Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên từ thực tiễn trường đại học tài nguyên...

Tài liệu Giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên từ thực tiễn trường đại học tài nguyên và môi trường thành phố hồ chí minh hiện nay

.PDF
86
86
145

Mô tả:

LỜI CÁM ƠN Đến hôm nay tôi thật tự hào rằng mình đã hoàn thành công trình nghiên cứu về một lĩnh vực mà mình yêu thích và gắn liền với sứ mệnh, đời sống của bản thân. Có được sự trưởng thành này tôi rất biết ơn Học viện Khoa học Xã hội đã tổ chức và tạo điều kiện cho chúng tôi có được một môi trường học tập chính quy và bài bản; giúp chúng tôi được tiếp cận để lĩnh hội những tâm huyết của các chuyên gia hàng đầu của ngành và lĩnh vực. Đặc biệt, xin được trân trọng cám ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của PGS. TS.Hồ Việt Hạnh, Phó Giám đốc Học viện Khoa học Xã hội. Thầy đã giúp tôi vượt qua những khó khăn từ những buổi đầu khi tiếp cận với lĩnh vực nghiên cứu cho đến khi hoàn thành công trình này. Trong tương lai, xin được tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Quý Học viện và Quý Thầy Cô để bản thân được trưởng thành hơn nữa. Sau cùng xin được trân trọng cám ơn Lãnh đạo cơ quan, các đồng nghiệp đã tạo điều kiện cho tôi được tham gia chương trình đào tạo, nghiên cứu tại Học viện và hỗ trợ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do những hạn chế của bản thân, tác giả xin nhận được sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của Quý Học viện và Quý Thầy Cô. Xin trân trọng cám ơn! Học viên Nguyễn Bá Khoa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ……………………………………………………………………. 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO SINH VIÊN ……… 15 1.1. Một số khái niệm cơ bản……………………………………….......... 15 1.2. Nội dung giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên………………… 22 1.3. Các yếu tố tác động đến giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên…… 24 Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO SINH VIÊN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY………………... 32 2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh ....................................................... 32 2.2. Đảng và Đoàn thể trong giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên……. 42 2.3. Giáo dục chính trị tư tưởng từ Công tác sinh viên................................ 51 2.4. Giáo dục chính trị tư tưởng từ hoạt động giảng dạy các môn khoa học Lý luận chính trị ........................................................................................... 53 2.5. Đánh giá công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên ............... 55 Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO SINH VIÊN TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ……………………………… 70 3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên nhà trường hiện nay ...................................................................... 70 3.2. Một số giải pháp cơ bản và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh ............................................................ 71 KẾT LUẬN …………………………………………………………………788 TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC BẢNG BIỂU Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức hiện nay của trường (cập nhật đến tháng 12/2017) Bảng 2.1: Bảng thống kê cơ cấu sinh viên phân bố theo ngành đào tạo Bảng 2.2: Bảng thống kê sinh viên hệ Liên thông đại học chính quy Bảng 2.3: Bảng thống kê cơ cấu sinh viên theo hộ khẩu thường trú Bảng 2.4: Bảng thống kê khối lượng, nội dung chương trình đào tạo đại học chính quy của Khoa Lý luận Chính trị Bảng 2.5: Bảng thống kê công tác bồi dưỡng chính trị cho sinh viên, công tác phát triển Đảng và tình hình đảng viên là sinh viên qua các năm Bảng 2.6: Bảng thống kê tỉ lệ sinh viên tham gia hoạt động phong trào Bảng 2.7: Bảng thống kê tình hình sinh viên bị thi hành kỷ luật từ 2012 – 2017 Biểu đồ 2.1: Biểu đồ phản ánh tỉ lệ sinh viên nhập học vào trường theo hộ khẩu thường trú trong 5 năm. Biểu đồ 2.2: Biểu đồ phản ánh kết quả thống kê khảo sát lý do sinh viên chọn trường Biểu đồ 2.3: Biểu đồ phản ánh kết quả khảo sát kênh thông tin sinh viên tiếp cận với trường. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sinh thời, Hồ Chủ tịch đã nói: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn/ Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Vì lẽ đó, Người rất quan tâm đến công tác giáo dục về văn hóa và bồi dưỡng nhân cách, tư tưởng, đạo đức cho thanh niên. Trong “Di chúc”, Người căn dặn, “Đảng phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng” cho thanh niên, đó là “một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Phát biểu trước các đoàn viên thanh niên tham dự Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt ra yêu cầu đầu tiên, quan trọng đối với Đoàn là: “Giáo dục lý tưởng cách mạng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ vừa là nhiệm vụ cấp thiết trước mắt, thường xuyên, vừa là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thoả đáng”. Như vậy, giáo dục chính trị tư tưởng cho thanh niên nói chung và sinh viên là rất quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây là quan điểm nhất quán của Đảng cũng như toàn hệ thống chính trị và được cụ thể hóa thành các quyết sách, chương trình đào tạo. Về mặt lý luận, giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên vẫn mang tính kế thừa, đó là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống nhằm trang bị, giác ngộ sinh viên nền tảng nhận thức, lập trường, thái độ, tư tưởng theo quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Về mặt thực tiễn, hệ thống các trường học đều có giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên. Tuy nhiên, ngày nay sinh viên chịu sự tác động rất lớn từ các vấn đề xã hội và do đó giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên đang gặp phải những thách thức nhất định. Sinh viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh không nằm ngoài xu thế chung đó. Họ là 1 những người rất năng động, tiếp thu nhanh những cái mới. Trước xu thế hội nhập và phát triển, trong những cái mới có những cái “va chạm” với chuẩn mực truyền thống. Độ “vênh” về chuẩn mực văn hóa và hiện tượng “hiện đại hóa về tư tưởng”, chạy theo, học đòi là một trào lưu đang được thanh niên cổ súy. Mỗi nền văn hóa, văn minh của nhân loại đều có những chuẩn mực nhất định, tuy nhiên do “độ vênh” về nhận thức khi tiếp cận với một nền văn hóa khác (cộng với tâm lý “sính”, “cuồng” của lớp trẻ) nên khi du nhập vào Việt Nam, nó giao thoa tạo nên những “quái thai” (trong nhận thức) về văn hóa. Đây là căn nguyên của những bất ổn và “lộn xộn” của xã hội. Tiếp sức cho trào lưu này là các kênh truyền thông, các trang mạng xã hội - một trong những môi trường dễ lan truyền, có tác động rất mạnh mẽ đến thanh niên. Theo thống kê của The Next Web, tính đến tháng 7/2017, Việt Nam đứng thứ 7 thế giới về sử dụng facebook, chiếm 3% số người dùng toàn cầu. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố đứng thứ 10 thế giới với 14 triệu tài khoản, chiếm 0.3%. Theo quan sát cá nhân, số sinh viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh không có tài khoản facebook hoặc ít tương tác trên đó là rất hiếm. Trong khi đó, kênh youtube không ngừng phát tán những clip, thông tin không được kiểm soát, tấn công về văn hóa tư tưởng của giới trẻ... Cho đến nay trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh chưa có một công trình nghiên cứu nào cho thấy các vấn đề xã hội tác động tiêu cực như thế nào đối với sinh viên nhà trường, công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên hiệu quả hay không hiệu quả… nhưng trong xu thế chung, giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên đang gặp nhiều bất cập cả về nội dung, hình thức, phương pháp và sự quan tâm của nhà trường cho công tác này… Có tình trạng sinh viên không yêu thích các môn khoa học lý luận chính trị; hoạt động phong trào, ngoại khóa do tổ chức đoàn phát động 2 khó thu hút sinh viên tham gia; hàng năm phòng công tác sinh viên phải đề nghị Hiệu trưởng ký quyết định kỷ luật nhiều sinh viên… Thực tế đó cho thấy giáo dục nói chung và giáo dục chính trị tư tưởng nói riêng đang gặp phải những khó khăn trong cách tiếp cận, chuyển hóa, đặc biệt là tính hiệu quả. Theo đó, phải tìm ra phương án, cách thức nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục (trong đó có giáo dục chính trị tư tưởng) cho sinh viên nhà trường là việc làm rất cần thiết. Bởi ngành tài nguyên môi trường là một lĩnh vực đang phải đối diện với rất nhiều thách thức. Là lĩnh vực quan trọng vừa đáp ứng nhu cầu làm động lực phát triển kinh tế, vừa phải đảm bảo phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Do đó, nhân lực do trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh đào tạo ngoài kiến thức nghề nghiệp vững vàng, cần có một “trái tim hồng” (những năm trước đây, việc khiếu kiện kéo dài liên quan đến lĩnh vực đất đai rất lớn; các sự cố về môi trường ngày một diễn biến phức tạp… Trong các nguyên nhân thì yếu tố nhân lực chưa đảm bảo vẫn là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên). Vì vậy, giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên nhà trường hiện nay cần được coi trọng, đồng thời cũng phải được đánh giá một cách nghiêm túc để rút ra những giải pháp, bài học kinh nghiệm trong thời gian tới nhằm góp phần nâng cao hiệu quả đào tạo của nhà trường. Với những vấn đề đã đặt ra như ở trên, nhất là từ trước đến nay, chưa có một đề tài nào về giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên nhà trường, do đó tác giả chọn đề tài: “Giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên từ thực tiễn trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh hiện nay”. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Giáo dục chính trị tư tưởng là một lĩnh vực quan trọng, nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và toàn hệ thống chính trị do đó nó là đề tài thu 3 hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, các nhà khoa học trên nhiều phương diện khác nhau. Có những công trình nghiên cứu được xuất bản thành sách, in trên các tạp chí hoặc đăng trên các kỷ yếu khoa học, lưu lại trong luận văn, đăng trên các diễn đàn khoa học, các cổng thông tin điện tử… 2.1. Chủ trương, chính sách và các công trình nghiên cứu về giáo dục chính trị tư tưởng nói chung - Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng viên ở cơ sở, TS. Vũ Ngọc Am, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. Tác giả cho rằng, thành công của cách mạng Việt Nam là do Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, “đó cũng là kết quả và thắng lợi của quá trình tổ chức giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, trong đó công tác giáo dục chính trị tư tưởng giữ vai trò quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức chính trị, ý thức tự giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân”… Tuy nhiên, đứng trước các nguy cơ, thách thức của thời đại và thủ đoạn của các “chiêu bài” về “diễn biến hòa bình” thì “càng cần phải đẩy mạnh, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng”, càng cần phải được đổi mới hoạt động này. - Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII (Nghị quyết số 04/NQ-TW) ngày 30 tháng 10 năm 2016: về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là những việc làm cấp bách của Đảng trước “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên” và tổ chức cơ sở đảng. Trong khi các chương trình hành động để tiêu trừ “nguy cơ, thách thức” không những “chưa bị đẩy lùi” mà “có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu 4 cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước”. Đảng ta nhận định, nguyên nhân chủ quan, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở “một bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên trước hết là “do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái , những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và những hậu quả gây ra”. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII là một “cuộc tổng tiến công”, “tiếng chuông cảnh tỉnh” để chỉnh đốn, xác lập lại trật tự; là một cuộc sinh hoạt chính trị toàn diện, sâu rộng, sẵn sàng nhỏ bỏ tận gốc những mầm mống gây hại cho dân, cho nước. Như vậy, chính trị, tư tưởng là vấn đề cực kỳ quan trọng, căn bản, là nền tảng, cốt lõi của mỗi một ý thức hệ; có tầm quan trọng, sự ảnh hưởng sâu sắc lên toàn bộ đời sống chính trị của xã hội; tác động đến hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị, của xã hội cũng như vị thế, tầm ảnh hưởng của Đảng. - Công tác tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện hội nhập, PGS. TS Tạ Ngọc Tân (Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương), Tạp chí Cộng sản số 891. 5 Cách mạng dân chủ nhân dân đã giải phóng đất nước ta khỏi ách đô hộ và xâm chiếm của ngoại bang. Nhưng trong tình hình, bối cảnh “hết sức mới mẻ, chưa từng có” thì “công tác tư tưởng” đã đặt ra cho Đảng Cộng sản Việt Nam yêu cầu phải “đổi mới về nhận thức”, “tổ chức thực hiện hệ thống các giải pháp phải đồng bộ”. Trong đó, “công tác tư tưởng, lý luận sẽ vẫn là một trong những điều kiện quyết định hàng đầu” cho thắng lợi của cách mạng trong tình hình mới. Những đổi mới về công tác tư tưởng , lý luận được tác giả đề cập, trích dẫn là nhằm tạo nền tảng nhận thức, hiểu biết cơ bản về chính trị, tư tưởng, xây dựng nền tảng cho “sự đồng thuận xã hội” để toàn xã hội nhìn về một hướng, thống nhất quan điểm, đi theo “đường lối” xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. - Về công tác vận động quần chúng hiện nay, tác giả Nguyễn Văn Linh (Cố Tổng Bí thư), Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2015. Tác phẩm là tổng hợp các bài nói chuyện, trả lời phỏng vấn của Cố TBT Nguyễn Văn Linh về công tác dân vận, mặt trận, công đoàn, Hội LH nông dân tập thể, thanh niên, Liên hiệp các hội KH - KT, phụ nữ … trong giai đoạn từ 1983-1986 (trong giai đoạn là Bí thư Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh). Trong bài phát biểu tại đại hội Đại biểu lần thứ II của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 6 năm 1984, đồng chí đã nhắc đến tầm quan trọng của công tác chính trị tư tưởng cho đoàn viên thanh niên nhằm tạo đội ngũ kế thừa đảm bảo sứ mệnh, xứng tầm nhiệm vụ. 2.2. Chủ trương, chính sách và các công trình nghiên cứu về giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên - Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) xác định: giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát triển toàn diện nhân cách xã hội chủ 6 nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật đồng bộ về ngành nghề… Đi đôi với việc nâng cao chất lượng đào tạo chuyên môn và năng lực thực hành, cần coi trong giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, pháp luật, giáo dục thể chất và giáo dục quốc phòng… Đây có thể nói là một trong những Nghị quyết đầu tiên của Trung ương đề cập đến giáo dục chính trị tư tưởng cho người học. Trong xu thế đổi mới, Đảng ta nhận thấy vấn đề đổi mới giáo dục phù hợp với nhu cầu thực tiễn là nhiệm vụ cấp bách và giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức và pháp luật cho người học là nhiệm vụ quan trọng nhằm hình thành đội ngũ nguồn nhân lực phát triển toàn diện, đảm bảo hoàn thiện về nhân cách xã hội chủ nghĩa để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. - Luật Giáo dục đại học số 08/2012/QH13 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 Mục tiêu chung của giáo dục đại học là “đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức”. Đây là một mục tiêu cốt lõi nhằm tạo ra các thế hệ người học mang bản sắc Việt Nam. Cụ thể hóa Luật này, ngày 29 tháng 11 năm 2012, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định số 5323/QĐ-BGDĐT về việc ban hành Chương trình Công tác học sinh, sinh viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp giai đoạn 2012 – 2016. Theo đó, mục tiêu chung đã xác định rõ: “đặc biệt coi trọng công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức chấp hành pháp luật… của học sinh sinh viên”. Chương trình gồm có 7 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cho thấy giáo dục chính trị tư tưởng cho học sinh sinh viên thực sự là cần thiết, quan trọng và thông qua các hoạt động tổng thể. Năm 2016, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư 10/2016/TTBGDĐT ngày 05 tháng 4 năm 2016 về Quy chế công tác sinh viên đối với cơ sở giáo dục đại học, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến giáo dục tư tưởng chính trị. Theo đó, cơ sở giáo dục đại học phải “Giáo dục, tuyên truyền để sinh viên 7 nắm vững và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, hình thành bản lĩnh chính trị, yêu tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, cảnh giác và biết phê phán những luận điểm xuyên tạc, hành động chống phá Đảng và Nhà nước”… - Thực trạng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên hiện nay và một số giải pháp mang tính định hướng, Phan Thị Phương Anh và Trần Thị Như Tuyến, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, tập 48, năm 2017. Nghiên cứu của 2 tác giả trên phạm vi cả nước với nhóm đối tượng là sinh viên năm thứ 2 đến năm thứ 4 tại một số trường. Nghiên cứu cho thấy thực trạng về tư tưởng chính trị trong sinh viên Việt Nam hiện nay, từ đó đánh giá hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho đối tượng này. Các kết quả khảo sát và phân tích cho thấy giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên là một nhiệm vụ quan trọng của nhà trường nhưng “còn những hạn chế nhất định chưa tác động đến hết đối tượng thanh niên, sinh viên, những kết quả đạt được còn thiếu bền vững”. Các tác giả đề nghị cần “nâng cao hơn nữa tầm quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trong trường đại học” và “hoàn thiện hệ thống nội dung của công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên”… - Giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho sinh viên trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, Huỳnh Công Ba, Tạp chí Khoa học ĐHSP TPHCM, 2011. Tác giả cho rằng, nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội phải là những con người toàn diện. Trong thời kỳ hội nhập và phát triển thì giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối sống cho sinh viên cần phải được đặc biệt quan tâm, tăng cường để sinh viên thích ứng với nhu cầu mang tính thời đại, có nền 8 tảng tri thức và nhân cách trong môi trường xã hội cạnh tranh và tiềm ẩn nhiều thách thức hiện nay. - Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Nguyễn Văn Kiên, Luận văn Thạc sỹ Chính trị, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, 2014. Theo tác giả, làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng để từ đó giúp “nâng cao ý thức công dân, tinh thần yêu nước trong thế hệ trẻ Việt Nam”. Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố lớn, đầu tàu của cả nước về mọi mặt, nơi “du nhập” của nhiều trào lưu văn hóa mới nên khó tránh khỏi những “va chạm” , do đó, “công tác giáo dục chính trị tư tưởng nơi đây phải được tiến hành một cách chặt chẽ, có hệ thống nhằm từng bước hạn chế và khắc phục tình trạng một bộ phận sinh viên lung lay trước những âm mưu của các thế lực thù địch”… - Giáo dục ý thức chính trị cho sinh viên từ thực tiễn Học viện Hành chính Quốc gia, Trần Toàn Trung, Luận văn Thạc sỹ Chính trị học, Học viện Khoa học Xã hội, 2016. Trước sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, một bộ phận sinh viên có các biểu hiện lệch chuẩn, dao động lập trường, có sự nhận thức ảo tưởng về dân chủ phương Tây, thậm chí có những sinh viên đã là nạn nhận của sống ảo… Do đó, giáo dục tư tưởng chính trị cho sinh viên là nội dung quan trọng, cần thiết trước khi trở thành nguồn nhân lực cho xã hội. - Nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa yêu nước cho sinh viên Học viện Chính trị Công an nhân dân, Vương Thanh Tú - Đậu Anh Tú, Tạp chí Lý luận Chính trị, 2017. Các tác giả cho rằng chuẩn mực cao nhất của đạo lý, có giá trị văn hóa tinh thần tạo nên động lực, nội sinh trong mỗi con người đó là chủ nghĩa yêu nước. Đây là nguồn năng lượng quan trọng, bền vững góp phần tạo nên thắng 9 lợi cách mạng dân tộc. Tuy nhiên công tác giáo dục còn gặp nhiều khó khăn do những tác động từ môi trường xã hội, bản thân mỗi chủ thể chưa tích cực để tu dưỡng, rèn luyện đáp ứng yêu cầu của tình hình mới và nhiệm vụ chính trị, cách mạng Việt Nam thì việc tăng cường, đổi mới giáo dục chủ nghĩa yêu nước là một nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, trong đó, giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên là nền tảng, cốt lõi. Điểm qua để thấy quan điểm nhất quán về giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ tương lai của đất nước (trong đó bao gồm đoàn viên thanh niên là sinh viên). Song song đó là sự quan tâm của các thế hệ các nhà nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Tựu chung lại, đó là đường lối, chính sách nhằm tạo nên “sự đồng thuận xã hội”, tạo nguồn lực tổng hợp cho cách mạng, cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ đất nước. Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân cần phải được đổi mới, nâng tầm; đặc biệt là giáo dục chính trị tư tưởng cho nguồn nhân lực trong tương lai, để các em trở nên toàn diện, mang bản sắc sinh viên Việt Nam, cạnh tranh sòng phẳng, công bằng với nguồn nhân lực thế giới và sinh viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh không là ngoại lệ. Trong phạm vi đề tài, tác giả kế thừa thành quả về lý luận và thực tiễn nghiên cứu giáo dục chính trị tư tưởng cho các đối tượng nói chung và cho sinh viên ở các cơ sở giáo dục nói riêng mà tác giả đã tham khảo. Từ cái chung đó phản ánh thực tiễn nhà trường đã triển khai hoạt động này như thế nào, tác giả sẽ đi vào tìm hiểu cơ chế phối hợp giữa các đơn vị trong hệ thống. Các hoạt động đó tác động như thế nào đến quá trình giáo dục chính trị tư tưởng cho người học? Yếu tố tác động từ các hoạt động phong trào của Đoàn, Hội? Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy trường có tác động như 10 thế nào đến tư tưởng chính trị của sinh viên? Vai trò của Khoa Lý luận Chính trị trong việc giáo dục chính trị tư tưởng sinh viên như thế nào? ... Đặc biệt là việc các đơn vị có liên quan đã đảm bảo thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ, sứ mệnh của mình hay chưa. Từ rà soát đó đề xuất phương án, cách thức tổ chức giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên hiệu quả hơn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những vấn đề lý luận về giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên tác giả mong muốn làm rõ thực trạng giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh và đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên của nhà trường. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên. - Nghiên cứu, phân tích thực trạng giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên tại trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. - Nghiên cứu để đề ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên nhà trường. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: vấn đề giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh. Khách thể nghiên cứu: những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên. Đồng thời đề ra những giải 11 pháp, cơ chế phối hợp giữa các đoàn thể, đơn vị của nhà trường để mang lại hiệu quả trong việc giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: đề tài nghiên cứu vấn đề giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng có thể đề cập tới ở mức độ toàn quốc, cũng như ở những trường khác trong chừng mực để làm rõ đối tượng này. Phạm vi thời gian: từ năm 2012 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn này sử dụng phương pháp duy vật biện chứng làm cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu các đối tượng trong mối liên hệ vận động và phát triển. Đồng thời dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về công tác giáo dục chính trị tư tưởng hiện nay. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Những phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn - Phương pháp phân tích, tổng hợp: qua nghiên cứu thực trạng để phát hiện vấn đề, từ đó tìm ra nguyên nhân và đề xuất phương án giải quyết. - Phương pháp so sánh: nhằm tìm ra những mặt mạnh, yếu của vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp dự báo: nhằm đề xuất những phương án thích hợp trong tình hình mới. Nguồn thông tin dữ liệu tác giả sử dụng: - Nguồn thứ cấp: các văn bản, quy định của Bộ Giáo dục và Quy định của Nhà trường về giáo dục chính trị tư tưởng sinh viên. - Nguồn sơ cấp: sử dụng số liệu thu thập được qua việc tổng hợp từ các đơn vị trong trường; từ bộ hồ sơ đánh giá trường đại học nhà trường đang 12 triển khai (đánh giá sơ bộ); tham vấn cán bộ, quản lý phòng Công tác Sinh viên, giảng viên giảng dạy Khoa Lý luận Chính trị, cán bộ Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên và sinh viên nhà trường cũng như các tài liệu lưu trữ của các đơn vị trong trường; tham khảo các công trình nghiên cứu, các luận văn tốt nghiệp, các tạp chí và bài báo có liên quan... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Ý nghĩa lý luận: việc nghiên cứu giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên là việc làm cần thiết bởi không chỉ góp phần nâng cao nhận thức của đội ngũ những người trực tiếp quản lý, điều hành và tham gia hoạt động, trải nghiệm mà còn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của toàn xã hội về hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng. Giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên là công tác rất quan trọng nhằm hình thành cho sinh viên nền tảng nhận thức, hình thành tư tưởng, bản lĩnh chính trị; góp phần đào tạo nguồn nhân lực “vừa hồng vừa chuyên”. Hơn nữa là góp phần xây dựng bản sắc cho sinh viên của Việt Nam trong xu thế hội nhập và cạnh tranh, nhiều diễn biến khốc liệt hiện nay. Ý nghĩa thực tiễn: luận văn là những nghiên cứu, tìm hiểu đầu tiên về thực tiễn giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên từ khi có Quyết định thành lập trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh. 7. Nội dung, kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm có 3 chương. Cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên Chương 2: Thực trạng giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên tại trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 13 Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho sinh viên tại trường Đại học Tài nguyên và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh. 14 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TƯ TƯỞNG CHO SINH VIÊN 1.1. Một số khái niệm cơ bản Trước khi đi vào các nội dung của luận văn, tác giả trích dẫn và bàn luận một số khái niệm liên quan đến đề tài: giáo dục, chính trị, tư tưởng, giáo dục chính trị tư tưởng và một số vấn đề có liên quan. 1.1.1. Khái niệm về giáo dục Hồ Chủ tịch đã từng căn dặn: “Văn hóa giáo dục là một mặt trận quan trọng”. Người chỉ rõ, giáo dục là nhằm tạo ra đội ngũ, lực lượng cho cách mạng. Người thầy cũng là những người chiến sỹ trên mặt trận văn hóa, giáo dục: “trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của người thầy học là: chăm lo dạy dỗ con em của nhân dân thành người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sỹ tốt, người cán bộ tốt của nước nhà”. Như vậy, sứ mệnh của người thầy, nhà trường hay công tác giáo dục là cực kỳ quan trọng và vẻ vang. Trong giáo trình “Giáo dục đại cương”, do tác giả Hà Thị Mai biên soạn năm 2012. Tác giả cho rằng: giáo dục, về bản chất, “là quá trình truyền đạt và tiếp thu những kinh nghiệm lịch sử xã hội của xã hội loài người”. Theo đó, về mặt hoạt động, giáo dục là “quá trình tác động đến các đối tượng giáo dục để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách”. Nếu xét về mặt phạm vi, tác giả cho rằng, khái niệm giáo dục bao hàm nhiều cấp độ khái niệm khác nhau. Tác giả đưa ra 4 cấp độ khái niệm để xem xét về giáo dục. Ở cấp độ rộng nhất, giáo dục được xem là “quá trình xã hội hóa con người”. Đó là quá trình “hình thành nhân cách dưới ảnh hưởng của tác động 15 chủ quan và khách quan, có ý thức và không có ý thức của cuộc sống, của hoàn cảnh xã hội đối với các cá nhân”. Xét ở góc độ thứ hai, thì giáo dục là “giáo dục xã hội”. Đây là “hoạt động có mục đích của xã hội, với nhiều lực lượng giáo dục, tác động có hệ thống, có kế hoạch đến con người để hình thành cho họ những phẩm chất nhân cách”. Xét ở cấp độ thứ ba, tác giả cho rằng, “giáo dục được hiểu là quá trình sư phạm”. Quá trình này được thực hiện bởi lực lượng những “nhà sư phạm” và “bằng phương pháp sư phạm của mình” đã “tác động có kế hoạch, có nội dung” tới đối tượng giáo dục (học sinh) để hình thành nhận thức, phát triển trí tuệ và hình thành nhân cách ở đối tượng giáo dục. Quá trình này bao gồm quá trình dạy học và “quá trình giáo dục theo nghĩa hẹp”. Xét ở cấp độ thứ tư, tác giả cho rằng, giáo dục là “quá trình bồi dưỡng để hình thành phẩm chất đạo đức cụ thể, thông qua việc tổ chức cuộc sống, học tập và giao lưu”. Như vậy, giáo dục là một quá trình, một “chuỗi” những hoạt động có chủ đích của chủ thể (bao gồm nhà trường, gia đình và xã hội) đến đối tượng giáo dục (người học) nhằm chuyển hóa những nội dung tri thức, chuẩn mực xã hội để hình thành nên những nhân cách, nguồn nhân lực phù hợp với tồn tại xã hội. Trong Giáo dục học Đại cương của các tác giả Nguyễn Văn Hộ và Hà Thị Đức, giáo dục được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, “giáo dục là quá trình toàn vẹn nhằm hình thành phát triển nhân cách con người, được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục nhằm truyền đạt và lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội mà loài người đã tích lũy trong lịch sử. Đó là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế 16 hoạch, có phương pháp” được tổ chức trong nhà trường thông qua quá trình sư phạm của các nhà giáo dục (nhà sư phạm). Theo nghĩa hẹp, “giáo dục là quá trình hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, tình cảm, thái độ, những nét tính cách của cá nhân, những hành vi và thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội thuộc các lĩnh vực tư tưởng – chính trị, đạo đức, lao động, thẩm mỹ và thể chất cho học sinh”. Qua các khái niệm về giáo dục như trên, cho ta thấy giáo dục là một quá trình song hành cùng với sự phát triển của lịch sử loài người, trong đó có sự vận động và phát triển về tư duy của con người. Giáo dục là cơ sở cho sự phát triển và để phát triển phải có giáo dục. 1.1.2. Chính trị Khái niệm “Chính trị” cho đến nay vẫn là một thuật ngữ có nhiều “đáp án” bởi nó cũng như đời sống chính trị của nhân loại: đa dạng và phức tạp. Mặc dù là một phạm trù được đưa ra từ rất sớm nhưng cho đến nay thuật ngữ “chính trị” vẫn có rất nhiều cách lý giải khác nhau. “Chính trị” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là “polis” do nhà triết gia Hy Lạp cổ đại Aristotle (384 – 322 TCN) nêu ra. Theo ông, “chính trị là hình thức cộng sinh văn minh, đảm bảo xã hội đạt phúc lợi chung và có cuộc sống hạnh phúc”. Tác giả Dương Xuân Ngọc cho rằng, chính trị “là các quan hệ giữa con người với nhau trong những lĩnh vực nhà nước, quan hệ giữa các quốc gia và giữa các dân tộc nhằm bảo vệ lợi ích của các tầng lớp, giai cấp, các dân tộc trong xã hội trên cơ sở tôn trọng và đảm bảo quyền lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền”. Theo đó, chính trị là một phạm trù đề cập đến mối quan hệ giữa các giai cấp, quốc gia, dân tộc dựa trên các vấn đề về quyền lực và lợi ích của giai cấp cầm quyền. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan