ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG THU HƢƠNG
GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐẶNG THU HƢƠNG
GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 8380101.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: TS. PHẠM THỊ DUYÊN THẢO
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Đặng Thu Hƣơng
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT .................................... 5
1.1.
Khái quát về giải thích pháp luật ............................................................... 5
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm...................................................................................... 5
1.1.2.
Các thành tố cơ bản của giải thích pháp luật............................................... 10
1.2.
Vai trò, ý nghĩa của giải thích pháp luật ................................................. 22
1.3.
Giải thích pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới .............................. 27
1.3.1.
Giải thích pháp luật ở Liên bang Nga ......................................................... 27
1.3.2.
Giải thích pháp luật ở Đức .......................................................................... 31
1.3.3.
Giải thích pháp luật ở Trung Quốc .............................................................. 33
1.3.4.
Một số đánh giá hoạt động giải thích pháp luật của các quốc gia trên
thế giới ......................................................................................................... 35
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 38
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOẠT ĐỘNG GIẢI THÍCH
PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM.................................................................................... 39
2.1.
Thực trạng pháp luật về giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay ..... 39
2.1.1.
Cơ sở pháp lý ............................................................................................... 39
2.1.2.
Các quy định của pháp luật về chủ thể, phạm vi đối tượng, quy trình
giải thích pháp luật ...................................................................................... 41
2.1.3.
Các quy định của pháp luật về án lệ ............................................................ 46
2.1.4.
Đánh giá các quy định của pháp luật về giải thích pháp luật ...................... 48
2.2.
Thực tiễn hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay ............ 56
2.2.1.
Hoạt động giải thích pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ................ 57
2.2.2.
Hoạt động giải thích pháp luật của Chính phủ và các Bộ ........................... 59
2.2.3.
Hoạt động giải thích pháp luật của Toà án .................................................. 61
2.2.4.
Đánh giá hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay ................... 69
2.3.
Một số nguyên nhân của thực trạng hoạt động giải thích pháp luật
ở Việt Nam hiện nay .................................................................................. 73
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 77
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI THÍCH PHÁP
LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................... 78
3.1.
Những yêu cầu cơ bản đối với giải thích pháp luật ở Việt Nam ........... 78
3.1.1.
Bám sát chủ trương xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện hội nhập quốc tế ................................................................. 79
3.1.2.
Giải thích pháp luật gắn với đặc điểm chính trị, xã hội của đất nước và
có lộ trình hợp lý, tiếp thu chọn lọc kinh nghiệm giải thích pháp luật
trên thế giới.................................................................................................. 81
3.1.3.
Giải thích pháp luật đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh hội nhập quốc tế ............ 82
3.2.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải thích pháp luật
ở Việt Nam hiện nay .................................................................................. 83
3.2.1.
Thống nhất nhận thức về giải thích pháp luật ............................................. 83
3.2.2.
Trao thẩm quyền giải thích pháp luật cho Toà án ....................................... 85
3.2.3.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến giải thích pháp luật .............. 91
3.2.4.
Có cơ chế phân định rõ giữa giải thích pháp luật với văn bản hướng
dẫn thi hành, quy định chi tiết ..................................................................... 92
3.2.5.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giải thích pháp luật .................................... 94
3.2.6.
Tăng cường cơ chế giám sát và phản biện xã hội về giải thích pháp luật ......... 95
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 103
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
GTPL
Giải thích pháp luật
MTTQ
Mặt trận tổ quốc
NNPQ
Nhà nước pháp quyền
PBXH
Phản biện xã hội
QPPL
Quy phạm pháp luật
UBTVQH
Ủy ban Thường vụ Quốc hội
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, hệ thống pháp luật của Nhà nước ta đã và đang dần dần được
hoàn thiện, phù hợp với thông lệ quốc tế và từng bước đáp ứng được các yêu cầu
trong công cuộc xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa. Pháp luật đã thực sự trở thành
công cụ hiệu quả nhất để Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội. Nhưng pháp
luật chỉ thể hiện vai trò đó của mình khi nó được thực hiện một cách nghiêm
chỉnh. Một trong những yêu cầu cấp thiết của việc xây dựng NNPQ là đảm bảo
“nguyên tắc phổ biến pháp luật” tức làm cho pháp luật đi vào cuộc sống và được
nghiêm chỉnh chấp hành. Để pháp luật được mọi cơ quan, tổ chức và công dân
chấp hành nghiêm chỉnh thì bên cạnh việc tổ chức, tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật, xử lý nghiêm những người vi phạm pháp luật, việc GTPL giúp cho
các cơ quan áp dụng pháp luật hiểu đúng ý tứ và tinh thần của văn bản pháp luật
nói chung và của từng điều luật nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng. Thực tiễn xây
dựng, ban hành và thực hiện pháp luật trong thời gian qua ở Việt Nam đã cho thấy
nhiều quy định pháp luật, trong nhiều lĩnh vực còn được hiểu theo nhiều cách
khác nhau, gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Do đó, GTPL là một vấn đề ngày càng trở nên quan trọng, nhằm góp phần
nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
Ở nước ta, Quốc hội không thực hiện việc GTPL mà giao cho UBTVQH, tuy
nhiên phạm vi các văn bản QPPL được tiến hành giải thích cũng chỉ dừng lại ở Hiến
pháp, luật và pháp lệnh. Rõ ràng sau khi Hiến pháp 1959 có quy định UBTVQH có
thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh thì cơ quan này mới chỉ tiến
hành năm lần, trong đó 2 lần Nghị quyết đề rõ là giải thích, đó là giải thích điểm c
khoản 2 Điều 241 Luật thương mại năm 1997 và giải thích khoản 6 Điều 19 Luật
Kiểm toán Nhà nước năm 2005, còn lại các Nghị quyết ban hành để quy định,
hướng dẫn giải quyết những tranh chấp có liên quan về giao dịch dân sự về nhà ở.
Điều này đã bộc lộ sự hạn chế khi trao thẩm quyền GTPL cho UBTVQH. Vì vậy,
1
cũng có quan điểm cho rằng Chính phủ, và các Bộ cũng có thẩm quyền giải thích
pháp luật. Tuy nhiên, hoạt động giải thích pháp luật của Chính phủ, và các Bộ chưa
có cơ sở pháp lý.
Nhìn từ thực tiễn của hoạt động áp dụng pháp luật và đối chiếu với nhu cầu
GTPL, rõ ràng để đáp ứng yêu cầu tự nhiên và theo thông lệ, có nhiều cơ quan nhà
nước như Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Toà án nhân dân Tối cao... trong khi
ban hành một số văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật, án lệ...
cũng đã tiến hành diễn giải, làm rõ các quy định của pháp luật thuộc văn bản pháp luật
của cấp trên nhằm thuận lợi trong quá trình áp dụng pháp luật. Hoạt động này được
đánh giá là đã GTPL nhưng nội dung giải thích này rất khó phân biệt. Tuy nhiên, dưới
góc độ của khoa học pháp lý thì công việc GTPL này là chưa theo một quy trình cụ thể,
mới chỉ mang tính tự phát khi áp dụng pháp luật chưa thống nhất, điều này đã làm phá
vỡ đi sự thống nhất trong quá trình lập pháp đến áp dụng pháp luật.
Với lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện
nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học với mong muốn góp phần làm rõ thêm
những khía cạnh lý luận, thực tiễn trong vấn đề này, qua đó góp phần phát triển hoạt
động của GTPL trong giai đoạn tới, đáp ứng yêu cầu xây dựng NNPQ xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước tới nay, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề GTPL, trong
đó tiêu biểu như:
- Kỷ yếu hội thảo quốc tế tại Hà Nội về “Giải thích pháp luật - Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Văn phòng Quốc Hội - Văn phòng dự án hỗ trợ cải cách
pháp luật và tư pháp, năm 2009.
- Luận án tiến sỹ luật học của Phạm Thị Duyên Thảo về “Giải thích pháp
luật ở Việt Nam hiện nay”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2012.
- Sách tham khảo của Phạm Thị Duyên Thảo về “Một số vấn đề về giải thích
pháp luật chính thức ở Việt Nam hiện nay”, Nxb. Chính trị Quốc gia, năm 2014.
- Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Thị Thanh Bình về “Vai trò của Toà án
trong giải thích pháp luật”, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014.
2
- Luận án tiến sỹ luật học của Vũ Hoài Nam về “Giải thích pháp luật hình
sự: Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam Học viện Khoa học xã, năm 2018.
Những công trình nghiên cứu kể trên đã giúp làm sáng tỏ một số vấn đề về
hoạt động GTPL ở nước ta, tuy nhiên đã có một số công trình viết ở giai đoạn trước
khá lâu, khó đáp ứng trước tình hình mới hiện nay. Vì vậy, luận văn này là cần
thiết, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã được công bố. Với mong
muốn qua nghiên cứu lý luận, thực tiễn của hoạt động GTPL chính thức trong giai
đoạn mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Làm rõ hơn những vấn đề lý luận chung về GTPL và
đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn hoạt động GTPL ở Việt Nam, những
thành tựu đạt được, những hạn chế còn tồn tại trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp
góp phần nâng cao chất lượng hoạt động GTPL nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về GTPL
+ Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật về GTPL, thực tiễn của
hoạt động GTPL trong thời gian qua và chỉ ra những ưu, nhược điểm và nguyên
nhân của những ưu, nhược điểm đó.
+ Dựa trên kết quả những phân tích ở trên, đưa ra một số yêu cầu về GTPL
nhằm đáp ứng xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập hoá, toàn
cầu hoá hiện nay; đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hoạt động
GTPL ở nước ta trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật và
thực tiễn giải thích pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn
hoạt động giải thích pháp luật chính thức ở Việt Nam
3
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở áp dụng các phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác-Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh; pháp
luật của Nhà nước; đường lối, chính sách của Đảng về đổi mới đất nước, phát huy
dân chủ, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân
dân, do Nhân dân và vì Nhân dân; Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể để làm rõ những
vấn đề đặt ra, bao gồm: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, ...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về lý luận, luận văn góp phần làm phong phú thêm lý luận về GTPL ở nước
ta trong thời gian qua
Về mặt thực tiễn, luận văn khái quát, giới thiệu thực trạng pháp luật về GTPL
và hoạt động GTPL của các cơ quan ở Việt Nam, phân tích, rút ra những bài học kinh
nghiệm và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng GTPL ở nước ta hiện nay.
Với ý nghĩa lý luận và thực tiễn như vậy, luận văn có thể làm dùng làm tài
liệu tham khảo ở các cơ sở đào tạo sinh viên ngành luật cũng như là một tài liệu
tham khảo cho các cơ quan nhà nước trong việc phát triển hoạt động GTPL
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được cấu trúc làm ba chương gồm:
Chương 1: Lý luận về giải thích pháp luật.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và hoạt động giải thích pháp luật ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động giải thích pháp luật ở Việt
Nam hiện nay.
4
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát về giải thích pháp luật
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm
1.1.1.1. Khái niệm
Để thực hiện chức năng quản trị xã hội của mình, nhà nước tổ chức ra các cơ
quan trong bộ máy nhà nước và ban hành pháp luật. Pháp luật là công cụ để các cơ
quan nhà nước tổ chức, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, duy trì trật tự theo
những quy tắc xử xử, áp dụng các quy tắc đó vào hoạt động quản lý nhà nước, quản
lý xã hội. Pháp luật được hiểu là hệ thống các quy tắc xử sự chung do nhà nước ban
hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và được bảo đảm thực
hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước; là yếu tố bảo đảm sự ổn định và trật
tự xã hội. Như vậy, với vị trí và vai trò vốn có của nó, pháp luật được xem là công
cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất trong việc quản lý nhà nước và xã hội. Tuy nhiên để áp
dụng pháp luật vào thực tiễn đời sống không phải lúc nào cũng thuận lợi và có sự
thống nhất, một trong số nguyên nhân đó là có nhiều cách hiểu về một QPPL. Chính
vì vậy hoạt động giải thích pháp luật (GTPL) ra đời nhằm giải quyết vấn đề trên.
Ở Việt Nam khi tìm hiểu khái niệm GTPL, đó là hệ thống pháp luật mới chỉ
quy định việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh [39, Điều 158-161] mà chưa có
bất cứ một VBQPPL hiện hành nào quy định về giải thích các hình thức VBQPPL
khác. Nhưng thực tế cho thấy, ngay cả việc giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
mặc dù được quy định rất sớm trong Hiến pháp 1980 nhưng cho đến nay cũng chỉ
có ba lần UBTVQH thực hiện thẩm quyền này [50], [54]. Vì vậy, việc GTPL nói
chung và giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh nói riêng chưa được coi trọng và còn
nhiều bất cập.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, khái niệm giải thích pháp luật được đưa ra
với nhiều quan điểm:
5
Quan điểm thứ nhất cho rằng:
Giải thích pháp luật là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
làm rõ nội dung một quy phạm nào đó của pháp luật thành văn để người
áp dụng pháp luật nói chung (cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân) có thể
thấy được một cách chắc chắn rằng quy phạm pháp luật đó điều chỉnh
một hoặc một số hành vi cụ thể nào đó như thế nào [56, tr.40].
Quan điểm thứ hai:
Giải thích pháp luật là hoạt động nhằm làm sáng tỏ về mặt tư tưởng, nội
dung của các quy phạm pháp luật, bảo đảm cho sự nhận thức, thực hiện
nghiêm chỉnh, thông nhất pháp luật [59, tr.200].
Quan điểm thứ ba:
Giải thích pháp luật theo quan điểm chung là hoạt động nhận thức để làm
sáng tỏ bản chất, nội dung, ý nghĩa của các quy phạm pháp luật được giải
thích, nhằm đảm bảo cho sự nhận thức, thực hiện, áp dụng đúng đắn,
thống nhất pháp luật [31, tr.506].
Các khái niệm nêu trên đều chỉ ra những đặc trưng giống nhau đó là: GTPL
là hoạt động nhằm làm sáng tỏ một QPPL nhất định khi gặp vướng mắc về cách hiểu
với mục đích là có sự thống nhất khi áp dụng. Hoạt động GTPL do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền.Tuy nhiên không nêu ra vấn đề là khi nào cần thực hiện GTPL.
Theo tác giả, hoạt động GTPL là hoạt động sau của hoạt động xây dựng pháp
luật, áp dụng pháp luật nếu có xuất hiện mâu thuẫn, tranh luận về cách hiểu các
QPPL dẫn đến mất đi tính đồng bộ của pháp luật. Chính vì vậy, hoạt động GTPL
chỉ được thực hiện khi có mẫu thuẫn trong cách hiểu (tức một QPPL có thể có nhiều
cách hiểu khác nhau từ nhiều chủ thể có thẩm quyền áp dụng), trong áp dụng pháp
luật (tức có tranh chấp pháp lý và chưa có pháp luật điều chỉnh trực tiếp. Hoạt động
này thường xuất hiện trong hoạt động xét xử của Toà án).
Theo đó, tác giả đưa ra khái niệm GTPL như sau:
Giải thích pháp luật là hoạt động của nhà nước theo một quy trình pháp lý
nhằm làm rõ nội dung của pháp luật khi có nhiều cách hiểu trong quá trình áp
6
dụng, thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm sự thống nhất trong nhận thức, đồng bộ
trong thực tiễn.
Hiện nay có nhiều công trình nghiên cứu về GTPL, đa số các công trình đều
có sự phân loại GTPL tồn tại ở 2 dạng là GTPL không chính thức và GTPL chính
thức, trong đó:
- GTPL không chính thức được hiểu là làm rõ nội dung của pháp luật nhưng
kết quả không có giá trị pháp lý mà thưởng chỉ để tham khảo
- GTPL chính thức là làm rõ nội dung của pháp luật, chủ thể thực hiện có
thẩm quyền, kết quả giải thích mang tính bắt buộc đối với đối tượng áp dụng tức có
giá trị pháp lý.
Trong phạm vi luận văn, tác giả viết theo hướng GTPL chính thức.
1.1.1.2. Đặc điểm
Theo tác giả, hoạt động GTPL có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, là hoạt động mang tính quyền lực của nhà nước
Đây là đặc điểm thể hiện sự khác biệt với GTPL ở trong những điều kiện,
hoàn cảnh khác nhau của đời sống bởi lẽ GTPL xuất hiện hầu hết trong đời sống
trong đó có đời sống pháp lý. Từ hoạt động xây dựng, thực hiện, áp dụng pháp luật
cho đến các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học pháp lý. Do vậy, sẽ có rất
nhiều cách giải thích khác nhau về cùng một vấn đề, cùng một QPPL. GTPL xuất
phát từ nhiều chủ thể nhằm phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Chẳng hạn GTPL
đến từ nhu cầu nghiên cứu khoa học pháp lý và môi trường giảng dạy của các cơ sở
đào tạo Luật, GTPL trong trường hợp này chỉ mang tính tham khảo, không có giá trị
pháp lý bắt buộc thực hiện. Chính vì vậy GTPL trong phạm vi nghiên cứu của luận
văn, tác giả muốn nhấn mạnh tính quyền lực của nhà nước nhằm thể hiện giá trị pháp
lý của hoạt động GTPL. Tức GTPL mang tính chính thức.
Tính quyền lực của Nhà nước trong GTPL thể hiện ở việc hoạt động này
xuất phát từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Thẩm quyền này cũng phải
được luật định. “Tính thẩm quyền của nhà nước là một đặc điểm mang tính tất yếu
của hoạt động GTPL, bởi lẽ nó đem đến cho hoạt động GTPL tính chính thức và giá
7
trị pháp lý. Tức GTPL chính thức cũng mang gia trị bắt buộc về pháp lý đối với tất
cả các chủ thể giống như chính bản thân QPPL mà nó giải thích” [56, tr.40].
Thứ hai, GTPL được thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định.
Như đã nêu trên, phạm vi của luận văn là đề cập đến GTPL chính thức, việc
GTPL cũng cần phải ban hành văn bản cụ thể để thể hiện nội dung pháp luật được
giải thích cũng như giá trị pháp lý của văn bản GTPL. Tuy nhiên để tránh tình trạng
tuỳ tiện trong việc ban hành văn bản GTPL, các chủ thể có thẩm quyền GTPL bắt
buộc phải tuân theo trình tự, thủ tục của quy trình giải thích đó. Quy trình này phải
được luật hóa, được tuân thủ nghiêm ngặt với các nguyên tắc, quy tắc, phương
pháp, mục đích của hoạt động GTPL.Đặc biệt, quy trình của hoạt động GTPL là
quy trình của hoạt động áp dụng pháp luật chứ không phải hoạt động xây dựng pháp
luật, bởi lẽ GTPL là hoạt động mang tính tất yếu ngay sau hoạt động xây dựng pháp
luật và mục đích của nó là làm rõ tinh thần của một quy định pháp luật khi có nhiều
cách hiểu khác nhau. Điều này nhằm khẳng định hoạt động GTPL không phải là
hoạt động lập pháp.
Mặc dù hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào quy định cụ thể, chi tiết về
trình tự, thủ tục GTPL nhưng tại Điều 160 Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2015
đã quy định về Trình tự, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh:
Điều 160. Trình tự, thủ tục giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh
1. Tùy theo tính chất, nội dung của vấn đề cần được giải thích, Ủy
ban thường vụ Quốc hội giao Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội soạn
thảo dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh trình Ủy
ban thường vụ Quốc hội.
Ủy ban thường vụ Quốc hội giao Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban của Quốc
hội thẩm tra về sự phù hợp của dự thảo nghị quyết giải thích Hiến pháp,
luật, pháp lệnh với tinh thần và nội dung của văn bản được giải thích.
2. Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua dự thảo nghị quyết
giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh theo trình tự sau đây:
8
a) Đại diện cơ quan được phân công chuẩn bị dự thảo nghị quyết giải
thích thuyết trình và đọc toàn văn dự thảo;
b) Đại diện cơ quan chủ trì thẩm tra trình bày báo cáo thẩm tra;
c) Đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân được mời tham dự phiên họp phát
biểu ý kiến,
d) Ủy ban thường vụ Quốc hội thảo luận;
đ) Chủ tọa phiên họp kết luận;
e) Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết;
g) Chủ tịch Quốc hội ký nghị quyết giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh.
Tuy nhiên phạm vi GTPL chỉ dừng lại đó là giải thích Hiến pháp, luật, pháp
lệnh. Về nội dung này, tác giả sẽ phân tích rõ hơn ở Chương II.
Thứ ba,GTPL là hoạt động có mục đích
Nhiệm vụ và mục đích cơ bản nhất của GTPL là xác định chính xác nội
dung, ý nghĩa, ý đồ của nhà làm luật được thể hiện trong QPPL để nhận thức, thực
hiện pháp luật đúng đắn, thống nhất, đặc biệt là khi quy phạm đó bộc lộ khả năng
phải giải thích. GTPL thực chất là giải thích các QPPL. Có rất nhiều vấn đề mà hoạt
động GTPL phải tác động đến như sự mâu thuẫn giữa các quy phạm, sự thiếu hụt
của một số quy phạm nhưng QPPL vẫn là đơn vị đặc thù của hệ thống pháp luật, nó
bao quát mọi vấn đề trong đời sống xã hội và con người, nó là đối tượng hàng đầu
và cơ bản của hoạt động giải thích pháp luật. GTPL có nghĩa vụ thu hẹp hoặc xóa
bỏ khoảng cách này bằng một hoạt động là làm rõ nội dung, ý nghĩa chứa đựng
trong các QPPL.
Thứ tư, GTPL là hoạt động tất yếu sau hoạt động lập pháp, trong quá trình
thực hiện pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống.
Việc thực hiện hóa pháp luật có thể bằng nhiều cách khác nhau, do sự chủ
động của các chủ thể pháp luật hoặc các chủ thể có thẩm quyền thực hiện thông quá
hoạt động áp dụng pháp luật của họ. Đối với hình thức thực hiện pháp luật nào thì
việc nhận thức cho đúng, cho thống nhất pháp luật phải đặt ra trước tiên, để nhận
thức đúng được thì phải giải thích pháp luật.GTPL như là một hoạt động tất yếu sau
9
hoạt động lập pháp trong quá trình hoàn thiện pháp luật, là một hình ảnh biện chứng
của nhận thức: “từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng
trở về thực tiễn”. Một văn bản pháp luật được sử dụng khi nó được giải thích một
cách dễ hiểu và được hiện thực, cụ thể hóa vào đời sống xã hội.
1.1.2. Các thành tố cơ bản của giải thích pháp luật
1.1.2.1. Hình thức của giải thích pháp luật
Căn cứ vào mục đích, GTPL được phân loại thành hai dạng: GTPL không
chính thức và GTPL chính thức, trong đó:
- GTPL không chính thức được hiểu là làm rõ nội dung của pháp luật nhưng
kết quả không có giá trị pháp lý mà thưởng chỉ để tham khảo. Thường xuất hiện
trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo Luật học.
- GTPL chính thức là làm rõ nội dung của pháp luật, chủ thể thực hiện có
thẩm quyền, kết quả giải thích mang tính bắt buộc đối với đối tượng áp dụng tức có
giá trị pháp lý.
Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn chỉ đề cập đến GTPL chính thức.
Giải thích pháp luật chính thức (giải thích pháp luật có giá trị pháp lý) là giải
thích do các chủ thể có thẩm quyền giải thích văn bản hay quy định đó của pháp
luật tiến hành. Nội dung lời giải thích chính thức có giá trị pháp lý, bắt buộc các tổ
chức, cá nhân khác phải nhận thức và thực hiện đúng những gì đã được giải thích.
GTPL chính thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nhận thức để xây dựng, thực
hiện và áp dụng các quy định hay văn bản pháp luật.
GTPL chính thức được chia thành hai hình thức trên cơ sở nghiên cứu tính
chất của GTPL đó là, GTPL chính thức mang tính mang tính quy phạm và GTPL
chính thức mang tính vụ việc:
- Giải thích chính thức mang tính quy phạm
Do chủ thể có thẩm quyền tiến hành theo một quy trình luật định, sản phẩm
giải thích thể hiện dưới dạng văn bản QPPL, mang tính bắt buộc chung, hiệu lực
giống với hiệu lực của văn bản được giải thích. GTPL mang tính quy phạm trong
thực tế thường là giải thích các văn bản luật, các văn bản QPPL của các cơ quan cấp
trên, các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
10
Văn bản giải thích trong trường hợp này mang tính quy phạm nên nó mang
đầy đủ những đặc điểm của văn bản QPPL như được áp dụng nhiều lần, mang tính
bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện...
- Giải thích chính thức mang tính vụ việc: GTPL tiến hành khi một sự việc
nhất định phát sinh nhu cầu GTPL có liên quan. Giá trị pháp lý của kết quả giải
thích thường chỉ có hiệu lực đối với một vụ việc pháp lý cụ thể, còn đối với sự việc
khác, nó không có giá trị. Hình thức này thường xuất hiện trong khi áp dụng pháp
luật của các chủ thể có thẩm quyền, mà chủ yếu là Tòa án trong khi xét xử để đưa ra
những phán quyết. Tuy nhiên, có một số trường hợp giải thích chính thức cho vụ
việc có thể trở thành giải thích mang tính quy phạm đối với những trường hợp
tương tự như vậy. Ví dụ: Địa phương A yêu cầu giải thích quy định X và đã được
giải thích cụ thể cho địa phương A, nhưng sau một thời gian địa phương B cũng yêu
cầu giải thích quy định X thì không cần giải thích lại mà có thể sử dụng kết quả đã
giải thích cho địa phương A.
Giải thích mang tính quy phạm và giải thích mang tính vụ việc là hai hình
thức khác nhau nhưng có mối quan hệ tương ứng vì GTPL mang tính vụ việc cũng
vẫn xem xét từ quy phạm. Mối liên hệ này còn được thể hiện ở việc đôi khi kết quả
của một “giải thích mang tính vụ việc” lại dẫn đến việc chỉnh sửa một quy phạm, và
khi một “giải thích mang tính quy phạm” lại nhờ nó mà giải quyết được những tình
huống đặc biệt trong một quan hệ pháp luật cụ thể nào đó.
1.1.2.2. Nguyên tắc của giải thích pháp luật
Thứ nhất, nguyên tắc về sự cần thiết GTPL
Đây là nguyên tắc thể hiện sự đặc trưng cơ bản của GTPL, bởi lẽ, GTPL là
làm rõ nội dung của pháp luật và kết quả của GTPL có giá trị pháp lý tương đương
với pháp luật. Vì vậy, để tránh việc lạm dụng GTPL nhằm đạt được những lợi ích
nhất định hoặc dẫn đến tình trạng đồ sộ của hệ thống pháp luật thì sự cần thiết ở đây
phải hiểu rõ là GTPL được thực hiện trong những trường hợp nào và điều kiện để
thực hiện hoạt động GTPL phải thật sự nghiêm khắc.
Theo tác giả, GTPL chỉ được thực hiện khi có tranh chấp pháp lý xảy ra, mà
11
tranh chấp đó chưa có pháp luật để điều chỉnh trực tiếp (có thể gọi là trường hợp áp
dụng pháp luật tương tự) hoặc tranh chấp pháp lý đó có pháp luật điều chỉnh nhưng
pháp luật đó có nhiều cách hiểu khác nhau (cần giải thích yếu tố pháp luật đó với
mục đích áp dụng thống nhất, nhất quán, tránh việc mỗi cơ quan hay mỗi địa
phương có một cách hiểu khác nhau dẫn đến cách thức áp dụng khác nhau).
Thứ hai, nguyên tắc tôn trọng ngôn ngữ quy phạm
Nguyên tắc này được hiểu là khi ngôn ngữ của quy phạm đã nhất quán, rõ
ràng thì phải tuyệt đối tuân theo và không cần giải thích thêm, còn nếu đã cần giải
thích thì chủ thể giải thích không được làm thay đổi nội dung của ngôn ngữ văn bản
cần giải thích.
Theo như hệ thống pháp luật Anh - Mỹ, đây được xem là nguyên tắc cơ
bản của thông luật đối với hoạt động GTPL. Công việc đầu tiên của thẩm phán
khi bắt đầu giải thích luật thành văn là phải dựa trên ngữ nghĩa của từ và cấu trúc
câu để giải thích. Nếu nghĩa của từ cần giải thích đã rõ thì thẩm phán phải áp
dụng theo nghĩa đó.
Nguyên tắc này đã được áp dụng trong vụ án Fisher v. Bell (1961) QB 394.
Theo đó, một người bán hàng bị bắt vì đã trưng bày trong cửa sổ cửa hàng của mình
một con dao găm kèm theo một tấm nhãn ghi giá của con dao. Anh ta bị buộc tội
bán một con dao và hành vi này được cho là trái với quy định tại khoản 1 Điều 1
Đạo luật về Hạn chế vũ khí tấn công năm 1959 của Anh quốc (Restriction of
Offensive Weapons Act 1959). Tuy nhiên, Thẩm phán đã nhận định rằng theo các
nguyên tắc chung của luật hợp đồng, việc trưng bày con dao không phải là một đề
nghị bán mà chỉ đơn thuần là một lời mời (đối với khách hàng), và như vậy người
bán hàng trên đã không đưa ra con dao để bán và không vi phạm khoản 1 Điều 1
Đạo luật về Hạn chế vũ khí tấn công năm 1959.
Đây là nguyên tắc có tính đặc thù nhằm quy định kỹ thuật xử lý ngôn ngữ
văn bản QPPL trong quá trình GTPL, yêu cầu các chủ thể giải thích phải bám sát ý
chí và mục đích của cơ quan lập pháp thể hiện ở bản thân câu chữ và thường là
trùng với mục đích khách quan của văn bản. Nếu trong trường hợp gặp hiện tượng
12
đa nghĩa hoặc chưa sáng tỏ thì phải xác định cho ra nghĩa của văn bản trên cơ sở ý
tưởng, mong muốn của chủ thể ban hành pháp luật. Nếu không tuân thủ nguyên tắc
này, các nhà giải thích sẽ rất dễ thay việc làm rõ nội dung, tư tưởng của văn bản
pháp luật bằng việc bổ sung những khuyết thiếu của pháp luật từ sự giải thích xa rời
với ý chí của cơ quan lập pháp, xa rời các ý tưởng mà nhà làm luật thể hiện trong
tác phẩm của họ. Nguyên tắc này được thửa nhận rộng rãi trong thực tiễn và trong
lý luận GTPL ở nhiều quốc gia.
Còn theo các nhà luật học Pháp có quan niệm tiên quyết, việc giải thích pháp
luật chỉ được thực hiện khi văn bản đang cần viện dẫn không còn rõ ràng, điều này
được thể hiện qua châm ngôn “In claris non fit interpretatio - không cần giải thích
những gì đã rõ ràng”. Quan niệm này được Giáo sư Portalis khẳng định: “Khi luật
rõ ràng, cần phải tuân thủ; khi luật tối nghĩa cần phải nghiên cứu sâu hơn những quy
định”. Bên cạnh đó, nhiều thẩm phán cũng như luật gia cũng ủng hộ quan điểm này
“Khi luật quy định rõ ràng thì các thẩm phán bắt buộc áp dụng theo ý nghĩa của luật
và cấm nhân danh giải thích pháp luật để tìm hiểu ý chí của nhà lập pháp, trừ trường
hợp việc áp dụng văn bản luật dẫn đến sự phi lý nhất định nào đó”.
Ở Việt Nam, nguyên tắc này phải được thể hiện ở ba nội dung:
- Phải tôn trọng đối với ngôn ngữ cùng loại hoặc cùng nhóm văn bản. Có
nghĩa là, nếu có một điều luật hoặc một văn bản nào đó liệt kê một danh sách các sự
vật cụ thể, thì bất kỳ khái niệm chung nào theo sau danh sách đó sẽ được giải thích
theo nghĩa phản ánh các sự vật cụ thể đã được đưa ra.
- Phải tôn trọng sự xác nhận tính loại trừ của ngôn ngữ văn bản. Chẳng hạn,
khi một điều luật mô tả sự vật thì có nghĩa là loại trừ các sự vật khác.
- Phải tôn trọng sự nhận thức từ ngữ trong văn bản theo bối cảnh của nó. Tức
là, để xác định được nghĩa của một từ thì phải xem xét cả các từ và điều luật đi kèm.
Thứ ba, nguyên tắc mục đích của văn bản pháp luật
Nguyên tắc này được hiểu là khi tiến hành GTPL, các chủ thể phải bám sát
mục đích của việc ban hành văn bản pháp luật đang được áp dụng. Mỗi văn bản
pháp luật ban hành ra đều phải thể hiện mục đích áp dụng vào thực tiễn là gì. Tức
13
trước khi ban hành, chủ thể có thẩm quyền phải căn cứ vào yêu cầu khách quan của
thực tiễn có cần pháp luật điều chỉnh k, thực tiễn đó thuộc lĩnh vực gì....
Nguyên tắc này cũng được áp dụng hầu hết ở các quốc gia trên thế giới.
Chẳng hạn, trong giải quyết vụ R vs. Rogers (2007)[71]. Trong vụ án này, bị can là
một người đàn ông (quốc tịch Anh) đã dùng lời lẽ kỳ thị, phân biệt chủng tộc đối
với ba người phụ nữ (quốc tịch Tây Ban Nha) như: “người nước ngoài đẫm máu bloody foreigners” hay “cút về đất nước của các người - get back to your own
country” và hành vi này bị cáo buộc là trái với điểm a khoản 1 Điều 31 Luật Tội
phạm và Rối loạn năm 1998 (Crime and Disorder Act 1998). Mặc dù Điều 32 Luật
Tội phạm và Rối loạn năm 1998 của Anh quốc không quy định những từ ngữ được
sử dụng trên là vi phạm, nhưng xét về tổng thể mục đích của Đạo luật thì người đàn
ông nêu trên đã có hành vi phân biệt chủng tộc đối với người nước ngoài.
Ở Mỹ, trong 6 bước giải thích một quy định của pháp luật cũng thể hiện
nguyên tắc này tại bước thứ năm [71, pp.189-195]: (i) xem xét câu chữ, ngôn ngữ
của chính văn bản đang được áp dụng - language; (ii) xem xét cấu trúc của toàn văn
bản - structure; (iii) xem xét lịch sử xây dựng và ban hành quy định đó - history;
(iv) xem xét tiền lệ pháp (gồm cả án lệ) - precedent; (v) xem xét mục đích ban hành
quy định đó là gì - purpose; và (vi) xem xét kết quả giải quyết sẽ tác động như thế
nào đến chủ thể đang bị áp dụng pháp luật, đến xã hội, đến nhà nước nói chung consequences.
Thứ tư, nguyên tắc tôn trọng ý chí của cơ quan lập pháp
Nguyên tắc này được hiểu là khi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành GTPL
phải bám sát ý chí, mục đích của cơ quan lập pháp thể hiện ở bản thân câu chữ và
thường là trùng với mục đích khách quan đã nêu ở nguyên tắc thứ ba. Đây là
nguyên tắc bảo đảm việc GTPL khách quan, trung thực, tránh việc chủ thể có thẩm
quyền GTPL làm thay đổi nội dung, nghĩa của của văn bản pháp luật theo ý chí chủ
quan của chính chủ thể giải thích nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Nguyên tắc này cũng được thừa nhận rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Chẳng hạn, ở Pháp, việc nghiên cứu ý chí của nhà lập pháp đã được khuyến khích
14
- Xem thêm -