Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng từ thực tiễn xét xử sơ thẩm tò...

Tài liệu Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng từ thực tiễn xét xử sơ thẩm tòa án nhân dân huyện phúc thọ, thành phố hà nội

.PDF
88
150
77

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN ĐỨC TRƯỜNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI Ngành: Luật Kinh tế Mã số: 8.38.01.07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã sử dụng trong luận văn là trung thực. Những kết luận nêu trong luận văn chưa có công bố ở bất kỳ công trình khoa học nào. TÁC GIẢ LUẬN VĂN MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG .......................................................................... 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng ................................. 7 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng ..................... 10 1.3. Nguyên nhân và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng .............................................................................................................. 18 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng Tòa án .................................................................... 28 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.............................. 30 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng . 30 2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội ....................................................... 48 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TỪ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚC THỌ THÀNH PHỐ HÀ NỘI........................................................................................................... 64 3.1. Quan điểm nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân ............................................................................. 64 3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng .............................................................................................................. 67 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật Dân sự BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự HĐTD : Hợp đồng tín dụng KDTM : Kinh doanh thương mại TAND : Tòa án nhân dân TCTD : Tổ chức tín dụng DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Số liệu tranh chấp kinh doanh thương mại TAND huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội thụ lý và giải quyết giai đoạn 2014-2018 .......... 51 Bảng 2.2. Số liệu vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng thụ lý trong giai đoạn 2014 – 2018 .................................................................................... 52 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới mọi lĩnh vực của nền kinh tế, chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào công cuộc cải tiến đất nước. Các giao dịch trong xã hội diễn ra hàng ngày rất đa dạng, pháp luật khó có thể điều chỉnh được toàn bộ các quan hệ trong cuộc sống. Thông thường các bên lựa chọn hình thức giao dịch thông qua hợp đồng – hợp đồng ghi nhận sự thỏa thuận giữa các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền lợi của các bên khi có tranh chấp. Trong lĩnh vực ta nhận thấy hợp đồng tín dụng có nhiều trong các giao dịch với các đối tác cho nhu cầu vay vốn trong phát triển kinh doanh, sản xuất. Bởi hợp đồng tín dụng chứa nhiều yếu tố phức tạp và nhạy cảm nên nó rất dễ dẫn đến tranh chấp giữa các bên trong hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên bị ảnh hưởng quyền đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp sẽ làm thủ tục khởi kiện ra tòa án hoặc trọng tài thương mại để được pháp luật bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng của Tòa án đóng vai trò rất quan trọng trong việc góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của tổ chức, các nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc biệt góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong nên kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch dân sự, đặc biệt là giao dịch thông qua hợp đồng tín dụng diễn ra ngày càng nhiều trên phạm vi rộng, gây nhiều khó khăn cho việc giải quyết tranh chấp này ở Tòa án. Trước tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến việc giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng nhằm tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này cũng nhằm đảm quyền và lợi ích của các bên tham gia hợp đồng. Trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thì hoạt động cấp tín dụng trong đó có cấp tín dụng thông qua hợp đồng tín dụng là hoạt động kinh doanh chủ yếu và quan trọng nhất. Thông qua hợp đồng tín dụng được xác lập giữa tổ chức tín dụng và bên vay tiền, quan hệ tín dụng đã được hình thành. Hợp đồng tín dụng phải tuân thủ chặt chẽ các quy định của Bộ luật dân sự, Luật các tổ chức tín dụng và các quy định khác của Ngân hàng nhà nước… Trong thực tế, cùng với sự phức tạp của quan hệ tín dụng nói chung và quan hệ hợp đồng tín dụng nói riêng, các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quá trình 1 thực hiện hợp đồng tín dụng xảy ra tương đối nhiều. Điều này đã ảnh hưởng lớn tới sự ổn định của thị trường tín dụng, ảnh hướng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân có liên quan. Trên cơ sở đó, việc hệ thống pháp luật có những quy định cụ thể về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng là rất cần thiết. Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển của quan hệ này, các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng đã được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam được thể hiện qua các văn bản nhưng: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011, Bộ luật dân sự năm 2005, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và đặc biệt gần đây là việc Quốc hội đã ban hành Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự mới vào năm 2015. Các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng về cơ bản đã tương đối đầy đủ về hình thức cũng như nội dung. Tuy nhiên, những quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng còn chưa thực sự đồng bộ giữa Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự với Luật các tổ chức tín dụng, trong khi BLDS, BLTTDS mới được ban hành mới thì Luật các tổ chức tín dụng 2010 chưa được sửa đổi, bổ sung. Những quy định đặc thù về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng chưa thực sự cụ thể, còn có sự chồng chéo về chủ thể, quyền hạn giải quyết… Điều này dẫn đến hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng chưa thực sự cao, có nhiều vụ việc bị kháng cáo, kháng nghị thậm chí có quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm, từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ. Huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội là một huyện ngoại thành có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, có tình hình kinh tế xã hội phát triển nhanh trên địa bàn thành phố, quy mô kinh tế ngày một lớn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội thì những tranh chấp phát sinh từ hoạt động tín dụng nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng trên địa bàn huyện Phúc Thọ ngày một lớn. Các tranh chấp này đã được Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thụ lý giải quyết góp phần quan trọng vào việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng trên địa bàn còn nhiều hạn chế, tồn tại, cần phải có những nghiên cứu để góp phàn nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp này hơn nữa. 2 Đó cũng là lý do học viên quyết định chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng từ thực tiễn xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu, thông qua đó giúp học viên học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm, nâng cao kiến thức pháp luật của mình về lĩnh vực hợp đồng tín dụng trên thực tế. Từ đó đề ra những giải pháp nâng cao các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng bằng con đường Tòa án. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Các công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói chung và giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng nói riêng như: - Tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng “Thủ tục giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn xét xử tại Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội năm 2013; - Tác giả Hoàng Văn Bích “Giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp tài sản qua thực tiễn xét xử tại Vĩnh Phúc” Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Năm 2014; - Tác giả Hồ Thị Khuyên “Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2016. - Một số bài báo khoa học như:“ Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng tín dụng và thời hiệu khởi kiện vụ án kinh tế về tranh chấp hợp đồng tín dụng”, của Th.s Nguyễn Quỳnh Chi đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 3/2005; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Nguyễn Như Phát, TS. Lê Thị Thu Thủy đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2010; “Tranh chấp hợp đồng và các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng” của TS. Phan Chí Hiếu đăng trên tạp chí Luật học, số 2/2008; - Một số Sách chuyên khảo như: “Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng” do TS. Lê Thị Thu Thủy làm chủ biên, Nhà Xuất bản Tư pháp 2006, Cuốn sách “Hoàn thiện pháp luật về hoạt động của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của TS. Ngô Quốc Kỳ, Nhà Xuất bản Tư pháp, năm 2005. Các công trình nghiên cứu này đã góp phần tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho 3 việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nói chung và hợp đồng tín dụng nói riêng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu đề tài pháp luật về hợp đồng tín dụng vẫn còn là cấp thiết, bởi lẽ các quy định pháp luật về vấn đề này vẫn còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn. Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp đồng tín dụng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng. Từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Với luận văn này, tôi mong muốn làm rõ hơn những vấn đề cơ bản về hợp đồng tín dụng ngân hàng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng, chỉ ra những bất cập của việc thực hiện các quy định pháp luật trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng. Từ đó, đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng con đường Tòa án ở Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu trên đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau: - Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm; để từ đó xác định khái niệm, nội dung của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng; - Nghiên cứu làm sáng tỏ quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng để từ đó đánh giá được những hạn chế, tồn tại trong hệ thống quy định này; - Phân tích, đánh giá thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại các Tòa án nhân dân trên địa bàn huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội, đưa ra được những hạn chế, bất cập trong thực tiễn giải quyết này; - Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. 4 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn đi sâu nghiên cứu những vấn đề phát sinh từ thực trạng giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng ngân hàng bằng con đường tòa án ở Việt Nam. Qua đó, đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án ở Việt Nam hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các văn bản pháp luật Việt Nam có quy định về vấn đề nghiên cứu như: Bộ luật dân sự (2005, 2015), Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Luật thương mại 2005, Luật các tổ chức tín dụng 2010… cùng các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung, làm rõ các điều khoản có liên quan. Bên cạnh đó, luận văn còn nghiên cứu các số liệu, báo cáo thống kê, tổng kết về thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp đồng tín dụng ngân hàng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội . - Phạm vi không gian: huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội. - Phạm vi thời gian: Từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp như: phương pháp thống kê, khảo sát; phương pháp tổng hợp, phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng bằng con đường tòa án. 6. Ý nghĩa lý luận và những đóng góp mới của đề tài Đề tài là công trình nghiên cứu toàn diện ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học về hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng ở Việt Nam hiện này. Đề tài có ý nghĩa lý luận như sau: - Đưa ra được những phân tích lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng như khái niệm, đặc điểm, nội dung; 5 - Đánh giá được thực trạng quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ thành phố Hà Nội; - Đề xuất được các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy trong các cơ sở đào tạo luật, các viện nghiên cứu và các cơ quan thực tiễn như Tòa án; Viện kiểm sát; Thi hành án… 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng tín dụng và pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và thực tiễn áp dụng tại các tòa án nhân dân huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội Chương 3: Quang điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng 6 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng 1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ngân hàng Hợp đồng tín dụng là một dạng cụ thể của hợp đồng vay tài sản đã được quy định trong BLDS 2015. Tuy nhiên, chỉ gọi là HĐTD trong trường hợp bên cho vay là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng. Theo quy định tại điều 463 BLDS 2005: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Hợp đồng tín dụng về bản chất là hợp đồng cho vay, theo đó ngân hàng là bên cho vay giao cho bên vay một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Còn những hoạt động cấp tín dụng khác như bảo lãnh, cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá được gọi chung là hợp đồng cấp tín dụng. Hợp đồng tín dụng là một căn cứ pháp lý mà qua đó, ngân hàng thực hiện hoạt động cho vay. Hoạt động tín dụng luôn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế và các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng diễn ra ngày một nhiều, gây thiệt hại không nhỏ cho các chủ thể, song, cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào của nước ta đưa ra một khái niệm chính thức về hợp đồng tín dụng mà chỉ liệt kê những nội dung chủ yếu của hợp đồng tín dụng. Việc cho vay của tổ chức tín dụng và khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận. Như vậy, ngay trong quy chế cho vay của TCTD cũng chỉ qui định việc cho vay phải xác lập bằng hợp đồng tín dụng. Từ các phân tích trên, cho thấy pháp luật chuyên ngành chỉ đưa ra quy định về những nội dung cơ bản HĐTD phải có mà không đưa ra định nghĩa cụ thể về HĐTD. Quan hệ tín dụng về bản chất là một quan hệ dân sự nên HĐTD cũng là một 7 dạng cụ thể của hợp đồng. Từ khái niệm hợp đồng được quy định theo điều 385 BLDS 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, có thể hiểu “HĐTD là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa TCTD (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện luật định (bên vay), theo đó TCTD chuyển giao một số tiền cho bên vay sử dụng vào mục đích và trong một thời hạn được xác định, khi đến hạn, bên vay phải trả cả gốc và lãi được xác định theo lãi suất mà các bên đã thỏa thuận”. Như vậy, hợp đồng tín dụng ngân hàng là văn bản phản ánh thỏa thuận trực tiếp của tổ chức tín dụng và khách hàng trong việc xác lập một quan hệ cho vay, xác lập các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các bên đó trong việc vay và hoàn trả vốn vay. 1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng tín dụng ngân hàng HĐTD mang những đặc điểm chung của hợp đồng nhưng vẫn có những nét khác biệt cụ thể như sau: - Hợp đồng tín dụng ngân hàng phải luôn được ký kết dưới hình thức văn bản. Sau khi TCTD quyết định cho khách hàng vay vốn, sự thoả thuận cho vay và vay của TCTD với khách hàng phải thành lập bằng văn bản. Với HĐTD bằng văn bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo an toàn pháp lý và khi có tranh chấp xảy ra, HĐTD sẽ là căn cứ xác thực nhất để các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp. Đa phần các HĐTD là hợp đồng theo mẫu, chủ thể cho vay là TCTD soạn thảo dựa trên quy định của pháp luật và phù hợp với quy chế cho vay của TCTD. Bên vay thường phải chấp nhận những điều khoản trong hợp đồng mà không phải ai cũng có thể yêu cầu sửa đổi điều khoản theo hướng có lợi hơn cho mình. Sự tự do ý chí được thể hiện thông qua việc khách hàng chấp nhận những điều khoản trong đó thì đồng ý giao kết hợp đồng, ngược lại thì không giao kết. Thực tế cho thấy việc thỏa thuận sửa một số điều khoản trong HĐTD theo mẫu ít xảy ra và chỉ xảy ra với những tổ chức, cá nhân có uy tín, khoản vay lớn và TCTD có thể thu được lợi nhuận lớn từ hợp đồng này. Theo khoản 2, khoản 3 điều 405 BLDS 2015: “Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại 8 bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, pháp luật cũng có cơ chế để bảo vệ khách hàng trong trường hợp hợp đồng theo mẫu có những điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó hoặc điều khoản gây bất lợi cho khách hàng thì điều khoản này không có hiệu lực khi không có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, hợp đồng tín dụng ngân hàng được ký kết dưới các hình thức pháp lý là văn bản bao gồm cả văn bản viết và văn bản điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Căn cứ khoản 1 điều 119 BLDS 2015, “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản”; và điều 11, 12, 13, 14 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì dù hợp đồng tín dụng ngân hàng ký kết dưới hình thức nào trên đây đều có giá trị pháp lý ngang nhau và đều là chứng cứ trong quá trình giao dịch. Trên thực tế thì hợp đồng tín dụng được ký kết dưới hình thức văn bản điện tử dạng thông điệp dữ liệu thường ít xảy ra. - HĐTD có đối tượng là những khoản vốn được thể hiện dưới hình thức tiền tệ. Vốn tiền tệ trong HĐTD có thể là tiền đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Nhờ đó, hoạt động cho vay đã trở thành hoạt động sinh lời chủ yếu của các TCTD và trở thành một hình thức tín dụng phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Về nguyên tắc đối tượng của HĐTD bao giờ cũng là một số tiền xác định, được các bên thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng. - Một bên chủ thể của HĐTD bắt buộc là TCTD được thành lập và hoạt động cho vay theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và các văn bản liên quan; có chức năng hoạt động, kinh doanh tín dụng. TCTD bao gồm ngân hàng và TCTD phi ngân hàng. Bên cho vay có thể là một hoặc nhiều TCTD (trường hợp cho vay hợp vốn) thỏa mãn điều kiện luật định. - HĐTD phải được tuân thủ chặt chẽ về các nội dung bắt buộc, năng lực chủ thể của các bên tham gia quan hệ tín dụng, mục đích sử dụng vốn vay, giới hạn vốn vay, lãi suất vay và bảo đảm thực hiện hợp đồng, phương pháp giải quyết tranh 9 chấp. TCTD không được cho vay vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu bị cấm theo quy định của pháp luật. Tổ chức tín dụng không được cho vay các nhu cầu vốn sau đây: để mua sắm các tài sản và các chi phí hình thành nên tài sản mà pháp luật cấm mua bán, chuyển nhượng, chuyển đổi; để thanh toán các chi phí cho việc thực hiện các giao dịch mà pháp luật cấm; để đáp ứng các nhu cầu chính của các giao dịch mà pháp luật cấm”. Tổ chức tín dụng không được cho vay đối với khách hàng trong các trường hợp sau đây: Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tín dụng; Cán bộ, nhân viên của chính tổ chức tín dụng đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định cho vay; Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc)”. Đối với người vay là bố, mẹ, vợ, chồng, con của Giám đốc, Phó Giám đốc chi nhánh của tổ chức tín dụng do tổ chức tín dụng xem xét quyết định”. Với vai trò đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên tham gia vào quan hệ tín dụng, HĐTD trở nên rất quan trọng. Đặc biệt, các bên phải chú ý đến nội dung của hợp đồng, hợp đồng với những điều khoản chặt chẽ sẽ ràng buộc các bên thực hiện đúng trách nhiệm của mình, từ đó cũng góp phần giảm bớt các tranh chấp phát sinh và thúc đẩy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của cả TCTD và khách hàng. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại tranh chấp hợp đồng tín dụng 1.2.1. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng Cùng với sự tồn tại và phát triển của các HĐTD là những tranh chấp trong HĐTD phát sinh từ sự mâu thuẫn hay không thống nhất về quyền và nghĩa vụ hoặc lợi ích trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng của các bên tham gia. Một hợp đồng tín dụng chỉ được coi là có tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài thông qua những bằng chứng cụ thể và xác định được. Theo TS. Bùi Ngọc Cường, tranh chấp kinh tế được hiểu là những mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ và lợi ích kinh tế giữa các bên chủ thể khi tham gia kinh doanh. Tranh chấp hợp đồng khác biệt với vi phạm hợp đồng. Vi phạm hợp đồng là hành vi pháp lý của các bên đã xử sự trái với các điều khoản được cam kết trong hợp đồng. Còn tranh chấp hợp đồng là ý kiến không thống nhất của các bên về hành vi vi phạm đó hoặc cách thức giải quyết hậu quả phát sinh từ sự vi phạm đó và được 10 thể hiện ra bên ngoài. Cho nên, không phải cứ khi nào vi phạm hợp đồng thì khi đó có tranh chấp mà đôi khi sự vi phạm hợp đồng diễn ra trước và tranh chấp hợp đồng lại là sự kiện diễn ra sau đó một khoảng thời gian nhất định. Và đôi khi có sự vi phạm hợp đồng tín dụng nhưng không thể có sự tranh chấp bởi các bên không bày tỏ ra bên ngoài về sự bất đồng hay xung đột lợi ích giữa họ với nhau bằng các hành vi phản kháng cụ thể có giá trị chứng cứ. Như vậy, tranh chấp HĐTD là những mâu thuẫn, bất đồng phát sinh từ quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng tín dụng giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên vay (khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải ngân, xử lý tài sản đảm bảo, thế chấp… 1.2.2. Đặc điểm tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng Vì tranh chấp HĐTD ngân hàng cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nói chung, do đó có đầy đủ những đặc điểm vốn có của một tranh chấp hợp đồng. Tuy nhiên, với bản chất đặc thù của HĐTD, tranh chấp HĐTD mang một số đặc trưng riêng biệt để có thể phân biệt với các loại tranh chấp hợp đồng khác. Thứ nhất, giá trị của tranh chấp HĐTD thường có giá trị lớn hoặc thậm chí là rất lớn. Khi kí kết HĐTD thì thường là do bên đi vay có nhu cầu về vốn mà không thể tự mình xoay xở được. Nhu cầu đó thường là để bổ sung vốn kinh doanh đối với tổ chức hoặc vay để phát triển kinh tế đối với cá nhân, hộ gia đình. Do đó, số tiền này không phải là nhỏ và dễ dàng vay được từ các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội mà không phải là ngân hàng. Về phía bên cho vay là ngân hàng, bên cạnh vai trò là chủ thể cung ứng vốn cho nền kinh tế thì TCTD còn đóng vai trò là người đi vay của các chủ thể khác để cho vay lại. Để đạt được lợi nhuận cao thì các TCTD thường kí kết các HĐTD có giá trị lớn dựa trên định giá tài sản đảm bảo tại thời điểm cho vay. Do bên vay vốn dùng khoản vay này phần lớn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh nên nếu bên vay không tuân thủ các cam kết trong hợp đồng, không trả nợ cho các TCTD sẽ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động của TCTD đó. Thực tế không hiếm các trường hợp các TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả do “nợ xấu’. Một khi khách hàng vay không thể thanh toán được nợ, tranh chấp xảy ra thì TCTD sẽ là chủ thể bị thiệt hại lớn vì nguồn vốn bị ứ đọng, phải thực hiện các biện pháp khắc phục, mục 11 đích lợi nhuận ban đầu không còn hoặc bị gián đoạn. Đặc biệt, nếu tranh chấp HĐTD phải khởi kiện tại Tòa án thì càng gây khó khăn cho TCTD khi muốn thu hồi vốn. Bởi khi đã bị khởi kiện tại Tòa án thì thường là người đi vay không còn có khả năng trả nợ cho TCTD. Mặt khác, khi tranh chấp HĐTD xảy ra thì TCTD sẽ mất lòng tin với khách hàng vay vốn, các HĐTD tiếp theo sẽ khó mà thực hiện, kể cả khi bên đi vay chứng minh lại được khả năng tài chính của mình. Do đó, có thể nói tranh chấp HĐTD là loại tranh chấp có giá trị thiệt hại lớn, không chỉ ảnh hưởng đến bên cho vay mà còn cả đối với bên đi vay. Thậm chí nếu tranh chấp xảy ra nhiều thì ảnh hưởng đó không chỉ ảnh hưởng đến một TCTD mà có thể ảnh hưởng dây chuyền đến các TCTD khác trong nền kinh tế. Thứ hai, tranh chấp HĐTD ngân hàng được giải quyết dựa trên nguyên tắc tự do thỏa thuận trong khuôn khổ pháp luật của các bên tham gia tranh chấp. Pháp luật Việt Nam tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cụ thể, Điều 3 Bộ Luật dân sự 2015 ghi nhận: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng.” HĐTD về bản chất là hợp đồng dân sự mà quan hệ dân sự là quan hệ mang tính thỏa thuận, tự định đoạt giữa các bên. Do đó, kể cả đối với việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì các bên cũng có quyền thỏa thuận để đạt được hiệu quả tối ưu nhất trong trường hợp có tranh chấp xảy ra. Việc tôn trọng quyền định đoạt này có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì quan hệ dân sự giữa các bên mang tính bình đẳng, không phải là mối quan hệ mệnh lệnh - phục tùng như các quan hệ hành chính nhà nước khác. Khi các bên tham gia tranh chấp có thể thỏa thuận được với nhau thì việc giải quyết tranh chấp sẽ diễn ra nhanh chóng, thuận lợi hơn, đồng thời giảm thiểu được thiệt hại về thời gian, tiền bạc, công sức của các bên. Về phía các cơ quan tài phán, thi hành án thì việc thỏa thuận này cũng có ý nghĩa trong việc giảm nhẹ khối lượng, áp lực công việc trong điều kiện các tranh chấp ngày càng xảy ra nhiều và phức tạp như hiện nay. Đặc biệt, vấn đề thỏa thuận về phương thức giải quyết tranh chấp đối với các TCTD là ngân hàng nước ngoài, ngân hàng nước ngoài có vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Bởi các chủ thể này khác với các TCTD trong nước, chịu sự điều chỉnh 12 của cả pháp luật nước ngoài lẫn pháp luật Việt Nam và sự khác nhau trong quy định của pháp luật giữa Việt Nam và nước khác là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, việc cho phép, tôn trọng quyền tự thỏa thuận của các bên khi có tranh chấp xảy ra sẽ giảm thiểu tối đa những xung đột pháp luật có thể xảy ra trong quá trình giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, nguyên tắc đối với các thỏa thuận này là phải phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam. Nguyên tắc tự do thỏa thuận khi giải quyết tranh chấp giữa các bên cũng được Bộ Luật tố tụng dân sự thể hiện ở chế định hòa giải. Theo đó, hòa giải là trách nhiệm của cơ quan tài phán khi có tranh chấp xảy ra và khi đó các bên có thể thỏa thuận về việc giải quyết vụ án. Ngay cả trước khi diễn ra hoặc tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm các bên cũng vẫn có quyền thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp miễn sao thỏa thuận đó phù hợp với các quy định của pháp luật. Thứ ba, tranh chấp HĐTD luôn có sự tham gia của một bên là TCTD và phần lớn các tranh chấp HĐTD thì nguyên đơn là tổ chức tín dụng cho vay, bị đơn là bên đi vay. Với đặc thù của hoạt động tín dụng là sự cung ứng nguồn vốn đến những tổ chức, cá nhân có nhu cầu về vốn trên cơ sở huy động của các tổ chức, cá nhân có thừa nguồn vốn trong xã hội nên TCTD luôn đóng vai trò trung gian trong mối quan hệ này. Sự tham gia của TCTD là một dấu hiệu đặc trưng nhằm phân biệt giữa tranh chấp HĐTD và tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông thường giữa các tổ chức, cá nhân khác mà không phải là TCTD. Đồng thời, về mặt lý thuyết, khi tham gia ký kết HĐTD, các TCTD và khách hàng có địa vị ngang bằng nhau tham gia thỏa thuận. Nhưng với tư cách là chủ thể có nguồn vốn dồi dào, việc áp đặt các điều kiện cho vay đối với khách hàng là điều không hiếm xảy ra. Hơn nữa, khi tham gia kí kết hợp đồng thì hợp đồng thường do bên cho vay là các TCTD soạn thảo với đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn về mặt pháp lý nhất định. Trong khi đó, chủ thể đi vay là khách hàng thường là các tổ chức, cá nhân, trình độ chuyên môn về mặt pháp lý của họ còn thấp và nhiều khi không được chú trọng đúng mức. Và như vậy là hợp đồng được kí kết với các điều khoản chặt chẽ nhằm bảo đảm cho quyền lợi của TCTD khi bên vay không trả nợ hay trả không đúng nghĩa vụ. Do đó, khi tranh chấp xảy ra thì TCTD luôn nắm đằng chuôi với các điều khoản được ghi nhận một cách chặt chẽ, rõ ràng trong hợp đồng 13 được sự đồng thuận của cả hai bên. Vì vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì là do bên đi vay vi phạm, chứ ít khi TCTD lại vi phạm chính những điều khoản do chính mình soạn thảo. Mặt khác, trong mối quan hệ HĐTD, các nghĩa vụ chính của bên đi vay thường phát sinh sau thời điểm giải ngân. Trong khi đó, tại thời điểm hoàn tất việc giải ngân cho khách hàng thì TCTD đã hoàn thành các nghĩa vụ của mình. Các nghĩa vụ khác của bên cho vay như bảo mật thông tin, lưu trữ hồ sơ tín dụng, nghĩa vụ thông báo, bảo quản tài sản bảo đảm, giải chấp tài sản đảm bảo... là ít quan trọng và là nghĩa vụ phát sinh từ quyền của bên vay. Vì lý do đó nên nếu có tranh chấp xảy ra thì thường là do bên vay vi phạm nghĩa vụ của mình, rất hiếm gặp trường hợp bên đi vay khởi kiện TCTD. Thứ tư, đa phần các tranh chấp liên quan đến HĐTD ngân hàng chính là các tranh chấp liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả vốn, lãi của bên vay cho TCTD, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong HĐTD. Có rất nhiều loại tranh chấp phát sinh từ HĐTD như: tranh chấp về chủ thể xác lập, thực hiện HĐTD, tranh chấp liên quan đến bảo lãnh vay vốn, tranh chấp liên quan đến mục đích sử dụng vốn vay... Tuy nhiên, tranh chấp xảy ra nhiều nhất là tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi, về mức lãi suất vay, về vấn đề bảo đảm. Sở dĩ như vậy là bởi vì những nghĩa vụ này chính là những nghĩa vụ chính nhất, đóng vai trò nòng cốt trong quá trình thực hiện HĐTD của các bên và việc thực hiện này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của TCTD. Các tranh chấp khác cũng có tác động đến các TCTD nhưng không phải là cơ bản nên ít xảy ra hơn so với tranh chấp về nghĩa vụ hoàn trả vốn và lãi hay tranh chấp về lãi suất, về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Thứ năm, tranh chấp HĐTD ngân hàng thường là tiền đề làm phát sinh và gắn liền với một quan hệ hợp đồng khác: hợp đồng bảo đảm tiền vay thông qua hình thức cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba Các TCTD khi tham gia vào HĐTD đều có mục đích lợi nhuận từ việc cho vay đó vì bản chất của TCTD là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp bên vay không trả được nợ, thông thường TCTD chỉ đồng ý cho bên đi vay được vay vốn khi họ có cầm cố, thế chấp bằng tài sản hoặc có bảo lãnh của bên thứ ba. Các biện pháp bảo đảm này đóng vai trò là phương pháp dự phòng 14 của TCTD khi rủi ro xảy ra. Khi đó, để đảm bảo cho nghĩa vụ được đảm bảo trong HĐTD thì các bên kí kết hợp đồng bảo đảm cho khoản vay. Tùy trường hợp mà đó có thể là hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp hay là dưới hình thức chứng thư bảo lãnh của bên thứ ba. Những điều khoản về quyền và nghĩa vụ trong các hợp đồng bảo đảm cho nghĩa vụ vay vốn là để bảo đảm cho việc vay vốn, xuất phát từ hợp đồng tín dụng đã được kí kết và mục đích cuối cùng là bảo đảm cho việc trả nợ của bên đi vay. Như vậy, không có trường hợp nào, hợp đồng bảo đảm lại tách rời ra khỏi HĐTD với tư cách là một hợp đồng độc lập mà giữa chúng luôn có mối quan hệ mật thiết, gắn bó với nhau. Có thể ví mối quan hệ này như là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ. Sự vô hiệu loại hợp đồng này có ảnh hưởng đến loại hợp đồng kia tùy trường hợp. “Trong trường hợp hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm vô hiệu mà các bên chưa thực hiện hợp đồng thì giao dịch bảo đảm chấm dứt, nếu đã thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm thì giao dịch bảo đảm không chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Ngược lại, “giao dịch bảo đảm vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Như vậy, có thể khẳng định rằng tranh chấp HĐTD, với tư cách là hợp đồng chính, luôn gắn liền và làm cơ sở phát sinh tranh chấp hợp đồng bảo đảm - hợp đồng phụ trong quan hệ tín dụng giữa các bên. Thứ sáu, tranh chấp HĐTD phát sinh từ sự xung đột về lợi ích giữa các bên tham gia tranh chấp. Vì tranh chấp HĐTD cũng là một loại tranh chấp hợp đồng nên phải xuất phát từ xung đột lợi ích của các bên trong hợp đồng. Mặc dù vậy trong quan hệ dân sự, pháp luật hiện hành quy định một số cơ quan đoàn thể có thể khởi kiện để đảm bảo quyền lợi cho tổ chức, cá nhân khác mà không phải là lợi ích của chính cơ quan, đoàn thể đó. Tuy nhiên, đối với tranh chấp phát sinh từ HĐTD thì chỉ có chính các bên hay người đại diện hợp pháp của họ mới có quyền khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên đi vay hay TCTD. Không có trường hợp nào mà tranh chấp HĐTD phát sinh do tổ chức, cá nhân khác khởi kiện để bảo vệ quyền lợi cho các bên tham gia HĐTD. Như vậy, tranh chấp phát sinh từ HĐTD chỉ phát sinh khi các bên khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quan hệ tín dụng, hay nói cách khác, tranh chấp HĐTD thường gắn liền với lợi ích của các bên tranh chấp. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan