nghĩa xã hội, nền giáo dục Việt Nam được thống nhất trong cả nước.
Sau khi đất nước thống nhất, các trường đại học của hai miền Nam, Bắc
đã được sắp xếp lại để trở thành một hệ thống đại học thống nhất trong cả nước.
Nhiệm vụ cấp bách hàng đầu đặt ra cho giáo dục lúc này là nhanh chóng tiếp
quản và cải tạo hệ thống giáo dục thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, xây
dựng sự nghiệp giáo dục ở miền Nam theo hướng xã hội chủ nghĩa. Từ giữa
năm 1975, hàng vạn giáo viên miền Bắc tình nguyện vào miền Nam bổ sung cho
những nơi thiếu giáo viên và cán bộ quản lý [51, tr. 193].
Phần lớn các trường đại học ở nước ta được tổ chức lại với mô hình đơn
ngành1 theo mô hình tổ chức của Liên Xô. Hàng loạt các trường cao đẳng, đại
học ngắn hạn, đào tạo 3 năm được thành lập, chủ yếu là các trường cao đẳng sư
phạm ở các tỉnh. Có 15 trường đại học ở miền Nam được tổ chức lại.
Về giáo dục, miền Bắc có nhiệm vụ tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua
“Hai tốt”, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, tích cực giúp đỡ giáo dục
. Đại học (Université) gồm các khoa về khoa học cơ bản tự nhiên và xã hội được gọi là Đại học Tổng hợp
(polyvalent) tức là nhiều ngành về khoa học cơ bản; Đại học Bách khoa (polytechnique) là đại học gồm nhiều
ngành về công nghệ, Đại học kỹ thuật là các trường cao đẳng dài hạn (học trình từ 4 năm trở lên).
1
10
miền Nam. Miền Nam mau chóng xóa bỏ tàn dư của nền giáo dục cũ, xây dựng
hệ thống giáo dục mới, nâng cao giác ngộ chính trị cho giáo viên và học sinh,
sinh viên, xây dựng tổ chức quản lý giáo dục.
Năm học 1975 – 1976, cả nước đã tiến hành khai giảng trong không khí
tưng bừng, phấn khởi trước thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Năm 1976, đào tạo sau
đại học đã được triển khai. Đây là một bước phát triển về chất của nền giáo dục
nước ta nhằm giải quyết một cách chủ động việc xây dựng đội ngũ cán bộ khoa
học, công nghệ có trình độ cao, chủ động đào tạo theo cơ cấu ngành nghề hợp lý
của đội ngũ trí thức ở nước ta. Từ 8 trường đại học đầu tiên được giao nhiệm vụ
đào tạo sau đại học năm 1976, đến năm 1980 đã có 42 trường đại học và viện
nghiên cứu khoa học được quyết định là cơ sở đào tạo sau đại học [12, tr. 36].
Chủ trương, chính sách giáo dục
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Lao động Việt Nam đã
đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam và đã vạch ra con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước và xác định: “Nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng là tiến hành một cuộc cải cách giáo dục rộng lớn trong cả nước, làm cho
giáo dục quốc dân gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa”
[36, tr. 116].
Tháng 12 năm 1977, Viện Nghiên cứu Đại học và Trung học chuyên
nghiệp ra đời theo Quyết định số 347/CP của Hội đồng Chính phủ. Để chuẩn bị
cho triển khai cải cách giáo dục theo Nghị quyết 14 của Bộ Chính trị, Bộ Giáo
dục thành lập một số Ban nghiên cứu tách từ các vụ chỉ đạo [19, tr. 360].
Năm học 1977–1978, cả nước ta có 50 trường đại học và 20 trường cao
đẳng. Tuy nhiên, với yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sự phát triển của
giáo dục Việt Nam đến năm 1979 không đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng
và chất lượng. Vì vậy, “yêu cầu cải cách nền giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu
mới của cách mạng Việt Nam là tất yếu” [47, tr. 213-214].
11
Cải cách giáo dục lần thứ ba2 (tháng 1 năm 1979)
Ngày 01-11-1979, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra
Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục lần thứ ba. Nền giáo dục đại học
của Việt Nam đã có những thành tựu lớn lao, với 5 mục tiêu, trong đó tập trung
cải cách cả cơ cấu hệ thống giáo dục, nội dung và phương pháp giáo dục: “Coi
giáo dục là một bộ phận quan trọng của tư tưởng văn hóa, là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật,... Thực hiện nguyên
lý giáo dục: Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động, sản xuất gắn
với đào tạo nghề và nghiên cứu,... Cải cách cả cơ cấu hệ thống giáo dục, nội
dung và phương pháp giáo dục” [56, tr. 182].
Cuộc cải cách giáo dục lần này nhằm mục đích thống nhất hai hệ thống
giáo dục phổ thông tồn tại ở hai miền Nam – Bắc (hệ thống giáo dục hệ 12 năm
của miền Nam và 10 năm của miền Bắc) trong thời kỳ 1954 – 1975. Sau khi
nghị quyết cải cách giáo dục được ban hành, hàng loạt chính sách và chủ
chương cụ thể đã được thực hiện nhằm triển khai cuộc cải cách giáo dục 3.
Giáo dục đại học trong giai đoạn này thực hiện sắp xếp lại.
Ở miền Nam, bỏ các trường tư thục, trừ những trường có cơ sở vật chất
tốt thì được chuyển thành trường công lập. Học sinh, sinh viên các trường này
được tuyển chọn lại để vào học các trường công lập. Đồng thời, chuyển 3
trường đại học cộng đồng mới xây dựng trước năm 1975 thành trường dự bị
đại học để bồi dưỡng nguồn tuyển sinh là công nhân, nông dân hay là cán bộ,
quân nhân xuất ngũ cho các trường đại học 4, trường Đại học cộng đồng Đà
Nẵng được sáp nhập vào trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng được xây mới
. Cải cách giáo dục lần thứ nhất (tháng 7 năm 1950). Cải cách giáo dục lần thứ hai (tháng 3-1956) là một
bước đi cơ bản ban đầu quan trọng trong quá trình xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
3
. Hệ thống các trường lớp tại chức và hình thức tổ chức học được triển khai đa dạng: các lớp học tổ chức
ngay tại xí nghiệp, công, nông trường. Các trường đặt tại các tỉnh, thành phố như là một phân hiệu tại chức của
các trường đại học, cao đẳng.
4
. Hợp nhất các khoa ĐH Tự nhiên và ĐH Xã hội thành Trường ĐH Tổng hợp đa ngành về khoa học cơ bản
như: ĐH Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, ĐH Tổng hợp Huế; Bỏ hình thức tổ chức Viện đại học; Lập thêm
một số trường ĐH mới (như ĐH Bách khoa Đà Nẵng, ĐH Tây Nguyên, ...).
2
12
sau năm 1975 [10, tr. 170].
Ở miền Bắc, một số trường đại học được sáp nhập lại như: Trường Đại
học Công nghiệp nhẹ ở Việt Trì sáp nhập vào Trường Đại học Bách khoa Hà
Nội để điều chuyển một bộ phận quan trọng thiết bị của trường này cho Trường
Đại học Bách khoa Đà Nẵng, v.v..
Nội dung đào tạo mở rộng các kiến thức về quản lý kinh tế, quản lý xã
hội và quản lý tổ chức của ngành. Ngoại ngữ được tăng cường đến trình độ sử
dụng thành thạo một thứ tiếng nước ngoài, nhưng chủ yếu là học tiếng Nga,
tiếng Pháp trong thời kỳ này.
Ở bậc sau đại học5 đã bắt đầu đào tạo phó tiến sĩ và tiến sĩ theo mô hình
của Liên Xô. Từ năm 1976 đến năm 1980 đã có 42 trường đại học và viện
nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo nghiên cứu sinh trong nước
[20, tr. 204].
Năm học 1979 – 1980, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm, cả nước có 15
vạn sinh viên đại học. Năm 1981 – 1985, một số nội dung của cải cách giáo dục
đã được thực hiện. Nhiều loại hình trường, lớp được mở ra. Nội dung giảng dạy,
học tập có một số điểm sửa đổi. Các trường đều đẩy mạnh lao động sản xuất,
gắn nhiệm vụ giáo dục với các chương trình kinh tế - xã hội của cả nước và của
từng địa phương.
Từ năm 1982 trở đi là một chặng đường chuyển biến mới về nhận thức
ngày một rõ hơn những vấn đề đặt ra cho giáo dục, đặc biệt là vấn đề mục tiêu
đào tạo, chất lượng giáo dục, dần dần tìm ra những biện pháp để giải quyết từng
bước những tồn tại, khó khăn trong giáo dục – đào tạo.
Trong 40 năm, từ Cách mạng Tháng Tám năm (năm 1945) đến trước
thời kỳ đổi mới (năm 1985), nhân dân ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, nền giáo dục Việt Nam trong đó có
. Đến năm 1996 đã chuyển sang mô hình chỉ đào tạo một cấp tiến sĩ tương đương với phó tiến sĩ cũ. Từ năm
1991, đã lập ra học vị thạc sĩ tương đương với master của Hoa Kỳ.
5
13
giáo dục đại học đã trải qua ba cuộc cải cách giáo dục và đã đạt được
những thành tựu to lớn trong những điều kiện hết sức khó khăn của chiến
tranh lâu dài, ác liệt và của trình độ kinh tế chậm phát triển. Qua 3 lần cải
cách giáo dục (năm 1950, 1956 và 1979) nền giáo dục đại học Việt Nam
gặp rất nhiều khó khăn, nhưng giáo dục đại học vẫn được duy trì và củng
cố, sự nghiệp phát triển giáo dục trên toàn quốc đã thu được những kết
quả khả quan. Bước đầu, hệ thống giáo dục đã được xác lập và xây dựng
tương đối hoàn chỉnh, thống nhất trong cả nước từ mầm non đến đại học
và sau đại học. Hệ thống giáo dục 12 năm được thiết kế thống nhất cho
chương trình đào tạo chung trên toàn quốc. Đặc biệt từ sau năm 1976, hệ
thống đào tạo sau đại học đã được xây dựng và là bước phát triển quan
trọng trong giáo dục đại học Việt Nam.
Tuy nhiên, giáo dục nói chung trong đó có giáo dục đại học chưa được
quan tâm toàn diện và đứng trước nguy cơ bị lạc hậu so với khu vực và thế giới.
Giáo dục đại học cơ bản là “giáo dục tinh hoa và chịu ảnh hưởng của mô hình
giáo dục của Liên Xô lúc bấy giờ” [116, tr.143].
Với tư duy quan liêu bao cấp và mô hình nhà nước độc quyền quản lý của
nhà nước cùng với những khó khăn về kinh tế - xã hội, giáo dục nói chung trong
đó có giáo dục đại học ngày càng xuống cấp nghiêm trọng, đòi hỏi ngành giáo
dục phải đổi mới cùng với sự đổi mới của đất nước vào năm 1986.
1.2. Chủ trương, chính sách giáo dục đại học (1986-1990)
Tình hình kinh tế - xã hội
Sau 10 năm (1975-1985) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm
vi cả nước, nhân dân ta đã khắc phục được một bước sự lạc hậu và phân tán của
nền kinh tế, cải tiến một phần cơ cấu kinh tế - xã hội và có một số chuyển biến
bước đầu. Tuy nhiên, nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Từ những
năm đầu của thập kỷ 80, thế kỷ XX, sự khủng hoảng của kinh tế - xã hội tác động
14
trực tiếp đến kinh tế - xã hội nước ta.
Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng “một phần là do hậu quả dồn lại của
sự tàn phá hơn 30 năm chiến tranh ác liệt để giải phóng và thống nhất đất nước,
cộng với hậu quả của cách quản lý yếu kém tập trung, quan liêu, bao cấp” [62,
tr.10], đời sống của nhân dân ta gặp vô vàn khó khăn.
Trước tình trạng đất nước với những khó khăn mới gay gắt và phức tạp, đã
đặt ra một yêu cầu khách quan có ý nghĩa sống còn là phải tạo ra một sự chuyển
biến mạnh mẽ, phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, Đại hội lần thứ VI
của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào tháng 12 năm 1986 với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, Đại hội VI đã phân tích
sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm từ hai kỳ Đại hội lần thứ IV và Đại hội lần
thứ V của Đảng: “Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng
đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước
đi cần thiết; chúng ta không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết của Đại hội
lần thứ V, chưa khắc phục tư tưởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu
trong các chủ trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế
quản lý kinh tế,…”. Đại hội chỉ rõ nguyên nhân của mọi nguyên nhân xảy ra
những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội “bắt nguồn từ những
khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng là
nguyên nhân của mọi nguyên nhân” [38, tr. 27]. Từ đó đề ra đường lối đổi mới với
các quan điểm, các định hướng lớn để từng bước khắc phục khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần, giữ vững ổn định chính trị,
củng cố niềm tin của nhân dân.
Mở đầu của công cuộc đổi mới là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
15
- Xem thêm -