Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giám đốc thẩm án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn xé...

Tài liệu Giám đốc thẩm án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn xét xử của tand cấp cao tại thành phố hồ chí minh

.PDF
86
408
126

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TUẤN GIÁM ĐỐC THẨM ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TUẤN GIÁM ĐỐC THẨM ÁN HÌNH SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 62.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN THANH DƢƠNG HÀ NỘI - 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM HÌNH SỰ ....................................................................................................................7 1.1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm hình sự ................................7 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục giám đốc thẩm .......................................14 1.3. Thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và của một số nước trên thế giới ......................................................................................................18 Chƣơng 2:THỰC TIỄN ÁP DỤNG GIÁM ĐỐC THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .........................................32 2.1. Đặc điểm tình hình có liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm của tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ..........................................................................32 2.2. Một số vướng mắc trong nhận thức và áp dụng giám đốc thẩm từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ....................................33 2.3. Một số ưu điểm và tồn tại trong quá trình áp dụng thủ tục giám đốc thẩm của tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ................................................58 Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ...................................................65 3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật...........................................................................65 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục giám đốc thẩm của tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh ....................................................................71 KẾT LUẬN ..............................................................................................................75 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................77 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT - BLHS : Bộ luật hình sự - BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự - CQĐT : Cơ quan điều tra - HĐXX : Hội đồng xét xử - KSV : Kiểm sát viên - TAND : Tòa án nhân dân - VKS : Viện kiểm sát - VKSND : Viện kiểm sát nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự là thủ tục tố tụng đặc biệt để xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, nhằm khắc phục vi phạm của bản án, quyết định đó. Thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại Chương XXX BLTTHS năm năm 2003, là cơ sở pháp lý quan trọng, đã và đang phát huy vai trò tích cực trong thực tiễn, góp phần bảo vệ trật tự pháp luật, lợi ích của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ: “Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ”. Trên tinh thần đó, BLTTHS năm 2015 đã hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị, nhằm khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ, qua đó nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Mặc dù các quy định của BLTTHS về thủ tục giám đốc thẩm đã từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu các quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục giám đốc thẩm, đối chiếu với thực tiễn áp dụng, nhận thấy quy định này vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế, gây khó khăn, vướng mắc cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc nhận thức và áp dụng. Bên cạnh đó, trong khoa học pháp lý nước ta, thủ tục giám đốc thẩm được một số tác giả nghiên cứu từ các góc độ và với các mức độ khác nhau, nhưng nhìn chung lý luận về thủ tục giám đốc thẩm so với các vấn đề khác của tố tụng hình sự chưa phát triển. Đặc biệt là chưa có công trình nào nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm từ thực tiễn xét xử của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Mảng tri thức về đề tài này hiện còn nhiều nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. 1 Thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh cơ bản đáp ứng yêu cầu đặt ra. Số lượng và chất lượng kháng nghị của Tòa án và VKS ngày càng được nâng lên. Tuy nhiên vẫn có trường hợp do nhận thức không đúng dẫn đến kháng nghị chưa chính xác và tạm đình chỉ thi hành bản án, sau đó HĐXX giám đốc thẩm không chấp nhận. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu về thủ tục giám đốc thẩm hình sự là một yêu cầu khách quan và cần thiết, nhằm lý giải một cách khoa học những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra. Từ những lý do trên tác giả đã chọn đề tài: “Giám đốc thẩm án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh” làm Luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Qua nghiên cứu các công trình khoa học đã công bố, cho thấy có một số công trình đề cập về giám đốc thẩm hình sự như sau: - Về Giáo trình có các công trình: Trường Đại học Luật Hà nội (2008), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà nội (2013), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; và Giáo trình Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật khác ở nước ta. - Về Bình luận khoa học có các công trình: GS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2004), Bình luận khoa học BLTTHS, NXB Công an nhân dân, Hà Nội; GS.TS Nguyễn Ngọc Anh (chủ biên) (2011), Bình luận khoa học BLTTHS năm 2003, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội. Các công trình trên khi đề cập đến thủ tục giám đốc thẩm chỉ nêu khái quát và ngắn gọn về tính chất của giám đốc thẩm, căn cứ và trình tự kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; thẩm quyền giám đốc thẩm, thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm và một số vấn đề liên quan khác. - Nghiên cứu dưới góc độ Luận án Tiến sĩ Luật học, có công trình: Phan Thị Thanh Mai (2007), Giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luật án Tiến sĩ Luật học, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội. 2 - Nghiên cứu dưới góc độ Luận văn Thạc sĩ Luật học có các công trình: Nguyễn Thị Hạnh Vân (2015), Giám đốc thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), Luật văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Quản Thị Ngọc Thảo (2007), Giám đốc thẩm: một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luật văn Thạc sĩ Luật học, bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngoài còn một số bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như: Nguyễn Quang Hiền, “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm”, Tạp chí TAND, số 7/2009; Vũ Gia Lâm, Lê Kim Quế, “Một số vấn đề về giám đốc thẩm hình sự”, Tạp chí TAND, số 14/2006; Nguyễn Văn Trượng, “Thực trạng thi hành quy định của BLTTHS về phạm vi giám đốc thẩm và những vấn đề cần hoàn thiện”, Tạp chí TAND, số 7/2011; Đinh Văn Quế, “Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm về “dân sự” trong vụ án hình sự”, Tạp chí TAND, số 9/2005; Đinh Văn Quế, “Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm theo BLTTHS năm 2003”, Tạp chí TAND, số 22/2004. Qua nội dung các công trình nghiên cứu dưới góc độ Luận án Tiến sĩ Luật học, Luận văn Thạc sĩ Luật học và các bài viết nêu trên cho thấy đề tài về thủ tục giám đốc thẩm đã được một số nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu. Các tác giả đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản về giám đốc thẩm và có những kiến nghị, đề xuất có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn. Nhưng xét về nội dung, một số công trình có phạm vi nghiên cứu quá rộng, ngược lại một số công trình chỉ nghiên cứu một số khía cạnh nhất định liên quan thủ tục giám đốc thẩm, như phát hiện một số bất cập trong luật thực định cũng như một số vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Một số vấn đề về mặt lý luận liên quan đến thủ tục giám đốc thẩm chưa được làm rõ, còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn, nhiều khía cạnh pháp lý cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Mặt khác, thực tiễn hoạt động xét xử giám đốc thẩm chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, một phần là do các quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến vấn đề này còn nhiều bất cập, chưa phù hợp trong tình hình hiện nay, cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ. 3 Như vậy đề tài: “Giám đốc thẩm án hình sự theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh” không trùng với bất kỳ công trình khoa học nào đã được công bố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm rõ những vấn đề lý luận và thực trạng áp dụng thủ tục Giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu phải thực hiện được các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống những vấn đề lý luận về thủ tục giám đốc thẩm nhằm đưa ra những khái niệm, khái quát các quy định của pháp luật nước ta cũng như của một số nước trên thế giới; - Nghiên cứu những quy định cụ thể về thủ tục giám đốc thẩm trong BLTTHS hiện hành của Việt Nam, từ đó rút ra những bất cập của các quy định về thủ tục giám đốc thẩm trong luật thực định Việt Nam cần khắc phục; - Khảo sát thực trạng áp dụng giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời phân tích làm rõ những tồn tại, hạn chế xung quanh việc áp dụng và những nguyên nhân của nó; - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục Giám đốc thẩm trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Những vấn đề lý luận cơ bản về thủ tục Giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 4 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, trên cơ sở tiếp cận các văn bản pháp luật có liên quan, chủ yếu là văn bản pháp luật tố tụng hình sự ban hành từ năm 1988 đến nay. Tập trung chủ yếu vào thủ tục giám đốc thẩm trong mối liên hệ với các chế định khác của tố tụng hình sự. - Về không gian: Thực tiễn xét xử của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh, trên cơ sở các vụ án được TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử theo giám đốc thẩm. - Về thời gian: từ khi thành lập TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh (ngày 01/6/2015) đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Đề tài Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là Phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, về cải cách tư pháp. 5.2. Phương nghiên cứu cụ thể - Phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp được sử dụng trong quá trình phân tích các quy định của pháp luật hiện hành và so sánh với các quy định của pháp luật trước đó. - Phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng trên cơ sở nghiên cứu một số vụ án điển hình đã xét xử. - Phương pháp chuyên gia được sử dụng trên cơ sở tham khảo ý kiến đánh giá của các chuyên gia có trình độ cao trong ngành Tòa án và VKS để xem xét, nhận định và tìm ra giải pháp về vấn đề nghiên cứu. - Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng trên cơ sở điều tra quan điểm của những người trực tiếp làm công tác giám đốc thẩm hình sự của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về mặt khoa học: Đề tài đã góp phần làm rõ bản chất pháp lý, cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hình thành thủ tục giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam và đề ra giải pháp hoàn thiện một số vấn đề lý luận về thủ tục giám đốc thẩm. - Về mặt thực tiễn: Các kết quả nghiên cứu của Đề tài góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh. Với ý nghĩa đó, kết quả nghiên cứu của Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và đào tạo về pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. 7. Cơ cấu của luận văn Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì nội dung được chia làm 3 chương như sau: Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về thủ tục giám đốc thẩm hình sự Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng thủ tục giám đốc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh 6 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm và đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm hình sự 1.1.1. Khái niệm thủ tục giám đốc thẩm hình sự Tố tụng hình sự là trình tự, thủ tục tiến hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. Tố tụng hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của luật tố tụng hình sự. Ở các nước trên thế giới, do truyền thống pháp luật khác nhau mà quan niệm về thủ tục giám đốc thẩm cũng có sự khác nhau. Ở các nước theo truyền thống luật dân sự (civil law), thường thực hiện chế độ “hai cấp xét xử”. Theo đó, sau khi vụ án được xét xử theo thủ tục sơ thẩm (xét xử lần đầu), bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực ngay, đương sự, bị cáo có quyền kháng cáo, VKS/Viện công tố có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn luật định để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Bản án, quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chỉ có hiệu lực khi đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị. Bản án, quyết định của Toà án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án (có tính chung thẩm). Tuy nhiên, kể cả sau khi bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp trên vẫn có quyền xét lại bản án, quyết định đó theo thủ tục luật định nhằm khắc phục vi phạm của bản án, quyết định đó. Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án thường được gọi là thủ tục giám đốc thẩm hoặc thủ tục phá án. Trái lại, ở các nước theo truyền thống thông luật (common law), thường không thực hiện chế độ “hai cấp xét xử”. Sau khi vụ án được xét xử, nếu không đồng ý với phán quyết của Toà án, bị cáo có quyền kháng cáo. Việc kháng cáo có thể tiến hành ở Toà án các cấp. Như vậy thủ tục tố tụng chỉ bao gồm: thủ tục tố tụng tại Toà sơ thẩm và thủ tục tố tụng tại Toà kháng cáo. Tuy nhiên, ở mỗi cấp Toà án, 7 pháp luật lại quy định căn cứ, thủ tục kháng cáo khác nhau. Như vậy, ở các nước này, pháp luật không quy định thủ tục giám đốc thẩm hay thủ tục phá án như ở các nước theo truyền thống luật dân sự. Việt Nam thực hiện chế độ “hai cấp xét xử” như các nước theo truyền thống luật dân sự. Việc xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được tiến hành theo thủ tục giám đốc thẩm khi có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của chủ thể có thẩm quyền. Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án đã được pháp luật Việt Nam quy định khá sớm. Tuy nhiên, thuật ngữ “giám đốc thẩm” chính thức được pháp luật quy định lần đầu tiên trong Luật tổ chức TAND năm 1981. Tiếp đó, được quy định trong các văn bản pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có BLTTHS năm 1988, 2003 và 2015. Điều 241 BLTTHS năm 1988 quy định tính chất của giám đốc thẩm là “việc xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lý vụ án”. Theo quy định này, trường hợp phát hiện thấy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án có vi phạm pháp luật, những người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm (Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án, Phó Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh và Chánh án TAND cấp tỉnh) sẽ kháng nghị bản án, quyết định đó. Trên cơ sở kháng nghị, Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm sẽ xem xét lại vụ án và ra một trong những quyết định: bác kháng nghị, sửa bản án, quyết định bị kháng nghị hoặc huỷ bản án quyết định bị kháng nghị (và giao cho Toà án cấp dưới) xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm hoặc phúc thẩm. Như vậy, cũng giống như giai đoạn trước đây, trong giai đoạn này, giám đốc thẩm được hiểu là việc Toà án cấp giám đốc thẩm xét xử lại vụ án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị. Biểu hiện rõ nhất của hoạt động “xét xử lại vụ án” là ở quy định Toà án giám đốc thẩm có quyền sửa lại nội dung của bản án hoặc quyết định bị kháng nghị. Điều 272 BLTTHS năm 2003 quy định “giám đốc thẩm là việc xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi 8 phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án”. Điểm khác biệt của BLTTHS năm 2003 là phải có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì mới xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Đồng thời, xuất phát từ nguyên tắc hai cấp xét xử, BLTTHS năm 2003 đã quy định bỏ thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong việc sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ có quyền bác kháng nghị, giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc huỷ bản án, quyết định đó để điều tra lại hoặc xét xử lại theo quy định của pháp luật. Điều 370 BLTTHS năm 2015 giữ nguyên quy định về tính chất của giám đốc thẩm nhưng có một số sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong việc sửa bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực, tương tự như BLTTHS năm 1988. Quy định của BLTTHS năm 2015 về thủ tục giám đốc thẩm là phù hợp, tương đồng với pháp luật các nước. Trong những năm gần đây, khoa học luật tố tụng hình sự nước ta đã có một số nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, chưa có công trình nào đưa ra khái niệm về giám đốc thẩm, ngoài quy định trong BLTTHS về “tính chất của giám đốc thẩm”, được xem là định nghĩa về giám đốc thẩm như đã nêu trên. Những định nghĩa nêu trên của BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 đã nêu được tính chất, căn cứ và nội dung của việc kháng nghị để bản án có hiệu lực pháp luật được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Tuy nhiên, định nghĩa này còn thiếu những đặc điểm quan trọng của giám đốc thẩm với tư cách là một thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự nhằm khắc phục những vi phạm, sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án. Tính chất của thủ tục giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Tính chất này của giám đốc thẩm là một trong những căn cứ để phân biệt với thủ tục phúc thẩm cũng như thủ tục tái thẩm trong tố tụng hình sự. Một vấn đề quan trọng đặt ra là để xác định được vi phạm nghiêm trọng trong quá trình giải quyết vụ án thì cơ chế phát hiện, trình tự, thủ tục mà Toà án và các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân theo là gì để hướng tới mục đích khắc phục 9 sai lầm, trả lại sự khách quan, công bằng cho cho những đối tượng liên quan đến vụ án. Những nội dung này được qui định trong pháp luật tố tụng hình sự các nước và tuỳ theo đặc điểm kinh tế, xã hội, pháp luật cũng như tình hình đấu tranh chống tội phạm của mỗi quốc gia mà có những qui định cho phù hợp. Như vậy, thủ tục giám đốc thẩm được quy định với mục đích nhằm kịp thời sửa chữa khắc phục những sai lầm trong bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có kháng nghị của người có thẩm quyền. Việc sửa chữa sai lầm được thực hiện thông qua quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm. Bằng các quyết định của mình Hội đồng giám đốc thẩm khắc phục gián tiếp các sai lầm thông qua việc hủy án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án; và sắp tới khi BLTTHS năm 2015 chính thức có hiệu lực thì Hội đồng giám đốc thẩm còn có thêm thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm về giám đốc thẩm như sau: Giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng hình nhằm xác định và khắc phục những vi phạm, sai lầm nghiêm trọng trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án dựa trên những căn cứ kháng nghị của người có thẩm quyền kháng nghị theo qui định của pháp luật”. 1.1.2. Đặc điểm của thủ tục giám đốc thẩm hình sự Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy giám đốc thẩm có những đặc điểm sau: - Thứ nhất, giám đốc thẩm không phải là một giai đoạn mà chỉ là thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự nhằm xem xét, khẳng định có hay không các vi phạm của bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Sau khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án bị kháng nghị thì được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc thẩm tra, xem xét những bản án, quyết định bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm được tiến hành theo các qui định của luật tố tụng hình sự nhằm xác định lại sự thật khách quan vụ án. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là Hội đồng giám đốc thẩm không xử lại bản án mà chỉ xem 10 xét và khẳng định có hay không các vi phạm của bản án hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Với đặc điểm này, thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm được đưa ra các quyết định sau: 1/ Không chấp nhận kháng nghị và giữa nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật, đây là sự khẳng định không có sự vi phạm nghiêm trong trong bản án có hiệu lực pháp luật, việc kháng nghị là không có căn cứ. 2/ Huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, trường hợp này được coi là có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng dẫn đến việc giải quyết vụ án không khách quan, sự việc phạm tội không xẩy ra hoặc có sự việc phạm tội nhưng hành vi của người bị kết án không cấu thành tội phạm. Vì vậy, bản án có hiệu lực pháp luật bị Hội đồng giám đốc thẩm ra quyết định hủy đồng thời với quyết định đình chỉ vụ án. 3/ Huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại. Đây là trường hợp Hội đồng giám đốc thẩm xác nhận và khẳng định có sự vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và cần phải tiến hành lại ở các giai đoạn điều tra hoặc xét xử để đảm bảo tính khách quan của vụ án. BLTTHS năm 2015 bổ sung thêm thẩm quyền: 1/ Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc Tòa án cấp phúc thẩm bị hủy, sửa không đúng pháp luật. 2/ Sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Thứ hai, Giám đốc thẩm là sự khắc phục những sai lầm của các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Theo pháp luật hiện hành, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử là hoạt động chứng minh nhằm làm sáng tỏ bản chất của vụ án. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, còn người bị kết án có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Qui định như 11 vậy, bởi vì quan hệ pháp luật hình sự là mối quan hệ giữa Nhà nước và người phạm tội. Nhà nước với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự có quyền quy định hành vi nào là tội phạm đồng thời buộc người có hành vi phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi bằng bản án của Toà án hoặc các quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, để truy cứu trách nhiệm của một người buộc Nhà nước phải có những chứng cứ chứng minh hành vi của họ là phạm tội và đi ngược lại với lợi ích của xã hội. Nếu các cơ quan tiến hành tố tụng không chứng minh được hành vi phạm tội của họ thì không thể buộc tội và truy cứu trách nhiệm hình sự họ. Để việc thu thập chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của một người nào đó, Nhà nước lập ra các cơ quan chuyên trách làm nhiệm vụ chứng minh tội phạm. Ở Việt Nam các cơ quan đó là CQĐT, VKS, Toà án. Các cơ quan này có nhiệm vụ phải áp dụng các biện pháp cần thiết để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, đúng người, đúng tội, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiện hình sự. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nghĩa vụ chứng minh, pháp luật quy định cho các cơ quan này được áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ cần thiết, phù hợp với nhiệm vụ chứng minh tội phạm đồng thời phải đảm bảo tôn trọng các quyền tự do của công dân. Nhưng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử nếu có giai đoạn nào cơ quan tiến hành tố tụng mắc sai lầm mà khi bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mới phát hiện ra sai lầm đó thì nghĩa vụ khắc phục phải là các cơ quan tiến hành tố tụng thông qua thủ tục giám đốc thẩm. Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm là chung thẩm không bị kháng nghị và có hiệu lực thi hành ngay sau khi quyết định đó được tuyên. Đây là hậu quả pháp lý của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự buộc các bên liên quan phải thi hành. Đồng thời, quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm trong trường hợp này là 12 sự khắc phục những sai lầm của các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử đối với những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, trả lại sự khách quan, công bằng cho vụ án. Thứ ba, Thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành khi phát hiện và khẳng định được những vi phạm pháp luật của bản án có hiệu lực pháp luật và được những người có thẩm quyền kháng nghị dựa trên những căn cứ kháng nghị được qui định trong luật. Việc phát hiện vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án pháp luật các nước đều qui định cho mọi công dân, các cơ quan nhà nước và tổ chức xã hội, nhưng trước hết thuộc về người bị kết án, VKS và Toà án. Qui định này xuất phát từ quyền được giám sát đối với hoạt động của cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng của công dân và xã hội. Ở nước ta, theo qui định tại điều 274 BLTTHS năm 2003 thì: “Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công dân có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho những người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật này”. Điều 372 BLTTHS năm 2015 giữ nguyên quy định này. Chủ thể của quyền phát hiện vi phạm pháp luật đối những bản án và quyết định có hiệu lực của toà án rất rộng, có thể nói đó là quyền của tất cả xã hội nhưng việc xác định và chấp nhận sự phát hiện đó lại thuộc về một số cơ quan tiến hành tố tụng. Do đặc điểm về cơ cấu tổ chức của hệ thống cơ quan nhà nước ta nên VKS ngoài chức năng thực hành quyền công tố còn có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Vì vậy, việc xem xét và chấp nhận phát hiện vi phạm của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được luật tố tụng hình sự được qui định đối với cả những người có thẩm quyền của cơ quan Toà án và VKS. Việc chấp nhận phát hiện vi phạm của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật được thể hiện bằng quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền theo qui định của pháp luật và phải dựa trên những căn cứ nhất định. Thông thường, luật tố 13 tụng hình sự các nước qui định căn cứ kháng nghị thuộc về bốn nhóm vấn đề, đó là: 1/ Thủ tục điều tra, xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ; 2/ Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; 3/ Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; 4/ Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS. Nội dung của những căn cứ này thực chất là những biểu hiện của việc phạm pháp luật trong các bản án quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án. 1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục giám đốc thẩm Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự được hình thành dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn sau đây. 1.2.1. Cơ sở lý luận Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ áp dụng mọi biện pháp của luật tố tụng hình sự qui định nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội. Đây là nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự không chỉ ở Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới đều quy định trách nhiệm này. Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ án đều được giải quyết khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Mà có một số trường hợp sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật mới phát hiện những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải có cơ chế khắc phục những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật được phát hiện sau khi bản án đã có hiệu lực pháp luật. Những sai lầm được phát hiện từ những bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan và nó tồn tại như một quy luật. Bởi lẽ, nhận thức chân lý là một quá trình phản ánh nhận thức của con người từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, từ hiện tượng đến 14 bản chất. Đó là quá trình trải qua hai giai đoạn tất yếu từ nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) đến nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng), từ việc thu thập, kiểm tra chứng cứ đến việc đánh giá tổng hợp các chứng cứ đã thu thập được nhằm làm rõ tình tiết của vụ án. Mặt khác, nhận thức còn là một quá trình mâu thuẫn giữa biết ít và biết nhiều, biết chưa đầy đủ và biết đầy đủ và phải đặt các sự vật hiện tượng trong mối quan hệ tổng thể, luôn vận động biến đổi nên nó phụ thuộc rất nhiều vào chủ thể của quá trình nhận thức. Do vậy, có nhận thức sai lầm là không tránh khỏi. Sai lầm của bản án hoặc quyết định của Toà án được thể hiện dưới dạng bỏ lọt tội phạm (bỏ lọt hành vi phạm tội và người phạm tội); làm oan người vô tội (xét xử người không có tội, hành vi của họ không cấu thành tội phạm); xét xử không đúng tội danh, mức án không phù hợp (xử nặng hoặc xử nhẹ, không đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội); có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Điều đó gây thiệt hại đến lợi ích của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng, gây mất niềm tin trong nhân dân, vi phạm các nguyên tắc của BLTTHS như: xác định sự thật của vụ án; đảm bảo quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân. Việc khắc phục những sai lầm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án ở các giai đoạn trước đó là việc làm cần thiết mang tính tất yếu, là yêu cầu khách quan đặt ra đối với Toà án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác. Thủ tục giám đốc thẩm là cơ chế đặc biệt để khắc phục sai lầm trong các bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn Thực tiễn giải quyết án cho thấy có rất nhiều sai lầm troHng quá trình điều tra, truy tố, xét xử, dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án không đúng pháp luật. Nhiều vụ án oan trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam trước đây và một số vụ chấn động gần đây trong cả nước và khu vực phía nam như vụ Huỳnh Văn Nén, Hàn Đức Long ... cho thấy cơ chế khắc phục oan, sai trong quá trình giải quyết vụ án hình sự thong qua thủ tục xét lại bản án, quyết định đã co hiệu lực pháp luật của Tòa án là hết sức cần thiết. 15 Khi bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật mới phát hiện có sai lầm thì tuỳ theo từng hình thức và mức độ của sai lầm đó mà chia thành các dạng khác nhau: Thứ nhất, phát hiện ra các tình tiết mới của vụ án mà trong các giai đoạn tố tụng trước đó không xác định được; Thứ hai, phát hiện ra những vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà trong quá trình giải quyết vụ án chưa xác định được. Những tình tiết mới này do những người tiến hành tố tụng không phát hiện và xác định được khi giải quyết vụ án và nó ảnh hưởng đến tính khách quan của vụ án thì được được xét lại theo trình tự tái thẩm. Khi tiến hành thủ tục này thì bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó có thể được hủy để điều tra lại, truy tố lại hoặc xét xử lại. Đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có những vi phạm pháp luật thì được tiến hành theo trình tự giám đốc thẩm. Giám đốc thẩm không phải là một cấp xét xử mà chỉ là một thủ tục đặc biệt của tố tụng hình sự. Thủ tục này chỉ có thể tiến hành khi có kháng nghị của những cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền. Tuy nhiên, không phải tất cả các vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án được phát hiện đều là căn cứ để xem xét lại bản án theo thủ tục giám đốc thẩm mà chỉ là những vi phạm nghiêm trọng ảnh hưởng tới tính khách quan của bản án. Qui định này nhằm đảm bảo sự ổn định của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nên những vi phạm không nghiêm trọng, không ảnh hưởng nhiều tới tính khách quan của vụ án và đặc biệt là không ảnh hưởng tới trách nhiệm hình sự của người bị kết án thì thì không được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm. Việc “xét lại” bản án đã có hiệu lực pháp luật của cấp giám đốc thẩm được hiểu đó là hoạt động thẩm tra, xem xét lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định đó có phù hợp với các quy định của luật hình sự không và quá trình giải quyết vụ án các cơ quan tiến hành tố tụng có tuân thủ những qui định của 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan