Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải quyết sự thiếu hụt lao động trong ngành dệt may việt nam...

Tài liệu Giải quyết sự thiếu hụt lao động trong ngành dệt may việt nam

.DOC
36
148
85

Mô tả:

Họ và tên : Trần Tiến Thành Msv : CQ512720 ĐỀ ÁN MÔN HỌC Giải quyết sự thiếu hụt lao động trong ngành dệt may Việt Nam I. Lời nói đầu 1.1Lý do chọn đề tài: Trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế với cơ cấu nông nghiệp-công nghiệp-dịch vụ sang cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp để hoàn thành mục tiêu tới năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa với tỉ trọng công nghiệp cao. Mỗi ngành mỗi lĩnh vực có những nhiệm vụ cụ thể cần hoàn thành để có thể đạt được mục tiêu đề ra. Với lợi thế so sánh khác nhau mỗi ngành có những điều kiện thuận lợi và cũng đương đầu với những thách thức khác nhau. Kể từ đại hội Đảng lần VI(1986) chính phủ đã có những chủ trương mới trong phát triển công nghiệp, trong đó chủ trương ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu và góp phần xuất khẩu. Trong bối cảnh đó những ngành công nghiệp nhẹ với lợi thế so sánh về giá thành nhân công có cơ hội vươn mình phát triển góp phần không nhỏ vào mục tiêu chung của đất nước. Với quy mô dân số lớn và tháp dân số trẻ, số người trong độ tuổi lao động của Việt Nam rất lớn đó là nguồn nhân lực dồi dào cung cấp cho những ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như may mặc, da dày, thủy sản…và thực tế đã chứng minh những ngành này đã tận dụng rất tốt những điều kiện và lợi thế so sánh này để phát triển. Trong những ngành này dệt may vươn lên trở thành một trong những ngành đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam( năm 2008 khoảng 9,1 tỷ USD; năm 2009 khoảng 9,07 tỷ USD ; năm 2010 khoảng 11,2 tỷ USD) qua đó thúc đẩy quá trình tích lũy ngoại tệ phục vụ cho những mục tiêu của đất nước. Tuy nhiên trong vài năm trở lại đây ngành dệt may đã đứng trước những khó khăn nhất định cản trở quá trình phát triển của ngành. Bên cạnh những khó khăn chung do quá trình suy thoái của nền kinh tế tác động thì ngành dệt may cũng đã phải đối mặt với những khó khăn cục bộ, mà nổi lên trong đó là vấn đề thiếu hụt về các yếu tố đầu vào đặc biệt là lao động trong ngành. Đứng trước thực trạng trên và với lợi thế quan trọng của ngành dệt may trong cơ cấu công nghiệp nói riêng và trong cơ cấu xuất khẩu của nền kinh tế nói chung đòi hỏi sớm có những biện pháp để tháo gỡ những khó khăn và vướng mắc về vấn đề lao động. Với thực tiễn như vậy đề tài này ra đời cố gắng đưa ra cái nhìn cụ thể và chi tiết về nguyên nhân cũng như các giải pháp để giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động trong ngành dệt may hiện nay. Lịch sử nghiên cứu: Dù dệt may là một trong những nũi nhọn xuất khẩu của công nghiệp nói riêng và của Việt Nam nói chung nhưng vấn đề lao động của ngành dệt may Việt Nam vẫn chưa nhận được sự quan tâm đúng đắn của Chính phủ và các doanh nghiệp, cụ thể các nghiên cứu về ngành dệt may rất nhiều song mới chỉ tập trung vào việc thúc đẩy xuất khẩu tại các thị trường nước ngoài, hay vấn đề gia công mà chưa đề cập nhiều tới đội ngũ lao động. Những thiếu sót và tồn tại của lao động trong ngành mới chỉ được phản ánh qua báo chí mà chưa có nghiên cứu chuyên đề nhằm tìm ra các giải pháp có tính dài hạn cho ngành mũi nhọn có rất nhiều lợi thế so sánh này. Việc mới chỉ được phản ánh trên báo chí hay tại các hội nghị chưa thể giải quyết được những tồn tại trong ngành có chăng cũng chỉ nêu lên được thực trạng và giải pháp có tình tạm thời.Vì vậy đề tài này ra đời với mong muốn có cái nhìn dài hạn hơn cho vấn đề lao động của ngành dệt may, một vấn đề mới xuất hiện nhưng cần có hướng giải quyết lâu dài để không làm mất đi những thế mạnh vốn có của ngành. II.Thực trạng ngành dệt may Việt Nam: 2.1.Vị trí ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân: Trong những năm gần đây, ngành dệt may đã và đang chứng minh vị trí quan trọng và mũi nhọn của mình trong công nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế quốc dân nói chung. Trong những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể với tốc độ trên dưới 20%/năm, kim ngạch xuất khẩu chiếm khoảng 15% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành dệt may trong năm 2007 tăng 17,9% so với năm 2006. Các sản phẩm chủ yếu đều tăng như sợi toàn bộ tăng 11%; vải lụa thành phẩm tăng 8,9%; sản phẩm quần áo dệt kim tăng 8,8%; quần áo may sẵn tăng 12,6%. Dệt may đang vươn lên và tham gia vào những mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD của Việt Nam, bên cạnh những mặt hàng khác như dầu thô, giày dép, thuỷ sản v.v. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đạt 7,8 tỷ USD, tăng 33,4% so với năm 2006 và bằng khoảng 16% giá trị xuất khẩu hàng hoá năm 2007. Hơn nữa, trong năm 2007, dệt may đã vượt qua dầu thô và trở thành mặt hàng mang lại kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Những minh chứng trên cho thấy dệt may đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu nói riêng và phát triển kinh tế nói chung, vì vậy một yêu cầu đặt ra là cần có sự quan tâm đúng đắn và tương xứng với vị trí của ngành. 2.2 Vị trí ngành dệt may Việt Nam trên thị trường Thế giới: Kể từ sau Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ và đặc biệt khi Việt Nam trở thành viên chính thức của WTO, thị trường và thị phần xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam ngày càng phát triển. Trong đó, thị trường Mỹ đứng đầu với kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là 4,5 tỷ USD (chiếm khoảng 57,7% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may năm 2007); tiếp theo là EU với 1,5 tỷ USD (chiếm khoảng 19,2%) và Nhật Bản. Ngoài ra còn các thị trường khác như: Đài Loan, Canada, Hàn Quốc v.v. Đặc biệt sau khi Mỹ đã xóa bỏ hạn ngạch cho hàng may mặc của Việt Nam vào đầu năm 2007 thì hàng may mặc của Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ đã tăng mạnh, tăng 46,7% so với năm 2006, lớn hơn nhiều so với hàng Trung Quốc (chỉ tăng 23% so với năm 2006 khi xuất sang thị trường Mỹ). Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam, trong 11,17 tỷ USD đạt được trong xuất khẩu năm 2010, xuất khẩu vào thị trường Mỹ đạt hơn 6 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2009. Tại thị trường Châu Âu, nơi dệt may vẫn còn gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn có tăng trưởng khoảng 14% so với 2009, đạt 1,8 tỷ USD và thị phần xuất khẩu tại thị trường này cũng tăng nhẹ lên khoảng 2,02%. Xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường Nhật đã tăng trưởng 20%, đạt 1,2 tỷ USD. Đây là lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu dệt may vào Nhật đạt trên 1 tỷ USD. Hiện thị phần dệt may Việt Nam chiếm khoảng 2,5% trong tổng thị phần dệt may toàn cầu.Số liệu do báo chí công bố cho thấy, trong năm 2011, ngành dệt may đặt mục tiêu xuất khẩu đạt tới 13 tỷ đô la, chiếm khoảng 2,5 % thị phần toàn cầu. Hàng dệt may, thêu đan, may mặc của Việt Nam hiện đứng thứ 5 của thế giới và phấn đấu tiến lên hàng top 3 trong những năm tới. Trong năm 2011, dự kiến hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ thu về gần 7 tỷ đô la, bán sang EU thu hơn 2 tỷ đô la và xuất qua Nhật Bản chiếm một tỷ rưỡi đô la, kim ngạch trên một tỷ đô la còn lại là tại các thi trường khác khắp các châu lục. Có thể nhận thấy xu hướng phát triển thị trường của ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua, thị phần của Việt Nam tại các thị trường lớn đều có xu hướng tăng. Mặc dù có những dấu hiệu chững lại do khủng hoảng chung của Thế giới nhưng nhìn chung dệt may Việt Nam đang từng bước gia tăng thị phần. 2.3 Xu thế phát triển của ngành: Xu thế phát triển của ngành dệt may Việt Nam là giảm bớt gia công và đẩy mạnh xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường Thế giới, xu thế tất yếu này được thể hiện trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 của Thủ tướng chính phủ với các nội dung cơ bản sau: “I. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN 1. Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành dệt may là thương hiệu của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời. 2. Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành. 3. Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn. 4. Đa dạng hóa sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt May, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển Dệt May Việt Nam. Trong đó chú trọng kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm. 5. Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu. II. MỤC TIÊU 1. Mục tiêu tổng quát Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; đáp ứng ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. 2. Mục tiêu cụ thể Tốc độ tăng trưởng - Tăng trưởng sản xuất hàng năm - Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm Giai đoạn 2008-2010 Giai đoạn 2011-2020 16 - 18 % 12 - 14 % 20 % 15 % Các chỉ tiêu chủ yếu trong Chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 như sau: Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện 2006 Mục tiêu toàn ngành đến 2010 2015 1. Doanh thu triệu USD 7.800 14.800 22.500 31.000 2. Xuất khẩu triệu USD 5.834 12.000 18.000 2020 25.000 3. Sử dụng lao động nghìn người 2.150 2.500 2.750 3.000 4. Tỷ lệ nội địa hoá % 32 50 60 70 - Bông xơ 1000 tấn 8 20 40 60 - Xơ, Sợi tổng hợp 1000 tấn 120 210 300 - Sợi các loại 1000 tấn 265 350 500 650 - Vải triệu m2 575 1.000 1.500 2.000 - Sản phẩm may triệu SP 1.212 1.800 2.850 4.000 5. Sản phẩm chính: III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN 1. Sản phẩm a) Tập trung phát triển và nâng cao khả năng cạnh tranh cho ngành may xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường. Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa để nâng cao hiệu quả trong sản xuất và xuất khẩu hàng may mặc. Chú trọng công tác thiết kế thời trang, tạo ra các sản phẩm dệt may có đặc tính khác biệt cao, từng bước xây dựng thương hiệu sản phẩm cho các doanh nghiệp. Đẩy nhanh việc áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng phù hợp với yêu cầu hội nhập trong ngành Dệt May. Tăng nhanh sản lượng các sản phẩm dệt may, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. b) Kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp, nguyên phụ liệu, phụ tùng thay thế và các sản phẩm hỗ trợ để cung cấp cho các doanh nghiệp trong ngành. c) Xây dựng Chương trình sản xuất vải phục vụ xuất khẩu. Tập đoàn Dệt May Việt Nam giữ vai trò nòng cốt thực hiện Chương trình này. d) Xây dựng Chương trình phát triển cây bông, trong đó chú trọng xây dựng các vùng trồng bông có tưới nhằm tăng năng suất và chất lượng bông xơ của Việt Nam để cung cấp cho ngành dệt. 2. Đầu tư và phát triển sản xuất a) Đối với các doanh nghiệp may: Từng bước di dời các cơ sở sản xuất về các địa phương có nguồn lao động nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Xây dựng các trung tâm thời trang, các đơn vị nghiên cứu thiết kế mẫu, các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu và thương mại tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn. b) Đối với các doanh nghiệp sợi, dệt, nhuộm và hoàn tất vải: Xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp chuyên ngành dệt may có cơ sở hạ tầng đủ điều kiện cung cấp điện, nước, xử lý nước thải đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường theo quy định của Nhà nước. Thực hiện di dời và xây dựng mới các cơ sở dệt nhuộm tại các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để có điều kiện xử lý nước thải và giải quyết tốt việc ô nhiễm môi trường. c) Xây dựng các vùng chuyên canh bông có tưới tại các địa bàn có đủ điều kiện về đất đai, thổ nhưỡng và khí hậu nhằm nâng cao sản lượng, năng suất và chất lượng bông xơ. 3. Bảo vệ môi trường a) Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường. b) Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây ô nhiễm vào khu công nghiệp. c) Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000, tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000. d) Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May theo hướng thân thiện với môi trường. e) Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường. g) Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế quốc tế. IV. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC 1. Giải pháp về đầu tư a) Khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển ngành dệt may để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. b) Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên liệu bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt thoi phục vụ cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. c) Xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Dệt May có đủ điều kiện hạ tầng cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường và lao động có khả năng đào tạo. d) Phối hợp với các địa phương đầu tư phát triển cây bông, trong đó chú trọng xây dựng vùng bông có tưới, từng bước đáp ứng nhu cầu bông cho ngành dệt, sợi. 2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực Triển khai Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May Việt Nam theo các nội dung sau: a) Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp chế, cán bộ bán hàng chuyên ngành Dệt May, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề của các dự án dệt, nhuộm trọng điểm. b) Mở các khoá đào tạo về thiết kế và phân tích vải, kỹ năng quản lý sản xuất, kỹ năng bán hàng (gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng, kiến thức về tiêu chuẩn nguyên liệu, sản phẩm, tiêu chuẩn môi trường và lao động). c) Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khoá đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ bán hàng, đào tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao tại các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. d) Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán bộ ra nước ngoài để đào tạo. e) Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt May, xây dựng Trường Đại học Dệt May và Thời trang để tạo cơ sở vất chất cho việc triển khai các lớp đào tạo. g) Duy trì thường xuyên các lớp đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp, công nhân thông qua hệ thống các trường chuyên nghiệp của ngành dệt may nhằm cung cấp đủ nguồn nhân lực cho ngành. Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Tập đoàn Dệt May Việt Nam là đầu mối để phối hợp và liên kết với các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước triển khai Chương trình đạo tạo nguồn nhân lực cho ngành. 3. Giải pháp về khoa học công nghệ a) Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm. - Nâng cao năng lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, khả năng thiết kế và sáng tác mẫu của các Viện nghiên cứu. - Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu triển khai các tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam. b) Nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu mới để tạo ra các sản phẩm dệt có tính năng khác biệt, triển khai các chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm Dệt May. c) Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù hợp và hài hoà với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Hỗ trợ nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm Dệt May, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Dệt May trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật. d) Xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái Dệt May và Trung tâm phát triển các mặt hàng vải trong giai đoạn 2008-2010. e) Xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành Dệt May, nâng cao chất lượng của trang thông tin điện tử. g) Nghiên cứu xây dựng các chính sách khuyến khích thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong ngành Dệt May. 4. Giải pháp thị trường a) Tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán mở rộng thị trường Dệt May trên thị trường quốc tế. b) Cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, xuất nhập khẩu theo hướng thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản hoá các thủ tục. c) Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại. d) Tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế. Chuẩn bị kỹ việc chống các rào cản kỹ thuật mới của các nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. e) Tổ chức mạng lưới bán lẻ trong nước, đổi mới phương thức tiếp thị xuất khẩu, đồng thời quan tâm đến việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm, xây dựng hình ảnh của ngành Dệt May Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế. g) Bố trí đủ cán bộ pháp chế cho các doanh nghiệp trong ngành để tham gia soạn thảo, đàm phán và giải quyết các tranh chấp hợp đồng, nhất là hợp đồng thư�ng mại quốc tế. 5. Giải pháp về cung ứng nguyên phụ liệu a) Xây dựng các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn để cung ứng kịp thời nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong ngành. b) Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp lý. 6. Giải pháp về tài chính a) Vốn cho đầu tư phát triển Để giải quyết vốn cho đầu tư phát triển, ngành Dệt May Việt Nam huy động vốn từ các thành phần kinh tế trong và ngoài nước thông qua các hình thức hợp tác kinh doanh, công ty liên doanh, công ty liên kết, cổ phần hoá các doanh nghiệp, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Khuyến khích các doanh nghiệp huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán (phát hành trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu quốc tế), vay thương mại với điều kiện có hoặc không có sự bảo lãnh của Chính phủ. b) Vốn cho hoạt động nghiên cứu, đào tạo nguồn nhân lực và xử lý môi trường Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các Viện nghiên cứu, các Trường đào tạo trong ngành Dệt May Việt Nam để tăng cường cơ sở vật chất và thực hiện các hoạt động nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt May theo nguyên tắc phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Nhà nước cho doanh nghiệp Dệt May được vay vốn tín dụng nhà nước, vốn ODA và vốn của quỹ môi trường để thực hiện các dự án xử lý môi trường.” ( Trích:QUYẾT ĐỊNH Phê duyệt Chiến lược phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020) 2.4 Những vấn đề vướng mắc về lao động của ngành: Tầm quan trọng và những đóng góp của dệt may tới sự thúc đẩy phát triển kinh đã được minh chứng rõ ràng và dệt may đang ngày càng thể hiện vai trò đầu tàu của mình trong thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam đạt mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa(mục tiêu tới năm 2020). Tuy nhiên một thực trạng hiện nay đang gây ra những khó khăn nhất định cho dệt may tiếp tục thể hiện vai trò đầu tàu của mình trong thúc đẩy nền kinh tế phát triển đó là vấn đề vướng mắc về lao động.Một thực tế là trong những năm gần đây sự thiếu hụt lao động đang gây ra những cản trở sự phát triển của ngành. Từ một tỉnh có lợi thế trong việc thu hút đầu tư ngành dệt may nhờ nguồn lao động dồi dào, vài năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp dệt may đang phải đối mặt với nguy cơ thiếu lao động. Sự biến động về lực lượng lao động, nhất là với đội ngũ công nhân lành nghề đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược phát triển sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp, thậm chí làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh thu hút lao động không lành mạnh giữa các doanh nghiệp dệt may với nhau. Thời gian qua, tình hình lạm phát diễn biến ngày càng phức tạp, giá cả hầu hết các mặt hàng thiết yếu đều tăng. Với công nhân ngành may thì tiền thuê nhà, tiền điện, tiền nước và tiền mua thực phẩm phục vụ sinh hoạt hàng ngày cũng tăng “chóng mặt” trong khi thu nhập của họ không tăng tương ứng dẫn tới đời sống gặp nhiều khó khăn. Nhiều người đã phải chi phí tới 1/2, thậm chí 2/3 thu nhập hàng tháng cho việc thuê nhà trọ và sinh hoạt tối thiểu hàng ngày. Khoản tiền mà họ tiết kiệm được còn lại không đáng là bao. Ngay cả với những công nhân có nhà gần nơi làm việc, không phải thuê nhà trọ thì chi phí xăng xe đi lại kết hợp với giá cả sinh hoạt ngày càng đắt đỏ cũng khiến đời sống của họ gặp nhiều khó khăn dù đã rất tiết kiệm chi phí. Nếu như trước đây mức độ biến động thiếu hụt chỉ vào khoảng 5% thì nay đã tăng lên mức 8- 10%. Có doanh nghiệp đã ngừng hoạt động cả một chuyền sản xuất do thiếu tới cả trăm công nhân. Thời gian biến động nhiều nhất thường là vào dịp sau Tết Nguyên đán. Sự biến động về lao động đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may. Một số doanh nghiệp đã đầu tư xây dựng nhà xưởng mới nhưng không tuyển dụng đủ số lao động cần thiết gây lãng phí về tiền vốn. Một số doanh nghiệp đã phải thực hiện tăng ca để đảm bảo thời gian giao hàng cho đối tác theo hợp đồng. Có nơi đã phát sinh mâu thuẫn nội bộ do chế độ áp dụng giữa công nhân cũ và công nhân mới tuyển dụng không công bằng dẫn tới đình công. Thậm chí đã xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp dệt may 100% vốn đầu tư nước ngoài do có tiềm lực về vốn đã đưa ra các chế độ ưu đãi hấp dẫn để thu hút lao động, trong đó có cả các lao động tay nghề cao. Mặc dù đây là sự cạnh tranh tất yếu của cơ chế thị trường mang lại nhiều lợi ích cho người lao động; nhưng trên thực tế đã gây xáo trộn lớn về lao động, làm ảnh hưởng đến sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước quy mô vừa và nhỏ. Để giữ chân lao động, tránh sự xáo trộn, biến động lớn, thời gian qua, các doanh nghiệp dệt may đã đưa ra nhiều giải pháp như: Tăng các khoản thu nhập ngoài lương để hỗ trợ người lao động, có doanh nghiệp đã tăng tiền chuyên cần hàng tháng từ 250.000 đ/ người lên 400.000 đ/ người. Một số doanh nghiệp thực hiện hỗ trợ công nhân về tiền thuê nhà, tiền xăng xe. Một số doanh nghiệp khác quan tâm hơn tới việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với người lao động gồm BHYT, BHXH, tham quan du lịch, chế độ ốm đau... Bên cạnh các giải pháp về chế độ, chính sách, một số doanh nghiệp đã chuyển hướng đầu tư ra khu vực ngoại thành và xuống các huyện, thậm chí xây dựng nhà xưởng ngay trên địa bàn các xã để tận dụng nguồn lao động tại chỗ. Rõ ràng tình trạng thiếu hụt lao động đang gây ra những ảnh hưởng nặng nề tới tổ chức sản xuất của doanh nghiệp và dẫn tới dự thiếu hụt mặt hàng dành cho xuất khẩu.Dù đã có những giải pháp tạm thời mang tính cục bộ tuy nhiên những giải pháp đó chỉ đáp ứng trước mắt,thiếu tính định hướng về lâu dài vì vậy trong dài hạn chưa thế tháo gỡ những vướng mắc và không thể giúp ngành định hướng trong dài hạn.Vì vậy điều tiên quyết để ngành dệt may tiếp tục có thể duy trì và đẩy mạnh vị trí của mình là cần có biện pháp cụ thể giải quyết triệt để tình trạng thiếu hụt lao động. III.Nguyên nhân: Trên đây chúng ta đã xem xét vai trò và vị trí của ngành dệt may trong nền kinh tế quốc dân, đồng thời cũng điểm qua những định hướng và khó kahwn gặp phải của ngành trong đó đề cập tới vướng mắc về lao động.Những vướng mắc về lao động đang đẩy ngành dệt may đứng trước những khó khăn để tiếp tục duy trì vị thế của mình trong những năm tới và yêu cầu cấp bách là cần giải quyết những vướng mắc này,điều đó đòi hỏi cần phải tìm ra những nguyên nhân để hướng tới các biện pháp khắc phục. Trong nội dung phần này xin đề cập tới những nguyên nhân khác nhau từ các bên hữu quan bao gồm doanh nghiệp,người lao động và nhà nước. 1. Những nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: Thiếu tính quy hoạch Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đến 31/12/2010, ngành công nghiệp Dệt may có 3.710 doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp có sự phân bố không đồng đều giữa vùng miền. Tại miền Bắc, nơi tập trung tới 30% doanh nghiệp, thì các doanh nghiệp lại chủ yếu đóng tại thủ đô Hà Nội. Khu vực miền Nam chiếm tới 62% lượng doanh nghiệp toàn Ngành, cũng chủ yếu tập trung tại TP.Hồ Chí Minh. Còn khu vực miền Trung chỉ chiếm 8% lượng doanh nghiệp toàn Ngành. Sự tập trung quá cao này dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt giữa các doanh nghiệp dệt may với các ngành công nghiệp khác; giữa các doanh nghiệp dệt may với nhau về đơn hàng, lao động, tiền lương... Chi phí sản xuất tăng cao do tốc độ tăng trưởng GDP bình quân tại các thành phố này đều dẫn đầu cả nước. Quỹ đất ngày càng hạn hẹp, đặc biệt là các yêu cầu về tuân thủ Luật Bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe. Theo phân tích của Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex), với mức thu nhập bình quân của người lao động ngành Dệt may là 120 USD/tháng (tương đương với 30 triệu đồng/năm) thì trong tương lai, dệt may sẽ không thể giữ chân người lao động tại các thành phố lớn. Và đó cũng chính là nguyên nhân vì sao các doanh nghiệp dệt may luôn lâm vào tình trạng thiếu hụt lao động trong thời gian qua. Tốc độ phát triển ngành Dệt may quá nhanh do chưa có quy hoạch định hướng. Nhiều doanh nghiệp dệt may ra đời một cách tự phát dẫn đến nhu cầu sử dụng lao động ngày càng cao, trong khi số lao động đào tạo từ các địa phương không đáp ứng kịp nhu cầu của doanh nghiệp. Mặt khác, với mức thu nhập bình quân trên dưới 2,5 triệu đồng/tháng, lao động sẽ thích chuyển về làm ở địa phương hơn là làm ở các doanh nghiệp tập trung tại các thành phố có mức chi tiêu cao hơn ở địa phương. Như vậy có thể nhận thấy việc các doanh nghiệp dệt may hay gặp phải những vấn đề về lao động một phần là do việc phát triển tự phát của các doanh nghiệp, chính sự thiếu định hướng trong phát triển dẫn tới việc các doanh nghiệp không chủ động về nguồn lao động dẫn tới tình trạng thiếu hụt lao động những năm qua. Ngoài ra các nhân tố về phân bố cũng ảnh hưởng tiêu cực tới nguồn cung lao động trong ngành, bên cạnh đó do các doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư vào phát triển công nghệ dẫn tới giá xuất khẩu của Việt Nam thấp,chưa gây dựng được thương hiệu, các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị ở những giai đoạn thấp của sản phẩm dẫn tới việc chi trả thấp chi chi phí nhân công, điều này dẫn tới người lao động không mặn mà với công việc. Thiếu tôn trọng người LĐ Không chỉ thu nhập thấp, các chủ DN - nhất là LĐ ở các DN có vốn đầu tư nước ngoài - còn ứng xử thiếu tôn trọng với người LĐ. Đã xảy ra nhiều trường hợp cán bộ, chuyên viên nước ngoài chửi mắng, thậm chí đánh đập CN may. Đây cũng là những DN mà khi có đơn hàng lớn thì tìm mọi cách, thậm chí cạnh tranh không lành mạnh như vận động, lôi kéo, trả lương cao, giành giật LĐ đang làm việc của đơn vị khác; nhưng, khi xong hợp đồng lại tìm cách sa thải người LĐ. Sau khi nhận việc là Cty liên tục ép tăng ca, tăng giờ. Cty nào cũng trả lương 8 tiếng quy định rất thấp rồi dùng quỹ thưởng, giờ làm thêm, phạt để ép CN tăng ca. Ở nhiều DN, CN cứ đều đặn cả tuần 7 giờ sáng vào làm việc đến 21 giờ mới về. Bên cạnh đó, ở các DN, cơ sở dệt - may nhỏ lẻ, người LĐ lại khó có thể bình ổn được cuộc sống vì bị phụ thuộc vào thị trường và một số DN lớn. Đồng thời, các DN này cũng thường xuyên trốn tránh trách nhiệm bảo đảm các quyền lợi về BHXH, BHYT, khen thưởng, phúc lợi đối với người LĐ. Thiếu tầm nhìn dài hạn Hiện nay vẫn còn nhiều DN có tâm lý cho rằng người lao động (NLĐ) phải phụ thuộc vào mình. Thậm chí, họ xem lực lượng lao động là “từ trên trời rơi xuống”, khi cần thì DN tuyển, khi không cần thì cho nghỉ... Đến khi NLĐ bỏ sang nơi khác làm việc, DN mới giật mình tăng lương, cải thiện điều kiện lao động... 2.Những nguyên nhân từ phía người lao động: Lực lượng lao động công nghiệp nước ta đang có những biến động lớn. Từ “nhảy việc” - tức đang làm ở đơn vị này nhảy sang làm việc ở đơn vị khác cùng địa phương - nay dịch chuyển hàng loạt từ địa phương này sang địa phương khác. Thường diễn ra sau khi về quê ăn tết, hàng loạt công nhân, lao động quê miền Bắc, miền Trung không trở lại các công ty, doanh nghiệp ở miền Nam. Số này thường từ 15 đến 20% số CNLĐ doanh nghiệp, chủ yếu trong các ngành dệt - may, chế biến thực phẩm, xây dựng… Theo tính toán của nhiều địa phương và ngành dệt - may, năm 2010, số lao động tuyển mới chỉ đủ bù đắp số lao động bỏ việc, nên thiếu lao động đang khá trầm trọng, không chỉ lao động kỹ thuật, mà ngay cả lao động phổ thông, giản đơn. Nguyên nhân chính là thu nhập không đủ sống, không có nơi nuôi dạy và học hành cho con nhỏ, lại ở xa nhà, đi lại rất tốn kém. Tình trạng này gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sản xuất theo dây chuyền và gia công cho nước ngoài; cũng khó khăn cho việc giáo dục công nhân, lao động và xây dựng tổ chức Đảng, công đoàn và đoàn thanh niên trong doanh nghiệp. Biện pháp quản lý hành chính là cần thiết, nhưng không thể ngăn cản được quy luật thị trường lao động, không chỉ thiệt cho người lao động (NLĐ), mà doanh nghiệp cũng khó ổn định được lực lượng lao động. Biến động lao động là tất yếu của kinh tế thị trường, nhưng biến động ở mức nào là chấp nhận được cần nghiên cứu. Dù có những khó khăn nhất định tuy nhiên tình trạng lao động nhảy việc một cách tự do và thiếu những chế tài xử lý đã dẫn đến tình trạng người lao động thiếu ý thức tôn trọng hợp đồng lao động đã được ký kết, làm cho các doanh nghiệp trong ngành khó có thể định hướng nguồn nhân lực cần thiết để có các chiến lược tuyển dụng và tuyển mộ hợp lý 3Nguyên nhân từ phía nhà nước: Trong chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa với mục tiêu tới năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp với tỷ trọng công nghiệp cao trong GDP, nhà nước đã có những chính sách cụ thể thúc đẩy công nghiệp phát triển. Với chủ trương đẩy mạnh phát triển công nghiệp nhẹ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu đặc biệt là những ngành sử dụng nhiều lao động nhằm giải quyết những vấn đề về cả kinh tế và xã hội những ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, da dày, chế biến nông lâm thủy sản… đã được tạo những điều kiện ưu đãi để phát triển và không ít trong những ngành này đã trở thành những mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam trong những năm qua.Tuy nhiên bên cạnh đó chính sự ưu đãi thiếu tính toán đó, cùng với sự thiếu đồng bộ và chưa minh bạch của hệ thống luật pháp đã đẩy một số ngành vào những tình cảnh khó khăn mà dệt may là một trong những ngành như vậy. Thiếu tính định hướng Một thực tế cần thừa nhận là trong những năm qua vấn đề thiếu hụt lao động trong ngành dệt may có những nguyên nhân không nhỏ từ phía nhà nước.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan