Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giái pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các ...

Tài liệu Giái pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các vùng kinh tế việt nam

.DOC
44
27
115

Mô tả:

Kể từ năm 1987, khi Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật đầu tư nước ngoài. Bằng đạo luật này một phạm trù kinh tế hoàn toàn mới mẻ đã hình thành, phát triển và trở thành một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế Việt Nam đương đại. Việt Nam chính thức mở cửa tiếp nhận các khoản đầu tư từ bên ngoài, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, từng bước khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp một phần không nhỏ vào thành công chung của công cuộc đổi mới đất nước. Biểu hiện sinh động là trong những năm đầu, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta có tốc độ gia tăng rất cao. Kết quả thu được từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam vượt qua khủng hoảng kinh tế, bước sang giai đoạn tăng trưởng và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao hơn các quốc gia khác trong khu vực trong thời kỳ diễn ra khủng hoảng tiền tệ ở khu vực châu Á. Bên cạnh đó, đầu tư nước ngoài tại Việt Nam còn trực tiếp tạo ra việc làm cho hàng chục vạn lao động với mức thu nhập không nhỏ. Song song với các hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là hàng loạt các ngành nghề kinh tế khác cùng phát triển theo. Tuy nhiên, những hạn chế của hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam không phải là nhỏ. Con số thống kê cho thấy từ năm 1997 – 2000 và giai đoạn từ cuối năm 2008 trở lại đây đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm. Hoạt động của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đặt ra nhiều vấn đề phải xem xét lại về hình thức tổ chức và cách quản lý. Số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thua lỗ chiếm tỷ lệ không nhỏ. Bên Việt Nam trong một số liên doanh không những không tăng được tỷ lệ cổ phần của mình mà còn kinh doanh thua lỗ đến mất cả vốn góp phải rút khỏi liên doanh. Những vấn đề về chuyển giao công nghệ và bảo vệ môi trường, về sử dụng nguồn lao động... Vì vậy, việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp để thu hút và sử dụng FDI một cách 1 hiệu quả là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng và cần thiết đối với phát triển kinh tế. Việc này đòi hỏi phải nhìn nhận theo nhiều hướng, trong đó không thể thiếu chiến lược quy hoạch FDI theo các vùng kinh tế. Với mong muốn đóng góp một số giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy phát triển kinh tế dựa trên khai thác hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đề tài: “Giái pháp tăng cường thu hút vôn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các vùng kinh tế Việt Nam” được chọn làm đề tài nghiên cứu chuyên ngành Kinh tế quốc tế. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu về tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là trên phương diện quy hoạch FDI theo vùng kinh tế, kết hợp với kinh nghiệm của một số nước để đưa ra cái nhìn tổng quan nhất về vấn đề thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển kinh tế. Từ đó, đề xuất giải pháp để tăng cường hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI vào phát triển các vùng kinh tế của Việt Nam. 3, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối tượng Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các vùng kinh tế Việt Nam từ sau đổi mới năm 1987, lấy 8 vùng kinh tế trọng điểm làm ví dụ điển hình trong phân tích. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài đi sâu nghiên cứu quá trình thu hút và sử dụng vốn FDI của Việt Nam qua hơn 20 năm đổi mới, chủ yếu tập trung vào phân tích chi tiết tại 8 vùng kinh tế trọng điểm cả nước. 4. Phương pháp nghiên cứu 2 Đề tài sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và thực tiễn nhằm khái quát vấn đề lý luận. 5. Kết cấu đề tài Đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các vùng kinh tế Việt Nam thời gian qua. Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển các vùng kinh tế ở Việt Nam. II. Nội dung Chương 1 TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ VÀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Trong xu thế toàn cầu hoá với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng như hiện nay, hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nền kinh tế Việt Nam cũng là một bộ phận của kinh tế thế giới và không nằm ngoài xu hướng chung này. Do vậy để có một cái nhìn tổng thể, khai thác được những mặt tích cực và hạn chế được những mặt tiêu cực của đầu tư nước ngoài nhằm thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH), đòi hỏi phải nghiên cứu vấn đề này một cách thấu đáo. 1.1.1 Đầu tư và phân loại đầu tư: a/Khái niệm và đặc điểm: Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên trong một thời gian tương đối dài nhằm thu được lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế- xã hội. Vốn đầu tư bao gồm: - Tiền tệ các loại: nội tệ, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý.. - Hiện vật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên, hàng hoá, nhà xưởng.. 3 - Hàng hoá vô hình: Sức lao động, công nghệ, thông tin, bằng phát minh, quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, dịch vụ, uy tín hàng hoá... - Các phương tiện đặc biệt khác: cổ phiếu, hối phiếu, trái phiếu, các chứng từ có giá khác. Đặc điểm của đầu tư: - Tính sinh lợi: Đầu tư là hoạt động tài chính ( đó là việc sử dụng tiền vốn nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu ). - Thời gian đầu tư thường tương đối dài. - Đầu tư mang tính rủi ro cao: Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn trong hiện tại nhằm thu được lợi ích trong tương lai. Mức độ rủi ro càng cao khi nhà đầu tư bỏ vốn ra nước ngoài. b. Phân loại đầu tư. - Theo phạm vi quốc gia: + Đầu tư trong nước. + Đầu tư ngoài nước. - Theo thời gian sử dụng: + Đầu tư ngắn hạn. + Đầu tư trung hạn. + Đầu tư dài hạn. - Theo lĩnh vực kinh tế: + Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. + Đầu tư vào sản xuất công nghiệp. + Đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. + Đầu tư khai khoáng, khai thác tài nguyên. + Đầu tư vào lĩnh vực thương mại - du lịch - dịch vụ. + Đầu tư vào lĩnh vực tài chính. - Theo mức độ tham gia của chủ thể quản lý đầu tư vào đối tượng mà mình bỏ vốn: + Đầu tư trực tiếp. + Đầu tư gián tiếp. Trên thực tế, người ta thường phân biệt hai loại đầu tư chính: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Cách phân loại này liên quan đến việc tiếp nhận, quản lý và sử dụng vốn đầu tư. * Đầu tư gián tiếp: là hình thức mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn không phải là một. Người bỏ vốn không đòi hỏi thu hồi lại vốn ( viện trợ không 4 hoàn lại ) hoặc không trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, họ được hưởng lợi tức thông qua phần vốn đầu tư. - Đầu tư trực tiếp: là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người sử dụng vốn. Nhà đầu tư đưa vốn ra nước ngoài để thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh, làm chủ sở hữu, tự quản lý, điều hành hoặc thuê người quản lý, hoặc hợp tác liên doanh với đối tác nước sở tại để thành lập cơ sở sản xuất kinh doanh nhằm mục đích thu được lợi nhuận. 1.1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment- FDI). Xuất phát từ nhiều khía cạnh, góc độ, quan điểm khác nhau trên thế giới đã có rất nhiều khái niệm khác nhau về FDI. - Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) (1977): "Đầu tư trực tiếp nước ngoài ám chỉ số đầu tư được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một hãng hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư, mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong công việc quản lý hãng đó". - Theo Hiệp hội Luật quốc tế Henxitiky (1996 ) Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhằm xây dựng ở đó những xí nghiệp kinh doanh hay dịch vụ. - Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi, ban hành 12/11/1996, tại Điều 2 Chương 1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư theo quy định của luật này. Như vậy, mặc dù có rất nhiều quan điểm khác nhau khi đưa ra khái niệm về FDI, song ta có thể đưa ra một khái niệm tổng quát nhất, đó là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư. Trong đó nhà đầu tư nước ngoài có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của Luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. 1.1.3. Đặc điểm của FDI và môi trường FDI tại Việt Nam a. Đặc điểm FDI - Hoạt động FDI không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận đầu tư mà còn có 5 cả công nghệ, kỹ thuật, bí quyết kinh doanh, sản xuất, năng lực Marketing, trình độ quản lý... - Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một lượng vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài ở từng nước, để họ có quyền trực tiếp tham gia điều hành, quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. Chẳng hạn, ở Việt Nam theo điều 8 của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định: ”Số vốn đóng góp tối thiểu của phía nước ngoài phải bằng 30% vốn pháp định của dự án” (Trừ những trường hợp do Chính phủ quy định). - Quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phụ thuộc vào vốn góp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài càng cao thì quyền quản lý, ra quyết định càng lớn. - Quyền lợi của các nhà ĐTNN gắn chặt với dự án đầu tư: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quyết định mức lợi nhuận của nhà đầu tư. Sau khi trừ đi thuế lợi tức và các khoản đóng góp cho nước chủ nhà, nhà ĐTNN nhận được phần lợi nhuận theo tỷ lệ vốn góp trong vốn pháp định. - Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài thường là các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia ( chiếm 90% nguồn vốn FDI đang vận động trên thế giới ). Thông thường các chủ đầu tư này trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp và đưa ra những quyết định có lợi nhất cho họ. - Nguồn vốn FDI được sử dụng theo mục đích của chủ thể ĐTNN trong khuôn khổ luật Đầu tư nước ngoài của nước sở tại. Nước tiếp nhận đầu tư chỉ có thể định hướng một cách gián tiếp việc sử dụng vốn đó vào những mục đích mong muốn thông qua các công cụ như: thuế, giá thuê đất, các quy định để khuyến khích hay hạn chế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một lĩnh vực, một ngành nào đó. - Mặc dù FDI vẫn chịu sự chi phối của Chính Phủ song có phần ít lệ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các bên tham gia hơn so với ODA. - Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ nước ngoài cho nước chủ nhà, bởi nhà ĐTNN chịu trách nhiệm trực tiếp trước hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. b. Môi trường FDI tại Việt Nam. Nước ta mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài muộn hơn các nước trong khu vực, hệ thống luật đầu tư nước ngoài ra đời muộn hơn nhưng tương đối đầy đủ và không kém phần hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Luật đầu tư 6 nước ngoài của Việt Nam được ban hành từ năm 1987, đây là một mốc quan trọng đánh dấu quá trình mở cửa nền kinh tế, đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ đối ngoại của nước ta. Luật đầu tư nước ngoài được ban hành dựa trên kinh nghiệm và luật pháp của một số nước phát triển cùng với các điều kiện và đặc điểm của Việt Nam. Từ khi ra đời đến nay luôn được sự quan tâm nghiên cứu, sửa đổi hoàn thiện đảm bảo tính linh họat phù hợp với bối cảnh thực tiễn. Cùng với luật đầu tư cho tới nay có tới trên 1100 văn bản dưới luật quy định và hướng dẫn thưc hiện luật đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư nước ngoài của ta được đánh giá là đạo luật thông thoáng, cởi mở bảo đảm cho nhà đầu tư nước ngoài an toàn về đầu tư và tự do kinh doanh. Luật vừa phù hợp với tình hình nước ta và thích ứng với hệ thống thông lệ quốc tế. Do đó đã có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó các bộ các ngành liên quan đã có những thông tư hướng dẫn nhằm cải thiện môi trường đầu tư và đã có những thay đổi hợp lý làm tăng tính hấp dẫn đầu tư. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam dưới các hình thức sau: - Doanh nghiệp liên doanh - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh - Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng chuyển giao – kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT). 1.2. VÌ SAO PHẢI CHÚ TRỌNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỂ PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ Trước hết FDI là nguồn bổ sung vốn đầu tư, giải quyết tình trạng thiếu vốn ở các nước đang phát triển. Khi có FDI ⇒ Đầu tư tăng ⇒ Quy mô sản xuất, hiệu quả sản xuất tăng ⇒ ⇒ Tích luỹ tăng ⇒ Tạo đà phát triển cho giai đoạn sau. FDI sẽ góp phần tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, ổn định đời sống dân cư: + Khi chưa có FDI : Đầu tư thấp ⇒ quy mô SX nhỏ ⇒ Sử dụng ít lao động ⇒ thất nghiệp + Khi có FDI : Đầu tư tăng ⇒ quy mô SX tăng ⇒ Sử dụng nhiều lao động, tạo nhiều việc làm ⇒ Giảm thất nghiệp 7 Tăng thu nhập dân cư. FDI sẽ kích thích quá trình sản xuất. FDI sẽ cải thiện cán cân thanh toán, do khoản mục vốn tăng thêm, mặt khác đầu tư trực tiếp nước ngoài thường hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất xuất khẩu do đó giảm chi ngoại tệ và tăng thu ngoại tệ từ hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy sẽ làm cán cân thanh toán dịch chuyển theo chiều thặng dư. FDI đẩy nhanh quá trình tiếp nhận công nghệ ở nước tiếp nhận đầu tư : Với hình thức này nước tiếp nhận có điều kiện tiếp nhận công nghệ mới và tận dụng được các công nghệ hạng hai đã lỗi thời ở nước đối tác nhưng còn tiên tiến hơn so với công nghệ trong nước với chi phí thấp, tiết kiệm được thời gian nghiên cứu, có điêù kiện đi tắt đón đầu rút ngắn khoảng cách về mặt bằng công nghệ kỹ thuật. Thông qua FDI nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thể giới. Bởi vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty đa quốc gia thực hiện mà các công ty này có lợi thể về việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở những thanh thế và uy tín của họ về chất lượng, kiểu dáng của sản phẩm và việc giữ đúng thời hạn... Thông qua FDI, nước tiếp nhận học hỏi được kinh ngiệm kinh doanh, nâng cao hiệu quả quản lý, và tác phong lao động của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra FDI còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các nước đang phát thiển như Việt Nam thường có cơ cấu kinh tế bất hợp lý, chủ yếu phát triển khu vực một do không có nhiều vốn. Vi vây FDI sẽ cung cấp vốn để đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý hơn, dần dần mang tính chất của một nền kinh tế phát triển. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI VIỆC THU HÚT FDI VÀO CÁC VÙNG KINH TẾ. 1.3.1. Môi trường chính trị-xã hội. Sự ổn định chính trị - xã hội có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Tình hình chính trị không ổn định dẫn tới lợi ích của các nhà ĐTNN bị giảm nên lòng tin của các nhà đầu tư giảm sút. Mặc khác, khi tình hình chính trị - xã hội không ổn định, Nhà nước không đủ khả năng kiểm soát hoạt động của các nhà ĐTNN, hậu quả là các nhà đầu tư hoạt động theo mục đích riêng, không theo định 8 hướng chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của nước nhận đầu tư. Do đó hiệu quả sử dụng vốn FDI rất thấp. 1.3.2. Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô. Đây là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Điều này đặc biệt quan trọng đối với việc huy động và sử dụng vốn nước ngoài. Để thu hút được FDI, nền kinh tế địa phương phải là nơi an toàn cho sự vận động của vốn đầu tư, và là nơi có khả năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Hơn nữa phải giữ được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định thì mới có điều kiện sử dụng tốt FDI. 1.3.3. Hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện, bộ máy quản lý nhà nước có hiệu quả. Môi trường pháp luật là bộ phận không thể thiếu đối với hoạt động FDI. Một hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện và vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố tạo nên môi trường kinh doanh thuận lợi, định hướng và hỗ trrợ cho các nhà ĐTNN. Vấn đề mà các nhà ĐTNN quan tâm là: - Môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền sở hữu tài sản tư nhân được pháp luật bảo đảm. - Quy chế pháp lý của việc phân chia lợi nhuận, quyền hồi hương lợi nhuận đối với các hình thức vận động cụ thể của vốn nước ngoài. - Quy định về thuế, giá, thời hạn thuê đất... (Bởi yếu tố này tác động trực tiếp đến giá thành sản phẩm và tỷ suất lợi nhuận). Nếu các quy định pháp lý bảo đảm an toàn về vốn của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá khi hoạt động đầu tư không phương hại đến an ninh quốc gia, bảo đảm mức lợi nhuận cao và việc di chuyển lợi nhuận về nước thuận tiện thì khả năng thu hút FDI càng cao. Do vậy, hệ thống pháp luật phải thể hiện được nội dung cơ bản của nguyên tắc: Tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi và theo thông lệ quốc tế. Đồng thời phải thiết lập và hoàn thiện định chế pháp lý tạo niềm tin cho các nhà ĐTNN. Bên cạnh hệ thống văn bản pháp luật thì nhân tố quyết định pháp luật có hiệu lực là bộ máy quản lý nhà nước. Nhà nước phải mạnh với bộ máy quản lý gọn nhẹ, cán bộ quản lý có năng lực, năng động, có phẩm chất đạo đức. Việc quản lý các dự án FDI phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến sự phát triển chung của nền kinh tế và xã hội. 1.3.4. Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật. 9 Kết cấu hạ tầng kỹ thuật là cơ sở để thu hút FDI và cũng là nhân tố thúc đẩy hoạt động FDI diễn ra nhanh chóng, có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đây là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư trước khi ra quyết định. Hệ thống thông tin liên lạc, mạng lưới giao thông, năng lượng, hệ thống cấp thoát nước, các cơ sở dịch vụ tài chính ngân hàng... tạo điều kiện cho các dự án FDI phát triển thuận lợi. Mức độ ảnh hưởng của mỗi nhân tố này phản ánh trình độ phát triển của mỗi quốc gia và tạo môi trường đầu tư hấp dẫn.Trong quá trình thực hiện dự án, các nhà đầu tư chỉ tập trung vào sản xuất kinh doanh, thời gian thực hiện các dự án được rút ngắn, bên cạnh đó việc giảm chi phí cho các khâu vận chuyển, thông tin...sẽ làm tăng hiệu quả đầu tư. 1.3.5. Hệ thống thị trường đồng bộ, chiến lược phát triển hướng ngoại. Hoạt động kinh doanh muốn đem lại hiệu quả cao thì phải diễn ra trong môi trường thuận lợi, có đầy đủ các thị trường: thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường hàng hoá - dịch vụ...Các nhà ĐTNN tiến hành sản xuất kinh doanh ở nước chủ nhà nên đòi hỏi ở nước này phải có một hệ thống thị trường đồng bộ, đảm bảo cho hoạt động của nhà đầu tư được tồn tại và đem lại hiệu quả. Chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại là thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu. Mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh với các quốc gia khác tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mai, chiếm được lòng tin của các nhà đầu tư. 1.3.6 Trình độ quản lý và năng lực của người lao động. Nguồn lao động vừa là nhân tố để thu hút vừa là nhân tố sử dụng có hiệu quả FDI. Bởi con người có khả năng hợp tác kinh doanh cao, trình độ lao động phù hợp với yêu cầu, năng lực quản lý cao thì sẽ tạo ra năng suất cao. Bên cạnh đó, các nhà ĐTNN sẽ giảm một phần chi phí đào tạo và bớt được thời gian đào tạo nên tiến độ và hiệu quả của các dự án sẽ đạt mục tiêu đề ra. Trình độ thấp kém sẽ làm cho nước chủ nhà thua thiệt, đặc biệt là ở các khâu của quá trình quản lý hoạt động FDI. Sai lầm của các cán bộ quản lý nhà nước có thể làm thiệt hại về thời gian, tài chính cho nhà ĐTNN và cho nước chủ nhà. Vì vậy, nước chủ nhà phải tích cực nâng cao trình độ dân trí của người lao động để không chỉ có nâng cao khả năng tiếp cận công nghệ, kỹ thuật tiên tiến mà còn nâng cao kỹ thuật quản lý kinh tế. 1.3.7 Tình hình kinh tế - chính trị trong khu vực và trên thế giới. 10 Tình hình này tác động đến không chỉ các nhà đầu tư đang tìm kiếm đối tác, mà còn tới cả các dự án đang triển khai. Khi môi trường kinh tế chính trị trong khu vực và thế giới ổn định, không có sự biến động khủng hoảng thì các nhà dầu tư sẽ tập trung nguồn lực để đầu tư ra bên ngoài và các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu hút được nhiều vốn FDI. Ngược lại, khi có biến động thì các nguồn đầu vào và đầu ra của các dự án thường thay đổi, các nhà đầu tư gặp khó khăn rất nhiều về kinh tế nên ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả FDI. Sự thay đổi về các chính sách của nước chủ nhà để phù hợp với tình hình thực tế, đòi hỏi các nhà ĐTNN phải có thời gian tìm hiểu và thích nghi với sự thay đổi đó. Hơn nữa, tình hình của nước đầu tư cũng bị ảnh hưởng nên họ phải tìm hướng đầu tư mới dẫn đến thay đổi chiến lược ĐTNN của họ. 1.4 KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC THU HÚT FDI THEO VÙNG KINH TẾ 1.4.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc Trung Quốc có thể nói là nền kinh tế thành công nhất trong việc xây dựng các đặc khu kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư. Mục tiêu xây dựng các đặc khu kinh tế của Trung Quốc là thu hút công nghệ tiên tiến của nước ngoài, nâng cao trình độ kỹ thuật, thúc đẩy xuất khẩu và mở rộng quan hệ với nước ngoài, phát triển kinh tế trong nước. Các nhà đầu tư khi vào sản xuất kinh doanh tại các đặc khu kinh tế (Thâm Quyến, Sán Đầu, Chu Hải, Hạ Môn và Hải Nam) được hưởng chế độ đặc biệt. Tùy theo đặc điểm và vị trí địa lý của từng đặc khu mà Trung Quốc có các chiến lược phát triển và chính sách ưu đãi khác nhau. Ví dụ, đặc khu Thâm Quyến, do liền kề với Hồng Công, nên rất thuận lợi cho phát triển công nghiệp. ở đây, nếu các doanh nghiệp sản xuất những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao thì sẽ được miễn thuế sử dụng đất trong 5 năm đầu và giảm 50% trong những năm tiếp theo. Hoặc như ở đặc khu Chu Hải, nếu các doanh nghiệp có vốn FDI đang áp dụng công nghệ cao hoặc các doanh nghiệp có lợi nhuận thấp thì được miễn trả tiền thuê đất. Các đặc khu kinh tế này được trao quyền giống như chính quyền cấp tỉnh trong việc điều tiết kinh tế và ban hành các văn bản quy định điều chỉnh. Với những chính sách đầu tư thông thoáng, linh hoạt cùng với nguồn lao động dồi dào, nhân công rẻ và có chất lượng, các đặc khu kinh tế của Trung Quốc đã thu hút được một số lượng rất lớn các nhà đầu tư nước ngoài. Hệ quả tất yếu là FDI vào trong nước tăng, trang thiết bị được nâng cấp hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến trong hoạt động kinh tế được cập nhật, mức sống của người dân tại các đặc khu 11 này được nâng cao. Đây là bài học kinh nghiệm đối với các vùng kinh tế khác ở Trung Quốc cũng như các nước khác trong việc thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư. 1.4.2. Kinh nghiệm của Đài Loan Đài Loan (TQ) là một ví dụ thành công về xây dựng các khu công nghiệp thu hút FDI tại châu á. Vào đầu những năm 1950-1960, Đài Loan chủ trương phát triển các ngành công nghiệp nhẹ sản xuất hàng hóa tiêu dùng, xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động. Trong các khu công nghiệp, hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ được xây dựng tập trung; các xí nghiệp này được hưởng ưu đãi về thuế, tiền thuê đất và đặc biệt là thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Việc quản lý các khu công nghiệp tại Đài Loan được thực hiện trên cơ sở phân cấp, chính quyền trung ương chỉ quản lý các khu công nghiệp quan trọng có vai trò định hướng dẫn dắt nền kinh tế, còn lại giao cho địa phương và tư nhân quản lý. Chính vì vậy, các nhà đầu tư nước ngoài khi vào đầu tư tại các khu công nghiệp không vấp phải nhiều rào cản về mặt hành chính, thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Trong giai đoạn hiện nay, trước xu thế FDI chuyển hướng vào các ngành công nghệ cao, chính quyền Đài Loan cũng có những thay đổi kịp thời trong chính sách phát triển khu công nghiệp. Các khu công nghiệp của Đài Loan được định hướng phát triển theo mô hình khu công nghiệp – dịch vụ dựa trên trình độ kỹ thuật công nghệ cao, đáp ứng nhiệm vụ trung chuyển, chế biến sản phẩm cao cấp cho xuất khẩu và cho thị trường nội địa. Đây là những lĩnh vực đang thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài. 1.5.CÁC QUAN ĐIỂM VỀ THU HÚT FDI THEO VÙNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM. - Tạo lập môi trường chính trị trong nước và quốc tế ổn định. Ổn định chính trị là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư. Do vậy, cần quan tâm đến kết cấu hạ tầng xã hội, chia sẻ thành quả tăng trưởng cho mọi tầng lớp xã hội tạo điều kiện ổn định chính trị trong nước - là tiền đề cho mọi sự thành công khác, hạn chế mức độ rủi ro cho các nhà ĐTNN. Bên cạnh đó, các quốc gia đều xúc tiến hoạt động ngoại giao, chính trị hình thành nên khu vực ổn định chính trị, an ninh thông qua việc ký kết các hiệp định thân thiện, hợp tác theo xu hướng thống nhất trong đa dạng. Vì vậy, nâng cao năng lực của hệ thống chính trị với hạt nhân là sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền, tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo hướng vừa mềm dẻo, vừa 12 cương quyết, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư cũng như lợi ích của xã hội. - Quan điểm về môi trường pháp lý. Môi trường pháp lý đầy đủ, đòng bộ và vận hành có hiệu quả sẽ tạo ra môi trường kinh doanh hoàn thiện. Có nhiều ưu đãi cho các nhà ĐTNN: Miễn giảm thuế, cải cách thủ tục hành chính, giải quyết mềm dẻo các tranh chấp xảy ra trong hoạt động đầu tư; không quốc hữu hoá, thực hiện chính sách "không hồi tố", sử dụng danh mục hạn chế đầu tư... tạo ra hành lang pháp lý rõ ràng. - Quan điểm về xây dựng chiến lược kinh tế hướng ngoại đúng đắn. Phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu, định hướng cho hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô: tăng cường sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới, phát huy nội lực để giải quyết những khó khăn cho nền kinh tế. Kiềm chế lạm phát, tạo nguồn vốn đối ứng trong nước đủ để đáp ứng nhu cầu đầu tư, tiếp nhận công nghệ hợp lý tuỳ thuộc vào từng giai đoạn phát triển để có thể phát huy lợi thế so sánh khi trao đổi quốc tế. - Quan điểm về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội. Chỉ có xây dựng một kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp, thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh thì mới có thể thu hút vốn đầu tư nói chung và hấp dẫn dòng FDI đổ vào trong nước, tạo nền móng cho việc thực hiện nhanh chóng, có hiệu quả các dự án đầu tư. Xây dựng các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, khu công nghệ cao, hệ thống điện, nước, bưu chính viễn thông đầy đủ, thuận tiện cho các vùng kinh tế trọng điểm. - Quan điểm về lựa chọn đối tác nước ngoài và xây dựng đối tác trong nước để chủ động tiếp nhận đầu tư. Thực hiện nguyên tắc: Đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Đa dạng hoá để tận dụng lợi thế so sánh của mỗi quốc gia trong mỗi dự án cụ thể. Từ đó lựa chọn được chủ đầu tư thực sự có năng lực tài chính, uy tín kinh doanh, tiềm lực kỹ thuật- công nghệ hiện đại. Đa phương hoá sẽ tránh được sự phụ thuộc vào một luồng vốn từ một trung tâm, tránh được rủi ro và tạo sự cạnh tranh giữa các nhà ĐTNN, nhờ đó tăng thế thương lượng của nước chủ nhà đối với các nhà ĐTNN. Xây dựng các đối tác trong nước có năng lực, cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, bảo vệ và nâng cao quyền lợi của các đối tác trong nước. - Quan điểm về chiến lược quy hoạch tổng thể FDI. Đây là nhân tố quyết định đến hiệu quả kinh tế- xã hội của đất nước, thiếu vắng chiến lược và quy hoạch tổng thể và cụ thể tại các vùng kinh tế sẽ gây tác 13 hại lâu dài, khó khắc phục được hậu quả. Do vậy phải tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, xây dựng mục tiêu cho từng thời kỳ, bố trí cơ cấu đầu tư tại các vùng hợp lý... Chương 2 THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO CÁC VÙNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA. 2.1. CÁC CĂN CỨ HÌNH THÀNH VÙNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM. Nguồn lực là tiền đề vật chất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia. Quy mô và tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của một nước, ở mức độ lớn, phụ thuộc vào việc khai thác hợp lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong và bên ngoài, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Tài nguyên thiên nhiên là tài sản của một quốc gia, là một trong những nguồn lực để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Tài nguyên thiên nhiên tuy không có tác dụng quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, song đó là điều kiện thường xuyên, cần thiết cho mọi hoạt động sản xuất, là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. Tài nguyên thiên nhiên là một trong những yếu tố tạo vùng quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với việc hình thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá, các ngành mũi nhọn. Cùng với tài nguyên thiên nhiên còn có tài nguyên nhân văn cũng là tiền đề để phát triển kinh tế - xã hội của một nước, một vùng. Dân cư và nguồn lao động không chỉ là lực lượng trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, mà còn là lực lượng tiêu thụ sản phẩm của xã hội, kích thích quá trình tái tạo sản xuất mở rộng của xã hội. Dân cư và các nguồn lực lao động vốn khó di chuyển đi xa, vì vậy khi lựa chọn địa điểm sản xuất kinh doanh trước hết cần tận dụng tới mức tối đa nguồn lao động tại chỗ. Trong tài nguyên nhân văn còn có yếu tố về văn hoá - lịch sử. Mỗi một vùng ở nước ta đều có một bản sắc dân tộc khác nhau, và có các ngành nghề truyền thống khác nhau. Do đó, nhà đầu tư nước ngoài đánh giá từng ngành nghề truyền thống, ngành nào có lợi hơn và thu được lợi nhuận nhanh thì họ sẽ đầu tư vào. Ngoài ra, các nhà đầu tư còn căn cứ vào hiện trạng và tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội ở nơi mình định đầu tư vào. Cơ cấu GDP cũng là một nhân tố quan trọng mà nhà đầu tư xem xét để từ đó nhà đầu tư biết mình phải 14 đầu tư vào ngành nào, vào lĩnh vực nào. Với những căn cứ trên mà các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư chủ yếu vào nước ta ở 8 vùng từ Bắc đến Nam: Đông bắc bộ, tây bắc bộ, đồng bằng sông Hồng, bắc trung bộ, duyên hải nam trung bộ, tây nguyên, đông nam bộ, đồng bằng sông Cửu Long. 2.2. KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG THU HÚT FDI VÀO VIỆT NAM QUA HƠN 20 NĂM ĐỔI MỚI 2.2.1. Tình hình thu hút FDI đăng ký: Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án ĐTNN được cấp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký khoảng 98 tỷ USD (kể cả vốn tăng thêm). Trong 3 năm 1988-1990, mới thực thi Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam nên kết quả thu hút vốn ĐTNN còn ít (214 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 1,6 tỷ USD), ĐTNN chưa tác động đến tình hình kinh tế-xã hội đất nước. Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ĐTNN đã tăng lên (1.409 dự án với tổng vốn đăng ký cấp mới 18,3 tỷ USD) và có tác động tích cực đến tình hình kinh tếxã hội đất nước. Thời kỳ 1991-1996 được xem là thời kỳ “bùng nổ” ĐTNN tại Việt Nam (có thể coi như là “làn sóng ĐTNN” đầu tiên vào Việt Nam) với 1.781 dự án được cấp phép có tổng vốn đăng ký (gồm cả vốn cấp mới và tăng vốn) 28,3 tỷ USD. Đây là giai đoạn mà môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam đã bắt đầu hấp dẫn nhà đầu tư do chi phí đầu tư kinh doanh thấp so với một số nước trong khu vực; sẵn lực lượng lao động với giá nhân công rẻ, thị trường mới, vì vậy, ĐTNN tăng trưởng nhanh chóng, có tác động lan tỏa tới các thành phần kinh tế khác và đóng góp tích cực vào thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội của đất nước. Trong 3 năm 1997-1999 có 961 dự án được cấp phép với tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD; nhưng vốn đăng ký của năm sau ít hơn năm trước (năm 1998 chỉ bằng 81,8% năm 1997, năm 1999 chỉ bằng 46,8% năm 1998), chủ yếu là các dự án có quy mô vốn vừa và nhỏ. Cũng trong thời gian này nhiều dự án ĐTNN được cấp phép trong những năm trước đã phải tạm dừng triển khai hoạt động do nhà đầu tư gặp khó khăn về tài chính (đa số từ Hàn Quốc, Hồng Kông). Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004. Trong giai đoạn 2001-2005 vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Đặc biệt trong 2 năm 2006-2007, dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể 15 (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao,...) và dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch-dịch vụ cao cấp .v.v.). Điều này cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt nguồn từ Mỹ đã làm giảm lượng đầu tư nước ngoài trên thế giới nói chung trong 2 năm qua, và Việt Nam cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng. 6 tháng đầu năm 2009, Việt Nam chỉ thu hút được gần 9 tỉ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài, bằng khoảng 1/5 so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, đây vẫn được coi là một con số tương đối lạc quan trong bối cảnh suy thoái kinh tế và làn sóng cắt gỉảm đầu tư khắp thế giới. 2.2.2. Tình hình tăng vốn đầu tư Cùng với việc thu hút các dự án đầu tư mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn đầu tư, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn đầu tư với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn đầu tư đăng ký cấp mới. Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam. 2.2.3. Quy mô dự án : Qua các thời kỳ, quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường đầu tư Việt Nam. Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn đầu tư đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD trong giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép trong giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....). Quy mô vốn đầu tư bình quân của một dự án ĐTNN tăng dần qua các 16 giai đoạn, tuy có “trầm lắng” trong vài năm sau khủng hoảng tài chính khu vực 1997 và từ cuối năm 2008 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu. 2.2.4. Cơ cấu FDI ĐTNN phân theo ngành nghề: - Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng: Từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Việt Nam đã chú trọng thu hút ĐTNN vào lĩnh vực công nghiệp-xây dựng. Qua mỗi giai đoạn các lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư, các sản phẩm cụ thể được xác định tại Danh mục các lĩnh vực khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Trong những năm 90 thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN, Chính phủ ban hành chính sách ưu đãi, khuyến khích các dự án : (i) sản xuất sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu, (ii) sản xuất hàng xuất khẩu (có tỷ lệ xuất khẩu 50% hoặc 80% trở lên), (iii) sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước và có tỷ lệ nội địa hoá cao. Sau khi gia nhập và thực hiện cam kết với WTO (năm 2006), Việt Nam đã bãi bỏ các quy định về ưu đãi đối với dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao, không yêu cầu bắt buộc thực hiện tỷ lệ nội địa hoá và sử dụng nguyên liệu trong nước. Qua các thời kỳ, định hướng thu hút ĐTNN lĩnh vực công nghiệp- xây dựng tuy có thay đổi về lĩnh vực, sản phẩm cụ thể nhưng cơ bản vẫn theo định hướng khuyến khích sản xuất vật liệu mới, sản phẩm công nghệ cao, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, thiết bị cơ khí chính xác, sản xuất sản phẩm và linh kiện điện tử... Đây cũng chính là các dự án có khả năng tạo giá trị gia tăng cao và Việt Nam có lợi thế so sánh khi thu hút ĐTNN. Nhờ vậy, cho đến nay các dự án ĐTNN thuộc các lĩnh vực nêu trên (thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất các sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm điện và điện tử, sản xuất sắt thép, sản xuất hàng dệt may...) vẫn giữ vai trò quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu và tạo nhiều việc làm và nguồn thu nhập ổn định cho hàng triệu lao động trực tiếp. Cơ cấu đầu tư có chuyển biến tích cực theo hướng gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao, lọc dầu và công nghệ thông tin (IT) với sự có mặt của các tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng thế giới: Intel, Panasonic, Canon, Robotech.v.v. Hầu hết các dự án ĐTNN này sử dụng thiết bị hiện đại xấp xỉ 100% và tự động hoá đạt 100% cho sản lượng, năng suất, chất lượng cao, do đó có ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu giá trị của toàn ngành. Tính đến hết năm 2007, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng lớn nhất với 5.745 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 50 tỷ USD, chiếm 66,8% về số dự án, 61% tổng vốn đăng ký và 68,5% vốn thực hiện. Bảng 2.2.4.1. Cơ cấu FDI trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng 17 TT 1 2 3 4 Ngành CN dầu khí CN nhẹ CN nặng CN thực phẩm 5 Xây dựng Tổng số Số dự án 38 2,542 2,404 310 451 5,745 Vốn đầu tư (USD) Vốn thực hiện (USD) 3,861,511,815 5,148,473,303 13,268,720,908 3,639,419,314 23,976,819,332 7,049,365,865 3,621,835,550 2,058,406,260 5,301,060,927 50,029,948,532 2,146,923,027 20,042,587,769 - ĐTNN trong lĩnh vực dịch vụ: Nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh dịch vụ phát triển từ khi thi hành Luật Đầu tư nước ngoài (1987). Nhờ vậy, khu vực dịch vụ đã có sự chuyển biến tích cực đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống nhân dân, góp phần đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế. Một số ngành dịch vụ (bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, kinh doanh bất động sản) tăng trưởng nhanh, thu hút nhiều lao động và thúc đẩy xuất khẩu. Cùng với việc thực hiện lộ trình cam kết thương mại dịch vụ trong WTO, Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh thu hút ĐTNN, phát triển các ngành dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất và xuất khẩu. Trong khu vực dịch vụ ĐTNN tập trung chủ yếu vào kinh doanh bất động sản, bao gồm: xây dựng căn hộ, văn phòng, phát triển khu đô thị mới, kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp (42% tổng vốn ĐTNN trong khu vực dịch vụ), du lịchkhách sạn (24%), giao thông vận tải-bưu điện (18%). Bảng 2.2.4.2. Cơ cấu FDI trong lĩnh vực dịch vụ TT Chuyên ngành 1 Giao thông vận tải-Bưu điện ( bao gồm cả dịch vụ logicstics) Du lịch - Khách sạn 2 Số dự án 18 208 Vốn đầu tư (triệu USD) Đầu tư đã thực hiện (triệu USD) 4.287 223 5.883 721 2.401 3 4 5 6 7 8 Xây dựng văn phòng, căn hộ để bán và cho thuê Phát triển khu đô thị mới Kinh doanh hạ tầng KCN-KCX Tài chính – ngân hàng Văn hoá - y tế – giáo dục Dịch vụ khác (giám định, tư vấn, trợ giúp pháp lý, nghiên cứu thị trường...) Tổng cộng 153 9.262 1.892 9 3.477 283 28 1.406 576 66 271 897 1.248 714 367 954 2.145 445 1.912 28.609 7.399 Trong năm 2007 tuy vốn đầu tư đăng ký tiếp tục tập trung vào lĩnh vực công nghiệp (50,6%), nhưng đã có sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư mạnh vào lĩnh vực dịch vụ, chiếm 47,7% tổng vốn đăng ký của cả nước, tăng 16,5% so với năm 2006 (31,19%) với nhiều dự án xây dựng cảng biển, kinh doanh bất động sản, xây dựng khu vui chơi, giải trí… ĐTNN trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư nghiệp: Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngay từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút ĐTNN vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư nghiệp chưa được như mong muốn. Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh (Hoa Kỳ, Canada, Australi)a vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta. Các dự án ĐTNN trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực 19 miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước. ĐTNN phân theo vùng, lãnh thổ : ĐTNN đã trải rộng khắp cả nước, không còn địa phương “trắng” ĐTNN nhưng tập trung chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế của địa phương, làm cho các vùng này thực sự là vùng kinh tế động lực, lôi kéo phát triển kinh tế-xã hội chung và các vùng phụ cận. Vùng trọng điểm phía Bắc có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án, 27% tổng vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước; trong đó Hà Nội đứng đầu (987 dự án với tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD) chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng. Tiếp theo thứ tự là Hải Phòng (268 dự án với tổng vốn đăng ký 2,6 tỷ USD), Vĩnh Phúc (140 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD), Hải Dương (271 dự án với tổng vốn đăng ký 1,7 tỷ USD), Hà Tây (74 dự án với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ USD), Bắc Ninh (106 dự án với tổng vốn đăng ký 0,93 tỷ USD) và Quảng Ninh (94 dự án với tổng vốn đăng ký 0,77 tỷ USD). Vùng trọng điểm phía Nam thu hút 5.293 dự án với tổng vốn đầu tư 44,87 tỷ USD, chiếm 54% tổng vốn đăng ký, trong đó, tp Hồ Chí Minh dẫn đầu cả nước (2.398 dự án với tổng vốn đăng ký 16,5 tỷ USD) chiếm 36,9% tổng vốn đăng ký của Vùng. Tiếp theo thứ tự là Đồng Nai (918 dự án với tổng vốn đăng ký 11,6 tỷ USD) chiếm 25,9% vốn đăng ký của Vùng, Bình Dương (1.570 dự án với tổng vốn đăng ký 8,4 tỷ USD) chiếm 18,8% vốn đăng ký của Vùng; Bà Rịa-Vũng Tàu (159 dự án với tổng vốn đăng ký 6,1 tỷ USD) chiếm 13,6% vốn đăng ký của Vùng; Long An (188 dự án với tổng vốn đăng ký 1,8 tỷ USD) chiếm 4,1% vốn đăng ký của Vùng. Điều này, minh chứng cho việc triển khai thực hiện Nghị quyết 09/2001/NQ-CP ngày 28/8/2001 của Chính phủ và Chỉ thị 19/2001/CTTTg ngày 28/8/2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN thời kỳ 2001-2005. [3] Chính vì vậy, ngoài một số địa phương vốn có ưu thế trong thu hút vốn ĐTNN (Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa-Vũng Tàu, Hải Phòng, Quảng Ninh) một số địa phương khác (Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Phú Yên, Hà Tây..) do yếu tố tích cực của chính quyền địa phương nên việc thu hút vốn ĐTNN đã chuyển biến mạnh, tác động tới cơ cấu kinh tế trên địa bàn. Năm 2004 công nghiệp có vốn ĐTNN chiếm 86% giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, 81% của tỉnh Vĩnh Phúc, 70% của tỉnh Đồng Nai, 65% của tỉnh Bình Dương, 46% của Thành phố Hải Phòng, 35% của Thành phố Hà Nội và 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan