Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam t...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự việt nam từ thực tiễn tỉnh sơn la

.PDF
92
414
103

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÒ THUẬN HẢI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH SƠN LA Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ QUỲNH CHI HÀ NỘI, 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi trên cơ sở định hướng của người hướng dẫn khoa học là TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi. Các số liệu và kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng và chính xác. Tác giả luận văn Lò Thuận Hải DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất QSDĐ Quyền sử dụng đất TA Tòa án TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC Viện kiểm sát nhân dân tối cao UBND Ủy ban nhân dân XHCN Xã hội chủ nghĩa MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT ..................................................6 1.1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất .........6 1.2. Khái quát sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ................................................................................ 17 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH SƠN LA ........................................................................30 2.1. Thực trạng pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ........................................................................................................ 30 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại tỉnh Sơn La ................................................................ 40 Chƣơng 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH SƠN LA .......................... 60 3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Sơn La ................................ 60 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Sơn La ................................ 66 KẾT LUẬN ..................................................................................................77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................79 PHỤ LỤC .....................................................................................................83 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thực tiễn đã khẳng định rằng, mọi hoạt động của con người đều bắt nguồn từ đất đai. Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là không gian cư trú, là nguồn sống, tư liệu sản xuất đặc biệt, là tài sản và là nguồn lực quan trọng để phát triển đất nước. Không ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của đất đai đối với cuộc sống con người, nó có ý nghĩa hàng đầu về mọi mặt, mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia. Hiến pháp 1980 ra đời đã quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, đến nay quyền của người sử dụng đất không ngừng được phát triển. Từ chỗ người sử dụng đất chỉ có quyền khai thác các công dụng của đất đai, không có quyền thực hiện các giao dịch dân sự về đất đai, đến khi có Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai năm 1993 và đặc biệt là khi Bộ luật Dân sự năm 1995 ra đời thì Nhà nước đã thừa nhận cho người dân có năm quyền sử dụng đất là chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, tặng cho, thừa kế. Quyền năng của người quản lý, sử dụng đất hợp pháp sẽ ngày càng được đảm bảo tốt hơn, thể hiện sự bình đẳng giữa các chủ thể và cũng là để quản lý, khai thác đất đai có hiệu quả hơn. Luật Đất đai năm 2013 thay thế cho Luật Đất đai năm 2003 và Bộ luật Dân sự năm 2015 thay thế cho Bộ luật Dân sự năm 2005 đã giải quyết được phần nào những hạn chế, vướng mắc trong việc đảm bảo thực hiện quyền của người sử dụng đất, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Hiện nay ở nước ta các văn bản pháp luật điều chỉnh việc tranh chấp quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tuy có nhiều nhưng vẫn chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo nhau; nhiều quy định không còn phù hợp, có sự mâu thuẫn với đời sống xã hội gây khó khăn cho tòa án trong công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Tranh chấp quyền sử dụng đất là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội. Đặc biệt, khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đất đai trở thành một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị thì các vụ tranh chấp quyền sử dụng đất có xu 1 hướng ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về tính chất, nhất là ở những địa phương có tốc độ đô thị hóa nhanh. Mỗi năm, Tòa án nhân dân các cấp phải thụ lý và giải quyết hàng ngàn vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất. Nhìn chung, ngành Tòa án nhân dân đã giải quyết thành công một lượng lớn các vụ tranh chấp về quyền sử dụng đất, chất lượng xét xử ngày càng cao, phần nào bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà tại nhiều nơi hoạt động giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong đợi, trong đó có cả yếu tố khách quan như: Cơ chế quản lý đất đai còn nhiều bất cập, thiếu sót; chính sách, pháp luật không đồng bộ, còn chồng chéo nhau nhưng lại chậm được sửa đổi bổ sung… Và yếu tố chủ quan như: Trình độ chuyên môn của một số thẩm phán còn hạn chế; trong quá trình giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất còn chậm khắc phục những tồn tại, vướng mắc gặp phải. Là một trong những cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp quyền sử dụng đất, Tòa án nhân dân đã có nhiều đóng góp và giữ vai trò ngày càng quan trọng trong công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành về quyền sử dụng đất và thực tiễn áp dụng của Tòa án nhân dân (qua thực tiễn tại tỉnh Sơn La) vào giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, để từ đó phát hiện ra những hạn chế, thiếu sót, bất cập của hệ thống pháp luật và trên cơ sở đó đề xuất những kiến nghị, các giải pháp giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra những điều chỉnh phù hợp, góp phần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật về quyền sử dụng đất để phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước ta trong quá trình hội nhập hiện nay. Có thể nhận thấy rằng việc giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất hiện nay là công tác khó khăn, phức tạp nhất trong các tranh chấp dân sự nói chung, kết quả giải quyết ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người dân. Do đó, để góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, cũng như nâng cao hiệu quả của công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân và xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất có hiệu quả 2 nhằm phát huy hết giá trị của quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất là một việc làm có ý nghĩa to lớn, quan trọng cả về mặt thực tiễn và lý luận hiện nay. Nhận thức được điều đó, tôi đã lựa chọn vấn đề “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, giới nghiên cứu khoa học xã hội nói chung và khoa học pháp lý nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu trực tiếp và gián tiếp về giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam với phạm vi và mức độ khác nhau. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như: Hướng dẫn và tìm hiểu các vấn đề về tranh chấp, khiếu kiện đất đai của TS Nguyễn Ngọc Điện, Nhà xuất bản trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996; Tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án ở nước ta, Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Mai Thị Tú Oanh, năm 2013. Sát hơn với đề tài nghiên cứu của Luận văn là các bài viết, các công trình nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí, các báo có uy tín trong nước như: Tranh chấp đất đai và khiếu kiện kéo dài: Những nguyên nhân có tính lịch sử của tác giả Nguyễn Quang Tuyến trong báo cáo tham luận tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp” năm 2008; Tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên tạp chí Tòa án nhân dân số 23 và 24 năm 2006 với chủ đề: Một vài suy nghĩ về những quy định chung trong phần chuyển quyền sử dụng đất, thẩm quyền giải quyết và hướng xử lý một vài tranh chấp chuyển quyền sử dụng đất được quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005... Các đề tài và bài viết trên đã cung cấp một lượng lớn thông tin, phong phú và đa dạng dưới các góc nhìn, các quan điểm khác nhau về những khía cạnh và những nội dung có liên quan đến đề tài luận văn. Qua đó, có cái nhìn sâu sắc và nhận diện vấn đề nghiên cứu một cách khoa học hơn. Tuy các đề tài và bài viết kể trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh và ở những mức độ khác nhau của vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai nhưng nếu nhìn một cách tổng thể, hệ thống thì mỗi tác giả lại có những quan điểm chủ quan, hơi thiên lệch về một góc độ nào đó, chưa xem xét vấn đề trong mối hài hòa, giao thoa giữa 3 các ngành luật. Mặt khác, trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội vẫn đang có những thay đổi nhanh chóng thì các kết quả mà giới khoa học pháp lý nước ta đã đạt được vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện. Hơn nữa, dưới góc độ nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn tại tỉnh Sơn La thì vẫn chưa có một công trình nào. Bởi vậy, trong một chừng mực nào đó, việc nghiên cứu thành công đề tài “Giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La” trong khuôn khổ luận văn luật học vẫn là một công việc có ý nghĩa lý luận và mang tính thời sự. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng tranh chấp và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La. Qua đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế áp dụng pháp luật để giải quyết có hiệu quả hơn các tranh chấp về quyền sử dụng đất. Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu, làm sáng tỏ những quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất; phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất ở tỉnh Sơn La. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất; đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp cụ thể, thích hợp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, giúp Tòa án nhân dân nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp này, tránh việc khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Gồm các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tranh chấp quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất qua các thời kỳ lịch sử khác nhau; thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự ở tỉnh Sơn La thông qua một số vụ án cụ thể trong những năm gần đây. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về một số dạng 4 tranh chấp quyền sử dụng đất điển hình, các quy định về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam và cơ chế thực hiện tương ứng của Tòa án nhân dân qua thực tiễn áp dụng pháp luật ở tỉnh Sơn La (từ năm 2012 đến năm 2017). Qua đó đưa ra các yêu cầu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Sơn La. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để giải quyết các vấn đề đặt ra, người viết luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp, trao đổi chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Các kết quả nghiên cứu của đề tài này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học. Một số kiến nghị của đề tài có giá trị tham khảo đối với các cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật trong quá trình xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền sử dụng đất nói chung và pháp luật giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng ở nước ta. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận và khái quát sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất. Chương 2: Thực trạng pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Sơn La. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất theo pháp luật tố tụng dân sự từ thực tiễn tỉnh Sơn La. 5 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 1.1. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất 1.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất, tranh chấp quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất 1.1.1.1. Khái niệm quyền sử dụng đất Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận sự tồn tại của nhiều hình thức sở hữu khác nhau về đất đai (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân). Theo đó, Điều 31 Luật Cải cách ruộng đất năm 1953 quy định: “Người được chia ruộng đất có quyền sở hữu ruộng đất đó... Chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cho người được chia. Mọi khế ước cũ đều huỷ bỏ. Người được chia có quyền chia gia tài, cầm, bán, cho... ruộng đất được chia”. Tuy nhiên, kể từ khi Hiến pháp năm 1980 có hiệu lực thì tại Điều 19: “Đất đai, rừng núi, sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa... đều thuộc sở hữu toàn dân” và Điều 20: “Những tập thể và cá nhân đang sử dụng đất đai được tiếp tục sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật”. Chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai tiếp tục được khẳng định tại Hiến pháp năm 1992 (Điều 17) và Hiến pháp năm 2013 (Điều 53). Trên tinh thần đó, Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013 đã cụ thể hóa chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, trong đó đặc biệt là quy định về quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu về đất đai. Các quy định của pháp luật đất đai cho thấy, chỉ khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất thì tổ chức, hộ gia đình, cá nhân mới được thực hiện quyền của người sử dụng đất. Trên nguyên lý đó, mặc dù là chủ thể trực tiếp khai thác, sử dụng đất đai, nhưng người sử dụng đất không phải là chủ sở hữu đất đai và khi thực hiện các quyền của mình (chuyển nhượng, cho, tặng, cho thuê... quyền 6 sử dụng đất) thì phải được sự cho phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với các điều kiện đã được pháp luật đất đai quy định. Tuy không đồng nhất các khái niệm về quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, nhưng trong số 05 quyền của người sử dụng đất tại Luật Đất đai năm 1993, sau đó mở rộng đến 10 quyền tại Luật Đất đai năm 2003 và 08 quyền tại Luật Đất đai năm 2013 có nhiều quyền mang tính chất định đoạt tài sản (giống như chủ sở hữu), nghĩa là việc thực hiện quyền dẫn đến thay đổi người sử dụng đất với tư cách là chủ thể trực tiếp quản lý, khai thác thửa đất, đó là quyền trao đổi, tặng cho, chuyển nhượng, góp vốn, thừa kế bằng quyền sử dụng đất. Mặc dù thủ tục thực hiện các quyền nêu trên của người sử dụng đất tuy phức tạp hơn so với việc định đoạt các loại tài sản thông thường khác, nhưng nếu nhìn từ góc độ khoa học pháp lý thì sẽ dễ dàng nhận thấy quyền của người sử dụng đất thực chất là một tập hợp nhiều quyền năng về tài sản, trong đó bao gồm cả quyền định đoạt. Chính vì vậy, “sáng t o ra khái niệm quyền sử dụng đất, người iệt Nam dường như đ t o ra một khái niệm sở hữu k p, một khái niệm sở hữu đa tầng: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song quyền sử dụng đất l i thuộc về cá nhân ho c t chức” [8, tr.169]. Sự tồn tại thiếu rõ ràng của khái niệm “sở hữu k p” cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến quá trình thực hiện quyền dân sự của người sử dụng đất, sự vận hành của thị trường quyền sử dụng đất ở nước ta thời gian qua đã không phản ánh đúng bản chất khách quan và bị bóp méo bởi các quyết định mang tính hành chính của các chủ thể có thẩm quyền tại nhiều thời điểm, trong khi “yêu cầu số một đối với dự án cải cách pháp luật dân sự, về phần liên quan đến quyền sở hữu là phải minh định vị trí trung tâm của quyền sử dụng đất trong chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân, đ c biệt là trong chế độ pháp lý về sở hữu tư nhân đối với bất động sản” [Xem 4]. Nhìn từ phương diện lịch sử thì khái niệm “quyền sử dụng đất” đã được đề cập trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, bắt đầu từ thập niên 70 của thế kỷ XX với tên gọi ban đầu là “quyền quản lý và sử dụng ruộng đất” [Xem 7]. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, pháp luật thực định của Việt Nam vẫn chưa có định nghĩa chính thức về nội hàm của khái niệm quyền sử dụng đất. Theo Từ 7 điển Luật học năm 2006 thì "quyền sử dụng đất là quyền của các chủ thể được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi ích từ việc sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê ho c được chuyển giao từ chủ thể khác thông qua việc chuyển đ i, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê l i, thừa kế, t ng cho...” [47, tr.655]. Trong khi đó, Giáo trình Luật Đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội thì cho rằng: "Quyền sử dụng đất là quyền khai thác các thuộc tính có ích của đất đai để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” [44, tr.92]. Mặc dù nghiên cứu ở các giác độ khác nhau, nhưng nội hàm của các khái niệm về quyền sử dụng đất nêu trên có các đặc điểm chủ yếu như: quyền sử dụng đất là quyền khai thác giá trị của đất đai; chủ thể thực hiện việc khai thác chính là người sử dụng đất (tổ chức, hộ gia đình, cá nhân) và quyền sử dụng đất không phải là quyền sở hữu đất đai. 1.1.1.2. Khái niệm tranh chấp quyền sử dụng đất Khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, đất đai trở thành tư liệu sản xuất quan trọng, trở thành một loại hàng hóa đặc biệt có giá trị và có thể giao dịch trên thị trường thì việc xảy ra các mâu thuẫn, những bất đồng trong quan hệ giữa các chủ thể về lợi ích và quyền sử dụng đất là điều không tránh khỏi. Để giải quyết những mâu thuẫn đó các chủ thể có thể tự mình hòa giải hoặc nhờ đến sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, tất cả các thủ tục, trình tự, thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi mâu thuẫn giữa các chủ thể xảy ra đều phải được điều chỉnh bằng pháp luật và các bên tham gia quan hệ giải quyết tranh chấp đất đai phải nghiêm chỉnh chấp hành, đảm bảo pháp chế. Về mặt lý luận, các nhà khoa học đã định nghĩa về tranh chấp đất đai như sau: “Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai” [44, tr.455]. Theo quan điểm này thì tranh chấp đất đai có khái niệm tương đối rộng, các chủ thể tham gia quan hệ tranh chấp là các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật đất đai bao gồm Nhà nước và người sử dụng đất; đối tượng của tranh chấp đất đai là những bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể là Nhà nước và người sử dụng đất khi tham gia vào quan hệ 8 pháp luật đất đai. Về mặt pháp lý, tại Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai ho c nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Theo khái niệm này, tranh chấp đất đai là tranh chấp về “quyền” và tranh chấp về “nghĩa vụ” liên quan đến đất đai của người hiện đang quản lý, sử dụng đất với những người có liên quan trong quan hệ đất đai, trong đó có cả các chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước về đất đai. Nếu hiểu một cách thuần túy tranh chấp đất đai là tranh chấp “giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai” thì đồng nghĩa sẽ có loại tranh chấp đất đai giữa cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai với người sử dụng đất. Điều này hoàn toàn mâu thuẫn với chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. Bởi lẽ, theo Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đ i diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Như vậy, định nghĩa tranh chấp đất đai theo Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 sẽ gây nhiều cách hiểu không chính xác do có nội hàm rộng. Nhiều quan điểm đã đồng tình với cách hiểu rằng: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất” [46, tr.74]. Bên cạnh đó, các tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất của người sử dụng đất cũng đã từng được quy định cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất chứ không phải là tranh chấp đất đai một cách chung chung. Theo đó, tranh chấp đất đai được hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đối với diện tích đất cụ thể giữa các chủ thể trong hoạt động quản lý và sử dụng đất. Như vậy, tranh chấp đất đai ở nước ta chính là tranh chấp quyền sử dụng đất hay bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp khác có liên quan đến quyền sử dụng đất. Hiện nay, ngành tòa án ở nước ta vẫn thống kê các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất vào mục tranh chấp đất đai nói chung. Vì vậy, tranh chấp đất đai là bao gồm tranh chấp quyền sử dụng đất và tất cả các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất và trong điều kiện của nước ta hiện 9 nay, cũng nên hiểu tranh chấp đất đai chính là tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp khác liên quan đến quyền sử dụng đất thì phù hợp hơn. Như vậy, có thể hiểu tranh chấp quyền sử dụng đất là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ đất đai trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai. 1.1.1.3. Khái niệm giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật học: “Giải quyết tranh chấp đất đai là giải quyết bất đồng, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, t chức trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai và trên cơ sở đó phục hồi các quyền lợi hợp pháp bị xâm h i đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi ph m pháp luật về đất đai” [43, tr.74]. Như vậy, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là hoạt động của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn của các chủ thể trong quan hệ đất đai trên cơ sở pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bên bị xâm hại, đồng thời buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp lý do hành vi của họ gây ra, góp phần tăng cường pháp chế trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất là việc áp dụng các quy định của pháp luật vào giải quyết các xung đột giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai nhằm bảo vệ các quyền vào lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Trong quan hệ pháp luật đất đai, việc xem xét giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất là một trong những biện pháp quan trọng để pháp luật đất đai phát huy được vai trò trong đời sống xã hội. Thông qua việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, Nhà nước điều chỉnh các quan hệ đất đai cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội và của người sử dụng đất. Đồng thời, giáo dục ý thức tuân thủ và tôn trọng pháp luật cho mọi công dân, ngăn ngừa những hành vi vi phạm pháp luật có thể xảy ra, mang lại sự ổn định trong nội bộ nhân dân, làm cho những quy định của pháp luật đất đai được thực hiện hiệu quả trong cuộc sống. 10 1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp quyền sử dụng đất Tranh chấp quyền sử dụng đất là một hiện tượng xã hội, có thể xảy ra ở mọi lúc, mọi nơi. Theo Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 thì “tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai ho c nhiều bên trong quan hệ đất đai”. Nói cách khác, tranh chấp quyền sử dụng đất là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của chủ thể sử dụng đất trong quá trình quản lý và sử dụng đất. Rõ ràng, các tranh chấp dạng này là những tranh chấp thuần túy, mang đặc điểm chung của các tranh chấp kinh tế, dân sự. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm chung đó thì tranh chấp quyền sử dụng đất cũng có những đặc điểm riêng để phân biệt với những dạng tranh chấp khác: Thứ nhất, các chủ thể tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có quyền sở hữu đối với đất đai [44, tr.456]. Các chủ thể chỉ được xác lập quyền quản lý, sử dụng đất khi được Nhà nước có quyết định giao đất, cho thuê đất hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của quan hệ tranh chấp quyền sử dụng đất là các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình tham gia với tư cách là người quản lý hoặc sử dụng đất. Thứ hai, nội dung của tranh chấp quyền sử dụng đất rất đa dạng và phức tạp. Hoạt động quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích và nhu cầu sử dụng khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất không đơn thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất thông thường mà đất đai đã trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại. Đã là một loại hàng hóa thì đất đai cũng phải biến động theo quy luật cung cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử dụng đất không chỉ đơn thuần là việc khai thác giá trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất. Tất nhiên, khi nội dung quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì những xung đột xung quanh việc quản lý và sử dụng đất cũng trở nên gay gắt và trầm trọng hơn. Thứ ba, tranh chấp đất đai phản ánh phong tục, tập quán, hành vi ứng xử khác nhau của từng cộng đồng người, từng vùng miền. Do đó, tranh chấp quyền sử dụng đất có tính chất phức tạp và thường gay gắt hơn các loại tranh chấp khác. 11 Tranh chấp quyền sử dụng đất phát sinh gây ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội như: gây mất ổn định về chính trị, làm căng thẳng, mất đoàn kết, phá vỡ các mối quan hệ xã hội; phá vỡ trật tự quản lý đất đai, sản xuất bị trì trệ, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của các bên tranh chấp và gián tiếp gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước và xã hội. Thứ tư, vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý nên đất đai không thuộc sở hữu của các bên tranh chấp. Do vậy, đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích phát sinh từ quá trình sử dụng [44, tr.456]. 1.1.3. Phân loại tranh chấp quyền sử dụng đất và các hình thức giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất 1.1.3.1. Phân lo i tranh chấp quyền sử dụng đất Tranh chấp quyền sử dụng đất diễn ra phổ biến và phức tạp. Do đó, để giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, cần phải xác định được các dạng tranh chấp quyền sử dụng đất. Việc phân loại chính xác các dạng tranh chấp quyền sử dụng đất có ý nghĩa quan trọng nhằm xác định chính xác việc đương sự có quyền khởi kiện tranh chấp tại tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự hay tố tụng hành chính, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân hay Uỷ ban nhân dân, xác định thời hiệu khởi kiện, đồng thời là cơ sở để xác định trình tự, thủ tục và phương hướng giải quyết tranh chấp. Việc phân loại quan hệ pháp luật tranh chấp liên quan đến đất đai là vấn đề tương đối. Trên thực tế có những vụ án, tính chất của quan hệ pháp luật tranh chấp có cả dấu hiệu của tất cả các dạng tranh chấp. Để xác định tranh chấp thuộc dạng tranh chấp quyền sử dụng đất nào, ngoài các quy định của Luật Đất đai cần căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam để xác định ai kiện, kiện ai, kiện về vấn đề gì và kiện như thế nào để xác định quan hệ pháp luật. Căn cứ theo Luật Đất đai năm 2013, có thể phân loại các dạng tranh chấp liên quan đến đất đai như sau: - Nhóm thứ nhất, tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất Đây là tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng đất không liên quan 12 đến các giao dịch về đất và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất khi giải quyết các tranh chấp này, toà án phải xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai. Theo điểm a Khoản 3 Điều 159 BLTTDS đã được sửa đồi, bổ sung năm 2011, có hiệu lực kề từ ngày 01/01/2012 thì dạng tranh chấp này không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Các tranh chấp phổ biến trong trường hợp này là tranh chấp về ranh giới đất liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bị trùng diện tích, người sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chủ cũ đòi lại đất hoặc chủ cũ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng người sử dụng đất cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng. - Nhóm thứ hai, tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng đất (chuyển nhượng, chuyển đ i, cho thuê, cho thuê l i quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất,…) Các tranh chấp này có thể yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, công nhận hiệu lực của hợp đồng, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu… Bản chất của tranh chấp trong các trường hợp này là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Thời hiệu khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về hợp đồng nói chung. - Nhóm thứ ba, tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất Đây là dạng tranh chấp do người có quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chết mà không để lại di chúc, hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật và những người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp. Bản chất của dạng tranh chấp này là tranh chấp thừa kế có đối tượng là quyền sử dụng đất và Tòa án phải xác định ranh giới đất để phân chia. Thời hiệu khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về thừa kế tài sản nói chung. - Nhóm thứ tư, tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, bao gồm: Tranh chấp tài sản về nhà 13 ở, vật kiến trúc khác như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở; các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác… gắn liền với quyền sử dụng đất đó. Tranh chấp trong trường hợp này có thể là tranh chấp về ai là người có quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản, thừa kế hoặc tranh chấp về các hợp đồng liên quan đến tài sản gắn liền với đất. 1.1.3.2. Các hình thức giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất Tranh chấp quyền sử dụng đất là một trong những vấn đề thường hay xảy ra trong cuộc sống của chúng ta. Có rất nhiều mâu thuẫn dẫn đến vụ việc không đáng có này, nếu cứ để cho mọi thứ tiếp diễn thì xã hội sẽ trở nên hỗn loạn, mất ổn định về chính trị, xã hội. Chính vì thế, việc đưa ra cách giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất phải dựa trên cơ sở pháp luật, qua đó sẽ giúp cho mọi người nhìn nhận đúng hành vi tranh chấp của mình là đúng hay sai, từ đó, đưa vụ việc trở về đúng với trạng thái mà vốn dĩ nó phải có. Khi có tranh chấp quyền sử dụng đất xảy ra trong cộng đồng dân cư, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên tranh chấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp đó theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất. Trên cơ sở Luật Đất đai năm 2013 và các văn bản hướng dẫn thi hành có thể phân loại phương thức giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất như sau: - Thứ nhất, giải quyết bằng biện pháp hòa giải Hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất là biện pháp pháp lý giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba độc lập giữ vai trò trung gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến quyền sử dụng đất và thương lượng với nhau về việc giải quyết quyền lợi của mình. Hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất được quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 14 2013; bên cạnh đó tại Điều 88 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ ngày 15/05/2014 cũng quy định chi tiết thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai. Hòa giải tranh chấp quyền sử dụng đất là một biện pháp mềm dẻo, linh hoạt và hiệu quả nhằm giúp cho các bên tranh chấp tìm ra một giải pháp thống nhất để tháo gỡ những mâu thuẫn, bất đồng trong tranh chấp quyền sử dụng đất trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận. Hòa giải không chỉ mang lại ý nghĩa cho Tòa án, cho bản thân đương sự mà còn có ý nghĩa đối với trật tự xã hội. - Thứ hai, giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất bằng biện pháp khác khi không hòa giải được Luật Đất đai năm 2013 và những văn bản luật cũ đều ghi nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp đối với đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ khác theo quy định của pháp luật (các giấy tờ quy định tại Điều 100 Luật Đất đai năm 2013), nếu hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã không thành thì theo Khoản 1 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận ho c có một trong các lo i giấy tờ quy định t i Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết”. Đối với trường hợp tranh chấp đất đai mà không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các giấy tờ theo quy định của pháp luật thì Luật Đất đai năm 2013 đã có những sửa đổi bổ sung mới về thẩm quyền giải quyết được quy định tại Khoản 2 Điều 203. Hơn nữa, Luật Đất đai năm 2013 cũng cho phép các bên tranh chấp khi lựa chọn giải quyết tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu bên cạnh việc khiếu nại lên cấp trên trực tiếp thì có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng hành chính. Đây là điểm mới cơ bản so với luật cũ năm 2003 về thủ tục giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất, tạo ra nhiều phương thức giải quyết tranh chấp cho các bên và để giải quyết tranh chấp một cách triệt để nhất. Khác với Luật Đất đai năm 2003, thì Luật Đất đai năm 2013 đã quy định rõ ràng tại Khoản 3 Điều 203 về các loại vụ việc tranh chấp tương ứng với thẩm quyền giải quyết của từng cấp Ủy ban nhân dân. Việc quy định cụ thể như hiện nay là phù 15 hợp, đảm bảo cho các bên tranh chấp có thể dễ dàng trong việc xác định cơ quan có thẩm quyền, tránh tình trạng cơ quan nhà nước cố tình gây phiền toái kiểu thuộc thẩm quyền của mình nhưng cũng thuộc thẩm quyền của cơ quan khác nên từ chối tiếp nhận. - Thứ ba, áp dụng tập quán và án lệ vào giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất Tập quán là quy tắc xử sự có nội dung rõ ràng để xác định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, pháp nhân trong quan hệ dân sự cụ thể, được hình thành và lặp đi lặp lại nhiều lần trong một thời gian dài, được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trong một vùng, miền, dân tộc, cộng đồng dân cư hoặc trong một lĩnh vực dân sự. Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán áp dụng không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy định tại Điều 3 của Bộ luật dân sự năm 2015. Ngoài ra, án lệ cũng có thể được sử dụng để giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Theo Điều 1 Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP ngày 28/10/2015 của Hội đồng thẩm phán thì án lệ được định nghĩa là: “Những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đ có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Việc áp dụng án lệ là phương thức hiệu quả để góp phần nâng cao năng lực của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự, thương mại, đặc biệt là những tranh chấp có yếu tố nước ngoài, bảo đảm việc áp dụng pháp luật thống nhất trong xét xử, tạo lập tính ổn định, minh bạch và tiên liệu được trong các phán quyết của Tòa án. Việc áp dụng tập quán và án lệ vào giải quyết các giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất nói riêng và các vụ việc dân sự nói chung là một quy định nhằm hạn chế những “kẽ hở” của pháp luật dân sự, bảo đảm giải quyết triệt để nhất các quan hệ pháp luật dân sự xảy ra trên thực tế. 1.1.4. Hậu quả của tranh chấp quyền sử dụng đất Tranh chấp quyền sử dụng đất đang là một trong những vấn đề gây bức xúc ở nhiều địa phương. Từ những vụ việc tranh chấp, mâu thuẫn về nhà, đất không được giải quyết dứt điểm đã gây ra hậu quả nặng nề, ảnh hưởng trật tự an toàn xã hội. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan