Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Longdu li...

Tài liệu Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Longdu li

.DOC
96
140
136

Mô tả:

Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long Mở đầu 1. Lý do chọn đề tài Vịnh Hạ Long là một thắng cảnh thiên nhiên đẹp, nổi tiếng của Việt Nam đã được UNESCO hai lần công nhận là Di sản Thiên nhiên thế giới (năm 1994 và 2000) bởi giá trị nổi bật toàn cầu về cảnh quan tự nhiên và giá trị địa chất địa mạo. Số lượt khách tới vịnh Hạ Long trong hơn mười năm qua tăng trưởng rất mạnh. Đã có 8 tuyến tham quan được xây dựng và triển khai trên khắp khu vực vịnh Hạ Long. Tuy nhiên từ nhiều năm nay chỉ có 4 trong 8 tuyến tham quan ấy trở nên quen thuộc với du khách. Tổng số lượt khách trên 4 tuyến tham quan còn lại chỉ bằng một phần nhỏ trong tổng số lượt khách đến vịnh Hạ Long. Bốn tuyến tham quan thu hút được nhiều lượt khách tham quan nhất nằm trọn vẹn trong khu vực bảo vệ tuyệt đối của Di sản Thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long. Tại khu vực này (khu vực đảo Đầu Gỗ, đảo Bồ Hòn, Ti Tốp hay Soi Sim) thường xuyên xảy ra tình trạng quá tải. Đặc biệt trong giai đoạn chính vụ, mỗi ngày khu vực đáng ra được bảo vệ tuyệt đối này phải đón hàng nghìn lượt khách và khoảng trên 500 lượt tàu ra vào. Điều này tất nhiên đã gây ra những hậu quả to lớn đối với môi trường và vấn đề bảo vệ giá trị tài nguyên. Đồng thời còn trực tiếp tác động làm giảm chất lượng tour du lịch và là nguyên nhân gián tiếp gây ra tình trạng “khách không muốn quay trở lại”. Việc vịnh Hạ Long trở thành Di sản Thiên nhiên thế giới đã mở ra nhiều triển vọng mới cho du lịch Quảng Ninh nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung. Nhưng cùng với đó là trách nhiệm nặng nề đối với công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị Di sản. Vịnh Hạ Long đã thực sự trở thành một trung tâm du lịch lớn và quan trọng của tỉnh, của quốc gia. Do đó bảo tồn và giữ nguyên giá trị tài nguyên là một trách nhiệm to lớn hàng đầu song trách Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 1 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long nhiệm khai thác và phát triển du lịch cũng không thể coi là thứ yếu. Giải quyết mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển du lịch là một bài toán khó với nhà quản lý. Và việc mở rộng không gian du lịch, giảm tải cho khu vực trung tâm, giãn khách ra vùng đệm và ngoại biên có thể coi là một hướng đi an toàn. Với quan điểm trên, tác giả cho rằng việc thực hiện được mục tiêu thu hút khách ra các tuyến tham quan mới hơn sẽ là một trong những bài giải phù hợp đối với vấn đề quá tải ở một số điểm trên vịnh Hạ Long. Bởi vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài “Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long” làm đề tài tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là tìm ra giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long nhằm góp phần thực hiện được mục tiêu:  Giảm tải cho khu vực trung tâm.  Giới thiệu, quảng bá các giá trị tài nguyên chưa được biết đến của vịnh Hạ Long.  Nâng cao nhận thức của du khách về vịnh Hạ Long. 3. Đối tượng nghiên cứu  Các yếu tố cung du lịch của vịnh Hạ Long.  Các tuyến tham quan trên vịnh Hạ Long.  Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long. 4. Phạm vi nghiên cứu Nội dung nghiên cứu của đề tài chỉ trong phạm vi hoạt động du lịch trên vịnh Hạ Long dưới góc độ tiếp cận của các bộ môn khoa học Du lịch. 5. Phương pháp nghiên cứu Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 2 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long Để hoàn thành đề tài, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:  Phương pháp thu thập và xử lý tư liệu: Trước hết tác giả đã thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài. Đọc, chọn lọc thông tin và phân loại tài liệu theo các danh mục nghiên cứu, mức độ quan trọng và tin cậy để sử dụng làm tài liệu tham khảo và đưa ra được những nhận xét ban đầu.  Phương pháp nghiên cứu thực địa (điền dã): Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã nhiều lần đến vịnh Hạ Long (đối tượng nghiên cứu của đề tài) để quan sát, thu thập và kiểm chứng thông tin. Tác giả cũng đã tham gia vào một số hoạt động du lịch cùng du khách và trước đó (tháng 3 năm 2005), tác giả đã thực tập tốt nghiệp Đại học tại Ban Quản lý vịnh Hạ Long. Qua những nghiên cứu thực địa đó có thể nhận biết chính xác và đầy đủ hiện trạng của vấn đề nghiên cứu. Từ đó có thể đưa ra các giải pháp phù hợp.  Phương pháp điều tra xã hội học: Tác giả đã thực hiện phương pháp này dưới hai hình thức là điều tra bằng bảng hỏi (300 khách) và phỏng vấn sâu đối với khách du lịch, nhân viên Ban Quản lý vịnh Hạ Long, nhân viên tàu, hướng dẫn viên ... Qua đó nắm bắt được các thông tin, các ý kiến, các gợi ý giải quyết vấn đề.  Phương pháp phân tích hệ thống: Phân tích các yếu tố của vấn đề nghiên cứu, đặt chúng vào một hệ thống nhằm tìm ra mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố, giữa các vấn đề. Từ đó thấy được căn nguyên vấn đề để có được những phân tích chặt chẽ và tìm ra được giải pháp thích hợp.  Phương pháp cân đối kinh tế: Trong phạm vi đề tài này, tác giả đã thực hiện phương pháp này để tính toán cân đối giữa lợi ích sẽ đem lại của các vấn đề đối nghịch như: nhu cầu du lịch và khả năng đáp ứng, phát triển du lịch với bảo tồn tài nguyên, lợi ích của nhà quản lý với các cơ sở kinh doanh, giữa du khách và các nhà cung ứng.... Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 3 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long 6. Bố cục Đề tài được hoàn thành với bố cục gồm 3 phần, kết cấu như sau: Phần 1: Phần mở đầu. Phần 2: Nội dung (gồm 3 chương):  Chương 1: Cung du lịch trên vịnh Hạ Long.  Chương 2: Hiện trạng khai thác du lịch trên các tuyến tham quan ở vịnh Hạ Long.  Chương 3: Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long. Phần 3: Kết luận. Do trình độ bản thân còn hạn chế, thời gian nghiên cứu không nhiều, kinh nghiệm còn ít nên đề tài không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý, đánh giá, phê bình và chỉ bảo của các thầy cô, bạn bè và tất cả những người có quan tâm đến đề tài. Trân trọng cảm ơn! Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2008 Tác giả Nguyễn Thị Thu Hằng Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 4 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long Chương 1 Cung du lịch trên vịnh hạ long Tiểu dẫn Từ lâu, vịnh Hạ Long Việt Nam đã nổi tiếng khắp thế giới bởi vẻ đẹp tuyệt mỹ và hoành tráng của hàng ngàn đảo đá (1969 đảo) trên mặt biển. Với cảnh quan ngoại hạng ấy, vịnh Hạ Long đã hai lần được Tổ chức UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Nhưng Hạ Long không chỉ là một thắng cảnh đẹp mà trong nó còn ẩn chứa các giá trị ngoại hạng về địa chất, địa mạo, về giá trị đa dạng sinh học và lịch sử văn hoá. 1.1 Tài nguyên du lịch trên vịnh Hạ Long 1.1.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên 1.1.1.1 Vị trí địa lý Nằm ở phía Đông Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long thuộc toạ độ địa lý từ điểm cực Nam ở đảo Hạ Mai, xã Ngọc Vừng là 20 040’ độ vĩ Bắc đến điểm cực Bắc là dãy núi Mỏ Toòng của huyện Bình Liêu ở 21 040’ vĩ độ Bắc; từ điểm cực Tây ở 106026’ kinh độ Đông với sông Vàng Chua của hai xã Bình Dương và Nguyễn Huệ thuộc huyện Đông Triều đến điểm cực Đông của tỉnh là Mũi Gót ở 108031’ kinh độ Đông, trên đất Trà Cổ, thị xã Móng Cái [19, 3]. Khu vực Di sản có vùng bảo vệ tuyệt đối xác định trong toạ độ từ 106059’24” đến 107020’30” kinh độ Đông và 20043’24” đến 21056’12 vĩ độ Bắc, giới hạn bởi 3 điểm: đảo Đầu Gỗ (phía Tây), đảo Đầu Bê (phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông) với diện tích 434km2, gồm 775 hòn đảo, trong đó có 411 đảo đã được đặt tên [7, 7]. Đây cũng là khu vực giới hạn được nhắc đến trong khái niệm vịnh Hạ Long dưới đây. Tỉnh Quảng Ninh là đơn vị hành chính – kinh tế trọng điểm, nằm trong tam giác phát triển Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh của miền Bắc Việt Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 5 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long Nam. Hơn nữa, ở vào vị trí chỉ cách Hà Nội (trung tâm đón khách lớn nhất miền Bắc) 165km – một khoảng cách lí tưởng trong phát triển du lịch, Quảng Ninh đã trở thành một trong những điểm đến quan trọng nhất của Việt Nam. Vùng biển Quảng Ninh nằm trên luồng giao lưu đường biển chính từ Trung Quốc đến Vịnh Bắc Bộ vào các cảng lớn phía Bắc Việt Nam và vào phần phía Nam biển Đông đến các quốc gia lân cận vùng Đông Nam á. Chính vì vậy, tỉnh Quảng Ninh đã nhận một vị thế đặc biệt ở cửa ngõ Đông Bắc trong giao lưu kinh tế, giao bang với Trung Quốc láng giềng và cả trong bảo vệ an ninh lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam nói chung. Sự hội tụ giữa vị trí địa lý và cấu trúc cảnh quan lãnh thổ cả trên đất liền và trên biển cùng những tiềm năng vốn có đã đưa vịnh Hạ Long vào vị thế thu hút khách thập phương về đây thưởng ngoạn, để nhận ra những nét hấp dẫn của các thắng cảnh trên một vùng thiên nhiên độc đáo để giao lưu tạo lập nên những mối quan hệ trong phát triển lâu dài. 1.1.1.2 Khí hậu Khí hậu Hạ Long là khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè (tháng 5 đến tháng 10) nóng ẩm, mưa nhiều nhiệt độ trung bình từ 27 – 29 0C, mát khô vào mùa đông, nhiệt độ trung bình từ 16 – 180C. Lượng mưa trung bình năm là 1680 mm, với khoảng trên 300 mm vào các tháng 6, 7, 8 và dưới 300 mm vào các tháng khô nhất trong năm là tháng 12, tháng 1 và tháng 2. Những đặc trưng khí hậu quan trọng nhất của các mùa trong năm ở Hạ Long là:  Mùa đông (từ tháng 11 đến tháng 3) Từ các khối không khí cực đới ở phương Bắc tràn xuống, gió mùa Đông Bắc lạnh và khô xuất hiện với tần suất tương đối lớn và đến được những vĩ độ thấp nhất của nước ta. Tuy vậy, sự khống chế của nó không phải Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 6 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long là thường xuyên . Giữa các đợt gió mùa Đông Bắc lạnh là các khối không khí nhiệt đới . Mùa Đông là mùa lạnh và ít mưa ở Quảng Ninh. Vào thời kì đầu mùa đông, từ tháng 11 đến giữa tháng 12, ảnh hưởng đến Quảng Ninh thường là từ rìa áp cao. Gió mùa Đông Bắc lạnh chưa nhiều, trời ít mưa và khô. Đôi khi rãnh phía Tây xuất hiện kết hợp lưỡi áp cao tạo nên sương mù, mưa nhỏ hoặc mưa phùn. Thời kỳ giữa mùa, từ tháng 2 đến cuối tháng 3 thường ít có gió mùa Đông Bắc hơn, thời tiết thường âm u, ẩm thấp, mưa phùn nhiều. Đây là khoảng thời gian có nhiều mưa phùn nhất trong năm.  Mùa xuân (tháng 4) Thực chất đây là khoảng thời gian quá độ từ đông sang hè, vì vậy thời tiết trong khoảng thời gian này có sự giao tranh giữa không khí cực đới và không khí nhiệt đới, trời bắt đầu có mưa giông.  Mùa hè (từ tháng 5 đến tháng 9) Thường xuất hiện khối không khí nhiệt đới xích đạo, áp cao Thái Bình Dương, bão xoáy thấp xuất hiện khá nhiều nhất là vào giữa mùa. Nửa đầu mùa thường có mưa dông và mưa rào, nửa cuối mùa ít dần đi. Thỉnh thoảng có gió mùa Đông Bắc yếu làm nhiệt độ giảm đi chút ít. Đây là thời gian nóng nhất trong năm, có nhiều dông bão và lượng mưa lớn.  Mùa thu (tháng 10) Thời gian này ảnh hưởng của áp cao đã yếu dần đi và rút dần ra biển. Bão và giải hội tụ nhiệt đới hoạt động mạnh ở các vĩ độ thấp ở nước ta. Không khí cực đới bắt đầu phát triển, Quảng Ninh thường chịu ảnh hưởng của rìa áp cao lạnh. Vào khoảng thời gian này, tuy không thường xuyên song thỉnh thoảng Hạ Long vẫn có mưa lớn do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc. Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 7 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long Nhìn chung, khí hậu Hạ Long thích hợp cho phát triển du lịch đặc biệt là du lịch tham quan, tắm biển, phơi nắng, nghỉ dưỡng, thể thao và du lịch sinh thái. Tuy nhiên do có mùa đông lạnh và có nhiều ngày thời tiết xấu nên đã có những trở ngại trực tiếp đến các hoạt động của con người, trong đấy có hoạt động du lịch và chính điều đó tạo nên tính mùa vụ trong du lịch Hạ Long. Mùa hè là thời kỳ hoạt động của dông bão và các trận mưa lớn gây ra biển động, lũ lụt, sạt lở đường giao thông, xói mòn bờ sông, bờ biển, gây nên những tổn thất lớn về kinh tế và khó khăn cho đời sống sinh hoạt của nhân dân. Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đi du lịch của du khách và gây ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh du lịch của vịnh Hạ Long. Vì vậy ngành du lịch cần có kế hoạch chủ động phòng tránh thiên tai, lợi dụng xu thế nổi trội theo mùa để phát triển các dạng sản phẩm du lịch, đảm bảo sự hoạt động đồng đều cho du lịch vịnh Hạ Long trong cả năm. 1.1.1.3 Thắng cảnh Vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới bởi các giá trị thẩm mỹ và địa chất địa mạo. Đây là một Di sản thiên nhiên rất có giá trị và nổi tiếng thế giới được cấu tạo bởi các chất liệu chính là đá, nước và bầu trời. Vịnh Hạ Long là thắng cảnh độc đáo có giá trị nhiều mặt, trong đó khu vực tập trung nhiều giá trị nổi bật nhất là khu vực nằm trong bán kính 434km 2 mà UNESCO đã công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới. Nếu nhìn bao quát vịnh Hạ Long sẽ hiện lên như một tác phẩm nghệ thuật tạo hình vĩ đại của thiên nhiên – một tác phẩm nghệ thuật độc đáo mà có lẽ chỉ có tạo hoá mới làm được. Bởi đó là sự kết hợp rất tinh tế và tài tình giữa điêu khắc và hội hoạ, giữa sự cứng cỏi mạnh mẽ của đá với sự duyên dáng thơ mộng của nước. Đó thật là một tác phẩm mà khó có người nghệ sỹ nào làm được. Điều đặc biệt nữa khi đi tham quan thắng cảnh vịnh Hạ Long đấy Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 8 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long là du khách sẽ thấy cảnh quan vịnh Hạ Long sẽ không ngừng biến đổi theo từng góc nhìn, từng thời điểm và thậm chí là theo từng tâm trạng của du khách. Vâng, chắc chắn sẽ là như vậy, bởi tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo dựng và cho đến nay Ngài vẫn chưa ngừng tu sửa đó là một tác phẩm nghệ thuật mang tính động. Hạ Long đẹp bốn mùa. Mùa xuân thảm thực vật đâm chồi nảy lộc, xanh biếc trên núi đá vôi, thời tiết lại hay có mưa phùn, nhiều sương tuy làm hạn chế tầm nhìn của du khách song lại càng làm tăng vẻ đẹp mờ ảo quyến rũ. Mùa hè trời trong xanh, nhiệt độ không quá cao, lại có ánh nắng chiếu xuống làm đổ bóng những đảo đá vôi xuống mặt nước biển. Những đảo đá này vốn đã rất tạo hình nay lại càng đẹp lung linh dưới ánh nắng ngày hè. Mùa thu, nhất là vào những đêm trăng sáng, trăng soi các đảo đá xuống mặt nước, Hạ Long hiện lên với vẻ đẹp của một thiếu nữ. Mùa đông, khói sóng, khói sương bay là là nửa như muốn giấu bớt đi vẻ đẹp của Hạ Long và điều đó lại càng làm cho Hạ Long trở nên quyến rũ hơn. Theo quy hoạch, khu vực vịnh Hạ Long được chia thành ba tiểu khu vực như sau:  Tiểu khu vực 1: bao gồm 775 hòn đảo của vịnh Hạ Long nằm trong ranh giới được UNESCO công nhận.  Tiểu khu vực 2: theo vùng đệm UNESCO đã hoạch định, bao gồm một số khu vực tác động trực tiếp đến Di sản.  Tiểu khu vực 3: từ ranh giới vùng đệm đến ranh giới bảo tồn quốc gia.[19, 14] 1.1.1.4 Hang động và bãi tắm Vịnh Hạ Long có tổng diện tích là 1553km 2 với 1969 hòn đảo, trong đó có hơn 900 đã có tên. Nhưng không phải tại tất cả các đảo đều có hang động và bãi tắm, một số đảo có hang động hoặc bói tắm cũng chưa được đưa vào khai thác phục vụ du lịch. Vỡ vậy, cỏc bói tắm và hang động được nói đến Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 9 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long dưới đây chỉ bao gồm các hang động và bói tắm đó được đưa vào danh sách các điểm đến trờn vịnh với mục đích phục vụ hoạt động tham quan, tắm biển của du khỏch. 1.1.1.4.1 Hang động Động Thiờn Cung: Tổng diện tớch rộng hơn 3000m2, động có độ tuổi khoảng 2000 năm. Đây là loại động cú kiểu kiến trỳc dọc, 2 tầng, nằm theo hướng bắc nam, treo lơ lửng cỏch mặt nước 27m [27]. Nền động là loại đất hoàng thổ, đá màu gan gà và rất nhiều măng đá. Trần động là cỏc dải nhũ kết tủa và các rèm đá. Trong động cũng cú rất nhiều cỏc cột đá lớn nhỏ. Sự hỡnh thành cỏc cột đá là do sự tớch tụ lâu ngày làm cho măng đá và nhũ đá chạm nhau và hợp lại làm một, quỏ trỡnh này cần đến cả gần nhỡn năm. Tờn gọi của động xuất phỏt từ vẻ đẹp nguy nga, trỏng lệ của nó. Thiên Cung có nghĩa là hoàng cung nơi tiên giới. Động được một người dõn chài Hạ Long tỡm ra vào năm 1993 nhưng theo dấu tớch cũn ghi lại trờn vỏch động thỡ động được người Phỏp phỏt hiện từ đầu thế kỉ XX (1901 và 1946) Hang Đầu Gỗ: Nằm trong quần thể khu thắng cảnh Thiên Cung - Đầu Gỗ. Xưa đảo này cú tên là Canh Độc, sỡ dĩ gọi là đảo Đầu Gỗ, theo truyền thuyết kể lại rằng: Trong cuộc khỏng chiến chống quân Nguyên Mông, tướng Trần Hưng Đạo đó cho chuẩn bị nhiều cọc gỗ lim ở đây để cắm xuống sụng Bạch Đằng, cú rất nhiều mảnh cũn sút lại nờn mới gọi là hang Đầu Gỗ. Hang được chia làm 3 ngăn chính. Ngăn phía ngoài có hỡnh vũm, trần hang được vớ là một bức tranh sơn dầu khổng lồ, ở giữa hang cú một cột đá lớn (khoảng chục người ụm). Ngăn thứ hai được ngăn cách với ngăn thứ nhất bằng một khe cửa hẹp. Tận cựng hang là một chiếc giếng tiờn bốn mùa đều có nước ngọt trong vắt. Hang Sửng Sốt: Hang nằm ở khu trung tõm của vịnh Hạ Long, thuộc đảo Bồ Hũn, cỏch bến tàu du lịch Bói Chỏy 14 km về phiỏ Nam. Cửa hang rộng và khá cao ước chừng 25m, trần hang chỗ cao nhất đo được 30m, lòng hang rộng khoảng 10000m2 [27]. Đây là một hang rộng và đẹp nhất nhỡ Hạ Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 10 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long Long và cũng là nơi tập trung nhiều đảo đá có hỡnh dỏng đặc sắc không nơi nào có được. Hang nằm ở vị trớ khỏ cao so với mặt nước biển, đường lờn hang lại cheo leo, luồn dưới những tỏn lỏ rừng. Đây lại chớnh là một trong những điểm làm nờn sức hấp dẫn cho hang, du khỏch khi lên thăm hang sẽ có được cỏi thỳ và cỏi hỏo hức của người leo nỳi. Hang Luồn: Cũng nằm trên đảo Bồ Hòn, cùng hệ thống với hang Sửng Sốt, hồ Động Tiên, hang Trinh Nữ... Hang Luồn thực chất là một hệ thống các đảo khép kín thông với biển bằng một cửa hang rộng chừng 4m, cao 3m và dài 100m [27]. Phía trước hang là hòn Con Rùa, bên phải là Cổng Trời, cửa hang nằm ở phía dưới sát với mép nước. Lòng hang chính là hồ nước lợ rộng chừng 1000m 2 [28]. Cách duy nhất để vào thăm hang là đi bằng thuyền nan nhỏ hoặc ca nô. Hang Trinh Nữ - Hang Trống: Nằm trên đảo Bồ Hòn, hai hang đối diện nhau chúng cùng nổi tiếng với tiếng dội rất giữa chúng và điều đó đã tạo ra sự gắn kết rất đặc biệt. Đến thăm hai hang này du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ quyến rũ của cảnh quan mà còn bị thu hút bởi câu chuyện về tình yêu, lòng chung thuỷ cuả chàng trai (hang Trống) và cô gái (hang Trinh Nữ). Chính truyền thuyết ấy là cái đã thổi hồn cho những khối đá rất vật chất ở đó và tạo ra sức hấp dẫn lớn đối với du khách như vậy. Hang Hanh: Nằm ở vị trí khá xa so với bến cảng du lịch Bãi Cháy (khoảng 20km), cách thị xã Cẩm Phả 9 km về phiá Tây, thuộc dãy núi đá Quang Hanh [28]. Khi tìm ra hang này người Pháp đã nói đó là con đường hầm, bởi nó chạy xuyên suốt dãy núi Quang Hanh, có hai cửa thông ra biển. Hang này có chiều dài 1300m [27], lại uốn khúc quanh co. Đây được coi là hang động dài và đẹp nhất vịnh Hạ Long. Để vào thăm hang phải đi vào lúc thuỷ triều xuống thấp nhất và tính toán chính xác được con nước nếu không dễ bị mắc kẹt trong hang. Bình thường một thuyền nhỏ ra vào hang mất Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 11 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long khoảng 60 – 90 phút. Trong hang rất tối và đẹp nên cần chuẩn bị đuốc hoặc đèn pin. Đây là điểm đến rất hấp dẫn đối với ai ưa mạo hiểm. Hang Bồ Nâu: Cách hòn Trống Mái 2 – 3km về phiá Đông Nam [27]. Hang có dạng hàm ếch, cửa hang rộng, thoáng lại ở vị trí khá thấp nên từ trên du thuyền du khách đã có thể bao quát được cả hang. Hang rộng khoảng 200m2 [27], phẳng, trần hang có nhiều vết nứt, hở nên ánh sáng mặt trời có thể rọi xuống, phía trước cửa hang có một hòn đảo khác nữa. Vì vậy hang lúc nào cũng rất sáng nhưng lại không bao giờ bị chói chang. Đã từ lâu hang được đánh giá là hang động có cửa hang đẹp nhất vịnh Hạ Long. Hồ Ba Hầm: Nằm trên đảo Đầu Bê, thuộc vịnh Lan Hạ. Đảo Đầu Bê thuộc nhóm đảo nằm ở ngoài cùng phiá Tây Nam vịnh Hạ Long, tiếp giáp với biển Long Châu [28]. Hồ Ba Hầm là một hệ thống gồm ba trũng biển hình tròn, thông với nhau qua một hang luồn hẹp uốn khúc quanh co. Mặc dù cách bờ 25km nhưng đã từ lâu đây đã là một điểm đến hấp dẫn cuả vịnh Hạ Long bởi vẻ đẹp khác biệt không chỉ của cảnh quan mà còn của hệ động thực vật. Đường vào hang khá giống với hang Luồn nhưng lại không dễ dàng như thế và đó chính là điều tạo nên cái thú cho khách thăm quan. Động Tam Cung: Nằm trên đảo Mây Đèn – một hòn đảo gần như cách biệt hoàn toàn với các đảo khác nhưng cũng thuộc vào khu đảo trung tâm cuả vịnh Hạ Long. Động cách hang Sửng Sốt 5km về hướng Đông Bắc. Sở dĩ có tên gọi là động Tam Cung vì động này được chia làm 3 ngăn với các khối nhũ đá, măng đá mang các hình thù rất tự nhiên và sống động. Động Mê Cung: Cách bãi tắm Ti Tốp 2km về phiá Tây Nam, nằm trên đảo Lờm Bò, ở độ cao 25m so với mực nước biển [27]. Cửa động rất hẹp chỉ có thể từng người đi qua, lòng động mở ra nhiều ngăn song vẫn nhỏ hẹp. Động Mê Cung được các nhà khoa học xác định là một di chỉ khảo cổ học thuộc nền văn hoá tiền Hạ Long thời sơ kỳ đồ đá mới, cách nay 7000 – 10000 Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 12 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long năm [27]. Gần đây người ta còn phát hiện ra bộ xương thú hoá thạch trong động, cửa động còn có một lớp ốc suối Melina đã kết tầng bán hoá thạch khá dày và dài làm nền. Vì vậy động không chỉ có giá trị về tài nguyên thiên nhiên mà còn có giá trị rất lớn về tài nguyên nhân văn và khảo cổ. Động Kim Quy: Động dài 100m, rộng 5 – 10m, trải dài theo hướng Bắc Nam. Nằm trên đảo Dầm Nam, đỉnh cao 187m, phiá trước là đảo Dầm Bắc, phía sau là đảo Soi Sim [28]. ở hang Đầu Gỗ người ta tìm thấy dấu tích của các mẩu gỗ trong trận điạ Bạch Đằng, còn tại nơi đây thiên nhiên lại tái tạo trận điạ ấy một cách sống động và chính xác bằng chất liệu đá và nước. 1.1.1.4.2 Bãi tắm Bãi Cháy: Là bãi tắm nhân tạo, rộng 100m, dài 500m, nằm sát bờ vịnh Hạ Long [27]. Hiện nay, bãi tắm đang do công ty cổ phần quốc Hoàng Gia quản lý. Đây là bãi tắm lâu đời nhất ở Hạ Long, nằm ngay bên đường quốc lộ, tiện đi lại nên cho đến nay đây vẫn là bãi tắm có lượng khách đông nhất ở Hạ Long. Ti Tốp: Cách Bãi Cháy 14km về phiá Đông. Bãi tắm có hình vầng trăng ôm gọn chân đảo Ti Tốp [27]. Tuy nhỏ song thoáng đãng, yên tĩnh, không gian đẹp, nước trong xanh nên có sức hấp dẫn rất lớn đối với du khách. Hiện nay, do lượng khách quá đông, những ngày trong thời vụ du lịch tàu chở khách neo đậu tràn lan ngay gần bãi tắm nên đã làm mất đi vẻ đẹp cảnh quan, gây ô nhiễm nguồn nước ở khu vực bãi tắm. Minh Châu: Nằm ở vị trí khá xa so với bến cảng du lịch Bãi Cháy, cách bãi tắm Quan Lạn 9 km. Bãi tắm nổi tiếng với bãi cát dài, trắng muốt, đi không dính chân. Để ra đến đây du khách có thể đi bằng thuyền tham quan vịnh từ bến tàu du lịch bãi Cháy cũng có thể xuất phát từ Cẩm Phả, qua phà Tài Xá, đến thị trấn Cái Rồng rồi đi thuyền ra Minh Châu. Nơi này nằm ở vị trí khá xa, ở phiá ngoài khu trung tâm du lịch trên vịnh Hạ Long nên lượng khách ít khi bị quá tải. Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 13 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long Ba Trái Đào: Cái tên Ba Trái Đào xuất phát từ ba bãi cát hình cánh cung ôm lấy chân của một cụm gồm 3 đảo. Ba đảo này có hình thù nhìn từ trên xuống, từ xa lại rất giống hình 3 trái đào tiên. Bãi tắm này mỗi ngày chỉ tắm được 2 – 3h, khi thủy triều xuống. Tuy thế vẫn có hàng năm vẫn có hàng triệu lượt khách đến tắm ở đây. Điều này cũng đủ chứng tỏ sức hấp dẫn và vẻ đẹp của bãi tắm này. Quan Lạn: Nằm trên đảo Quan Lạn, thuộc vịnh Bái Tử Long, ở giữa hai xã Minh Châu và Quan Lạn, huyện Vân Đồn. Đây là bãi tắm còn khá nguyên sơ, cách thành phố Hạ Long 25km [27]. Bãi tắm rộng và dài, cát trắng dài vài km, ngay sát mép nước lại là rặng dứa dại, gần đấy là rặng phi lao ngút ngàn. Ngọc Vừng: Nằm ở phía Nam đảo Ngọc Vừng, cách bến tàu du lịch Bãi Cháy 34 km về phía Đông Nam [27]. Là một bãi tắm xa bờ, rất rộng, dài khoảng 3 km, còn rất hoang sơ, có rất ít khách du lịch đến đây. Hầu hết các bãi tắm ở Hạ Long là nhân tạo hoặc được các nhà đầu tư bồi thêm cát, còn ở Ngọc Vừng bãi tắm là hoàn toàn tự nhiên. Tuần Châu: Là bãi tắm hoàn toàn nhân tạo, dài khoảng 2 km, nằm trên đảo Tuần Châu, cách bến tàu du lịch khoảng 8 km [27]. Hiện nay Tuần Châu đã được các nhà đầu tư cơ bản hoàn thiện các hạ tầng cơ sở. Con đường nối bờ với đảo đã hoàn thiện và đã được đưa vào sử dụng vài năm nay. Điều này đã tạo rất nhiều thuận lợi cho du khách song lại là vấn đề nhức nhối đối với hoạt động bảo vệ môi trường và hệ sinh thái biển. 1.1.1.5 Các hệ sinh thái Vịnh Hạ Long là một biển đảo được bao bọc bởi các dải ven bờ thuộc các huyện Yên Hưng, Hoành Bồ, Hạ Long, Tiên Yên, Cẩm Phả, Móng Cái và một phần huyện đảo Cát Bà. Mặt vịnh có rất nhiều đảo đá lớn nhỏ tạo thành các tùng, áng, vũng. Ven bờ và các vùng lân cận là cửa của hàng chục con sông lớn nhỏ đổ ra vịnh rồi đi ra biển Đông đã tạo ra vô số luồng lạch và bãi Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 14 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long triều rộng lớn. Đây là khu vực nước lợ giàu dinh dưỡng, là nguồn thức ăn lớn và là điều kiện tốt cho các hệ sinh thái biển tồn tại và phát triển. Về giá trị đa dạng sinh học ở vịnh Hạ Long có thể chia thành hai hệ sinh thái lớn: hệ sinh thái rừng thường xanh nhiệt đới, hệ sinh thái biển và ven bờ 1.1.1.5.1 Hệ sinh thái rừng thường xanh nhiệt đới Phân bố ở các đảo trên vịnh Hạ Long. Tổng số loài thực vật sống trên đảo chưa được xác định nhưng có lẽ con số sẽ rất lớn. Tuy nhiên mức độ tập trung lại rất thấp. Một số quần xã các loài thực vật đã được phát hiện gồm: các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi, cửa hang hay khe đá [7, 23]. Theo thống kê năm 2003 của các nhà khoa học, thực vật Hạ Long có 435 loài với 416 loài mộc lan, 14 loài dương xỉ, 2 loài thông đất, 2 loài thông hạt trần, ngành lá thông 1 loài. Động vật có 4 loài lưỡng cư, 8 loài bò sát, 76 loài chim và 22 loài thú [7, 24]. Đặc biệt, ở Hạ Long đã phát hiện được 13 loài thực vật đặc hữu như: Khổ Cử Đại Nhung, Móng Tai Hạ Long, Lan Tím.... [7, 23] 1.1.1.5.2 Hệ sinh thái biển và ven bờ Bao gồm hệ sinh thái đất ướt và hệ sinh thái biển. Đến nay, các nhà khoa học đã xác định được 315 loài cá, 545 loài động vật không xương sống đáy, 234 loài san hô, 411 loài sinh vật phù du, 139 loài rong biển, 5 loài cỏ biển và 28 loài thực vật ngập mặn [7, 24]. Hệ sinh thái đất ướt Gồm 6 hệ sinh thái:  Hệ sinh thái vùng triều và ngập mặn: Là nơi sinh sống của nhiều loài sinh vật khác nhau, mang năng suất sinh học cao.  Hệ sinh thái đáy cứng, rạn san hô: Là hệ sinh thái mang năng suất sinh học cao và là bộ lọc giúp làm sạch môi trường. Hiện ở Hạ Long phát Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 15 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long hiện có 234 loài san hô. Rạn san hô này là nơi sinh sống của 155 loài cá biển, 230 loài thân mềm, 77 loài giáp xác, 129 loài rong biển, 11 loài hải miên v.v [7, 25]  Hệ sinh thái hang động và Tùng, áng: Theo định nghĩa của các nhà khoa học, áng là các hồ chứa nước, nằm giữa đảo; còn Tùng là vùng nước có một cửa tương đối kín, ít sóng [7, 25]. Hiện ở khu vực vịnh Hạ Long – Cát Bà có 57 Tùng (riêng vịnh Hạ Long có 19 Tùng) và 62 áng với diện tích và số lượng cụ thể như sau: Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 16 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long Bảng 1: Phân loại áng ở khu vực Hạ Long - Cát Bà STT Diện tích (ha) Số lượng Tỷ lệ (%) 1 <1 7 2 1–5 38 3 5 – 10 10 4 10 – 15 4 5 15 – 20 1 6 20 – 25 1 7 25 – 30 1 Tổng 62 Nguồn: Phân viện Hải dương học - Hải Phòng 11,3 61,3 16,1 6,5 1,6 1,6 1,6 100 Bảng 2: Phân loại tùng ở khu vực Hạ Long - Cát Bà STT 1 Diện tích (ha) 1–5 Số lượng 11 Tỷ lệ (%) 19,3 2 5 – 15 28 49,1 3 15 – 25 7 12,2 4 25 – 35 3 5,3 5 35 – 45 3 5,3 6 45 – 55 2 3,5 3 57 5,3 100 7 >55 Tổng Nguồn: Phân viện Hải dương học tại Hải Phòng  Hệ sinh thái đáy mềm: Là hệ sinh thái của quần xã cỏ biển. Chúng có tác dụng chắn sóng và tham gia hấp thụ các chất hữu cơ làm sạch môi trường biển. Hiện đã thống kê được 17 loài rong biển, 25 loài động vật phù du, 76 loài động vật đáy 3 loài giun nhiều tơ; 29 loài nhuyễn thể; 9 loài giáp xác... [7, 25 - 26]. Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 17 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long  Hệ sinh thái bãi triều không có rừng ngập mặn: Thường phân bố ở đới triều thấp, là nơi sinh sống của động vật nhuyễn thể hai mảnh vỏ và giun biển có giá trị như sá sùng, hải sâm, ngao, sò... [7, 26].  Hệ sinh thái nhân tạo: Là điều kiện sinh thái do con người tạo ra nhằm mục đích phát triển kinh tế, qua đó đã làm thay đổi một số nguồn gen tự nhiên để tạo ra năng suất cao hơn. Hệ sinh thái biển Hệ sinh thái biển bao gồm:  Thực vật phù du: Là thực vật nhỏ sống trôi nổi trong nước, có thể tự dưỡng trong quá trình quang hợp. ở vịnh Hạ Long, các nhà khoa học đã thống kê được 278 loài [7, 27].  Động vật phù du: Là động vật nhỏ sống trôi nổi trong nước. Theo kết qủa điều tra của Viện Tài nguyên và Môi trường biển thì vùng biển Hạ Long – Cát Bà có 133 loài động vật phù du [7, 27].  Động vật đáy: Là nhóm động vật sống ở đáy biển. Tính đến năm 2003, các nhà nghiên cứu đã thống kê được 545 loài động vật đáy ở vịnh Hạ Long với 4 nhóm chính: Động vật thân mềm (261 loài), giun nhiều tơ (145 loài), giáp xác (113 loài) và nhóm da gai (26 loài) [7, 27].  Động vật tự du: Là động vật hoàn toàn tự chủ bơi lội trong nước, di cư kiếm mồi, sinh sản và trú đông. Đến nay người ta đã xác định được 328 loài động vật tự du, trong đó có 315 loài cá, 10 loài bò sát và 3 loài thú biển [7, 28]. 1.1.2 Tài nguyên du lịch nhân văn 1.1.2.1 Các di chỉ khảo cổ Quảng Ninh núi chung và Hạ Long nói riêng là nơi có nền văn hoá lâu đời và liờn tục. Đây được coi là một trong những nụi sinh sống của người Việt cổ Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 18 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long thuộc hậu kỡ đồ đá mới cách nay 22000 – 25000 năm với một quỏ trỡnh phỏt triển liờn tục với ba nền văn hoá kế tiếp với những di chỉ khảo cổ nổi tiếng: 1.1.2.1.1 Văn hoá Soi Nhụ (cách nay 18000 – 7000 năm) Phõn bố chủ yếu trong khu vực các đảo đá vôi thuộc vịnh Hạ Long và Bỏi Tử Long, ngoài ra cũn phõn bố ở các hang động ven bờ. Cỏc dấu tớch loài hàu lớn ở đây đó chứng tỏ rằng: so với văn hóa Hoà Bỡnh – Bắc Sơn cùng thời, người Soi Nhụ đó cú mụ hỡnh văn hoá đa dạng và phong phú hơn bởi ngoài các phương thức kiếm sống khác, cư dân ở đây cũn cú thờm yếu tố biển. 1.1.2.1.2 Văn hoá Cái Bèo (cách nay 7000 – 5000 năm) Cỏc di chỉ của nền văn hoá này phân bố trờn bờ cỏc vùng vịnh kớn giú tựa vào nỳi mà chủ yếu là núi đá vôi. Phương thức kiếm sống của người Cái Bèo là định hướng khai thỏc biển cựng với săn bắn, hái lượm trờn cạn. Trỡnh độ chế tác đồ gốm cũn đơn giản, thụ sơ. Đặc biệt, người Cái Bèo đó khai thỏc biển cả bằng giao lưu, trao đổi trờn biển. 1.1.2.1.3 Văn hoá Hạ Long (cách nay 4500 – 3500 năm) - Giai đoạn sớm của văn hóa Hạ Long (giai đoạn Thoi Giếng): Phương thức sống của cư dân giai đoạn Thoi Giếng là săn bắn và hái lượm. Nghệ thuật chế tỏc cụng cụ lao động và đồ gốm đó tinh xảo hơn. - Giai đoạn muộn của văn hóa Hạ Long: Trong giai đoạn này, người Hạ Long cư trú trên những khu vực bị biển ngăn cách thành đảo, họ đó hoàn toàn là cư dân của biển, kĩ thuật chế tác đó trở thành đặc trưng của văn hoá Hạ Long. Vỡ thế giai đoạn này cú một vị trí đặc biệt đối với nền văn minh Việt Cổ. 1.1.2.2 Di tích lịch sử và lễ hội ở Quảng Ninh có rất nhiều di tích lịch sử và lễ hội nổi tiếng với nhiều quy mô khác nhau đã và đang thu hút được nhiều khách thập phương. Tuy nhiên, tính riêng khu vực vịnh Hạ Long yếu tố tài nguyên này rất ít mà hầu Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 19 Khoa Du lịch học Giải pháp thu hút khách cho các tuyến tham quan mới trên vịnh Hạ Long hết lại ở dạng quy mô nhỏ và ở vị trí xa khu vực trung tâm vịnh. Đây chính là một sự thiếu sót về mặt tài nguyên song cũng không làm giảm đi sức hấp dẫn của vịnh Hạ Long. 1.1.2.3 Các đối tượng tài nguyên du lịch nhân văn khác Đến với Hạ Long, ngoài việc tham quan ngắm cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tươi đẹp du khách còn có cơ hội tìm hiểu nét văn hoá đặc biển của cư dân biển. Làng chài Cửa Vạn là nơi tập trung rất nhiều cư dân biển, những người từ lâu đã coi thuyền là nhà, biển là quê. Ngoài ra, du khách còn được thưởng thức các đặc sản biển như rượu ngán, canh hà, cháo hà, chả mực, sá sùng, các loài hải sản tươi sống khác... Vịnh Hạ Long khụng chỉ cú nền văn hoá lâu đời mà tại đây đó ghi dấu bao sự kiện lịch sử trong quỏ trỡnh dựng nước và giữ nước của dõn tộc. Trong suốt một thời gian dài từ thời Lý, Trần, Lê ... Vân Đồn đó nổi tiếng là một thương cảng sầm uất và là một điểm giao lưu văn hoá phồn thịnh. Vịnh Hạ Long cũn là nơi chứng kiến ba trận thắng oanh liệt của quõn và dõn ta trờn sụng Bạch Đằng dưới sự chỉ huy của ba anh hựng dõn tộc là Ngụ Quyền (938), Lờ Hoàn (981) và Trần Hưng Đạo (1288). Trong hai cuộc khỏng chiến chống Phỏp và chống Mỹ quõn dõn Quảng Ninh đó chiến đấu hết mỡnh gúp phần bảo vệ hoà bỡnh cho Tổ quốc. Ngày nay, bờn vịnh Hạ Long cú 21 dõn tộc anh em với những phong tục tập quán khác nhau đang cùng sinh sống. Những phong tục tập quán của họ chớnh là văn hoá phi vật thể của dõn tộc. Ngoài ra, vịnh Hạ Long cũn gần với những di tớch lịch sử văn hoá khác như quần thể di tớch Yờn Tử, núi Bài Thơ, đền Cửa ễng, bói cọc Bạch Đằng, chựa Lấm... Với vị trí địa lý như thế cũng cú thể coi là một tiềm năng du lịch. 1.2 Nguồn nhân lực làm việc trên vịnh Hạ Long Do đặc thù là một điểm đến nên nguồn nhân lực làm việc trên vịnh Hạ Long nên ngoài số lao động cơ hữu của Ban Quản lý vịnh Hạ Long còn có Nguyễn Thị Thu Hằng – CH 3 20 Khoa Du lịch học
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan