Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại việt nam...

Tài liệu Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại việt nam

.DOC
79
479
120

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Xuất hiện trên thị trường Việt Nam từ năm 1998 nhưng đến nay “chứng khoán phái sinh” chưa được biết đến với tư cách là một công cụ bảo hiểm rủi ro hữu hiệu cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những khó khăn, những cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, những biến động bất thường về nền kinh tế toàn cầu, những tăng giảm đột ngột của giá xăng, dầu thế giới, những bấp bênh của tỷ giá đồng USD… đang là những vấn đề đáng lo lắng cho những nhà đầu tư, những doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vậy phải làm gì để giảm bớt rủi ro? Để tối thiểu tổn thất và tối đa hoá lợi nhuận? Một đòi hỏi cấp thiết đối với thị trường là phải đa dạng hoá các sản phẩm tài chính phái sinh, nâng cao chất lượng các dịch vụ hiện có, khuyến khích các doanh nghiệp tích cực tham gia vào thị trường này để loại bỏ bớt những rủi ro không đáng có. 2. Mục đích của đề tài Đề tài này tập trung nghiên cứu thực trạng về thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, tìm ra nguyên nhân, tồn tại và kiến nghị những giải pháp, định hướng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam trong tương lai. 1 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu: - Quá trình hình thành và của dụng các công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam. - Cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Ngân hàng thương mại, các Tổ chức tín dụng khi tham gia kinh doanh các sản phẩm tài chính phái sinh. - Tìm hiểu về thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam, mức độ áp dụng các công cụ tài chính phái sinh của các doanh nghiệp và doanh thu của một số ngân hàng thương mại từ việc kinh doanh các sản phẩm này. 4. Phương pháp nghiên cứu Việc nghiên cứu được tiến hành bằng cách: - Theo dõi và thu thập thông tin về thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam - Tổng hợp, phân tích và đánh giá trên cơ sở những lý thuyết tài chính, chứng khoán phái sinh. Các thông tin được phân tích không đặt riêng biệt mà được nhận định trong bối cảnh chung của nền kinh tế đã gia nhập WTO và điều kiện phát triển của thị trường chứng khoán phái sinh trong nước. - Dựa trên những tồn tại, hạn chế của thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam để rút ra những định hướng, điều kiện, và kiến nghị những giải pháp để phát triển các sản phẩm phái sinh tại Việt Nam. 5. Bố cục của khoá luận Tên đề tài: Điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam Ngoài phần mở đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về thị trường chứng khoán phái sinh 2 Chương II: Đánh giá về quá trình phát triển thị trường chứng khoán phái sinh ở Việt Nam Chương III: Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán phái sinh tại Việt Nam 6. Những từ viết tắt trong khoá luận NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN: Ngân hàng nhà nước TTCK: Thị trường chứng khoán UBCK: Uỷ ban chứng khoán TCTD: Tổ chức tín dụng Khoá luận được thực hiện vào thời điểm thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam còn rất mới mẻ, chưa đựơc nhiều người đón nhận và đang bước từng bước nhỏ trong giai đoạn phát triển. Chính vì vậy khoá luận của em còn rất nhiều thiếu sót, em mong muốn nhận được sự tham gia góp ý của các thầy cô và các bạn để khoá luận thêm hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn sự tận tình chỉ bảo của Tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ, khoa Tài Chính Ngân Hàng, trường Đại học Ngoại Thương, Hà Nội, đã giúp đỡ em trong suốt quá trình em thực hiện khoá luận. Sinh viên thực hiện Tạ Thị Huyền 3 CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH Thị trường tài chính phái sinh xuất hiện là kết quả của một quá trình phát triển cấu trúc thị trường trong thời gian dài. Trong những thập kỷ gần đây, thị trường tài chính phái sinh phát triển mạnh về khối lượng giao dịch cũng như mức độ quan trọng. Khi nhắc đến thị trường tập trung và thị trường OTC – phi tập trung, người ta chỉ nghĩ đến đó là nơi giao dịch chứng khoán, hàng hoá… mà ít ai nghĩ đến đó còn là nơi diễn ra các giao dịch tài chính phái sinh - một công cụ phòng ngừa rủi ro cho các doanh nghiệp. Việc sử dụng các sản phẩm phái sinh hiện nay là một nhu cầu thiết yếu đối với các nhà đầu tư nhằm tối đa hoá lợi nhuận của mình. I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH 1. Giới thiệu về thị trường chứng khoán phái sinh Trong các thị trường tài sản, việc mua bán đòi hỏi hàng hoá hoặc chứng khoán phải được giao nhận hoặc là ngay lập tức hoặc là chỉ ít lâu sau đó. Việc thanh toán cũng thường được thực hiện tức thời mặc dù thỉnh thoảng cũng có trường hợp sử dụng một số thoả thuận tín dụng. Do đặc điểm như vậy nên chúng ta thường gọi là thị trường tiền mặt hoặc là thị trường giao ngay. Doanh số được thực hiện, khoản thanh toán được hoàn trả và hàng hoá, chứng khoán được giao nhận. Trong tình huống khác, hàng hoá hay chứng khoán vẫn được giao nhận vào một ngày sau đó, nhưng có các thoả thuận giúp cho người bán hoặc người 4 mua được chọn là có thực hiện bán hay không các loại thoả thuận này, và nghiệp vụ này được thực hiện trong thị trường phái sinh. Thị trường phái sinh là thị trường dành cho các công cụ tài chính phái sinh, những công cụ mang tính hợp đồng, mà thành quả của chúng được xác định trên 1 hoặc 1 số công cụ tài sản khác. Chúng ta xem các công cụ phái sinh như là các hợp đồng, và giống như tất cả hợp đồng, chúng được thoả thuận giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó mỗi bên sẽ thực hiện nghĩa vụ gì đó cho bên kia. Các hợp đồng này có giá cả và người mua sẽ cố gắng mua với giá rẻ và người bán cố gắng bán với giá cao nhất. Thành viên của thị trường tài chính phái sinh • Người đầu tư: họ sử dụng nghiệp vụ phái sinh để giảm thiểu hoặc loại bỏ rủi ro do họ luôn phải đối mặt với những rủi ro do biến động giá cả của các sản phẩm chính. • Người đầu cơ: với tâm lí muốn đánh cuộc trên những biến động giá cả của sản phẩm chỉnh nên họ sử dụng nghiệp vụ này như một đòn bẩy đặc biệt. • Người cơ lợi (thực hiện lợi nhuận mà không có rủi ro): bằng cách sử dụng chênh lệch giá giữa các thị trường tài chính khác nhau, họ đã sử dụng rất hiệu quả các nghiệp vụ phái sinh để hưởng chênh lệch giá. Các nghiệp vụ tài chính phái sinh đều mang lại lợi ích cho các thành viên, chính vì vậy trên thị trường tài chính quốc tế, nghiệp vụ này đã phát triển rất mạnh với các nghiệp vụ phái sinh đa dạng và thị trường phái sinh đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính toàn cầu. 2. Công cụ tài chính phái sinh 2.1. Khái niệm 5 Công cụ tài chính phái sinh được hiểu là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ tài chính đã có nhằm hiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận. Giá trị của công cụ phái sinh bắt nguồn từ một số công cụ cơ sở khác như tỉ giá, trị giá cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số chứng khoán, lãi suất….Công cụ tài chính phái sinh xuất hiện lần đầu tiên nhằm giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn rủi ro, trong đó thường được sử dụng nhiều nhất là hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn và hợp đồng hoán đổi. Những công cụ trên sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu hoặc để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Ingersoll – tác giả cuốn sách Theory of Financial Decision Making – Lý thuyết quyết định tài chính (1987) đã đưa ra định nghĩa về chứng khoán phái sinh như sau: Một hợp đồng tài chính được gọi là một chứng khoán phái sinh (derivative security), hoặc một tài sản tài chính có giá trị phụ thuộc(contingent claim), nếu giá trị của hợp đồng tài chính đó tại thời điểm đáo hạn T có thể xác định hoàn toàn bởi giá trị thị trường (thị giá) của công cụ tiền mặt (hay tài sản cơ bản). Theo cách hiểu này, tại thời điểm đáo hạn của hợp đồng phái sinh chứng khoán, ta ký hiệu đó là thời điểm T, thì giá của tài sản phái sinh F(T) được xác định hoàn toàn bởi S(T) là giá thị trường của “tài sản cơ bản”. Sau thời điểm đáo hạn này, cuộc đời của phái sinh chứng khoán cũng kết thúc. Tính chất này rõ ràng và dễ hiểu, là việc con người quy ước với nhau qua hợp đồng. Tuy đơn giản như thế, nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng trong công tác tính toán giá trị của tài sản phái sinh. 6 Đặc điểm của công cụ tài chính phái sinh: • Chứng khoán phái sinh được tạo lập dựa trên một chứng khoán gốc. Giá trị của phái sinh được xác định dựa trên những sự kiện biến động về giá trong tương lai của chứng khoán cơ sở. Hoạt động của thị trường tài chính tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển các chứng khoán phái sinh. Các chủ thể tham gia thị trường tài chính tạo ra các công cụ phái sinh và sử dụng chúng để thực hiện mục đích kinh doanh hoặc hạn chế rủi ro trong đầu tư. • Hoạt động của thị trường phái sinh góp phần làm tăng tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên thị trường tài chính. Những nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi nhuận thông qua các giao dịch phái sinh mà không cần phải thực hiện mua bán chứng khoán thực tế. + Với sự xuất hiện chứng khoán phái sinh làm tăng số lượng hàng hoá trên thị trường tài chính. Những nhà đầu tư có thể tìm kiếm lợi nhuận thông qua các giao dịch phái sinh mà không cần phải thực hiện mua bán chứng khoán thực tế. + Giao dịch chứng khoán phái sinh góp phần giảm chi phí giao dịch, hạn chế rủi ro… Từ đó, tạo nên những lợi ích thiết thực cho các chủ thể tham gia, góp phần ổn định và phát triển thị trường tài chính. • Được thực hiện vào một ngày trong tương lai. 2.2. Các loại chứng khoán phái sinh cơ bản 2.2.1. Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng kỳ hạn là công cụ lâu đời nhất, và có lẽ vì lí do đó mà nó ít phức tạp nhất. Hợp đồng kỳ hạn là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua hoặc bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay. Nếu vào ngày đáo hạn, giá thực tế cao hơn giá hợp đồng thì người sở 7 hữu hợp đồng sẽ kiếm được lợi nhuận, nếu ngược lại thì người sở hữu hợp đồng sẽ chịu một khoản lỗ. Ví dụ: Vào ngày 01/04 , A ký hợp đồng kỳ hạn mua của B 10 tấn cà phê kỳ hạn 3 tháng với giá 925USD/tấn. Sau 3 tháng, tức vào ngày 01/07, B phải bán cho A 10 tấn cà phê với giá 925USD/tấn và A phải mua 10 tấn cà phê của B với giá đó, cho dù giá cà phê trên thị trường lúc đó là bao nhiêu đi nữa. Bản thân hợp đồng kỳ hạn mang trong mình 3 loại rủi ro: Thứ 1, nếu giá thực tế vào ngày đáo hạn hợp đồng cao hơn giá mong đợi, rủi ro vốn có của công ty sẽ làm giảm giá trị công ty nhưng sự sụt giảm này sẽ được đền bù bằng lợi nhuận của hợp đồng kỳ hạn. Vì vậy hợp đồng kỳ hạn cung cấp một cách phòng ngừa rủi ro hoàn hảo. Thứ 2, rủi ro tín dụng hay rủi ro không có khả năng chi trả của hợp đồng. Rủi ro này có hai chiều, người sở hữu hợp đồng hoặc là người nhận được hoặc là người chi trả, phụ thuộc vào biến động giá cả thực tế của tài sản cơ sở. Thứ 3, giá trị của hợp đồng kỳ hạn chỉ được giao nhận vào ngày nào đáo hạn của hợp đồng, không có khoản chi trả nào được thực hiện vào ngày ký kết hoặc trong thời hạn của hợp đồng. Vậy nên bản thân những hợp đồng kỳ hạn có chứa nhiều rủi ro nhất trong các công cụ phái sinh. 2.2.2. Hợp đồng tương lai Hợp đồng tương lai (hay còn gọi là hợp đồng giao sau) là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, để mua bán tài sản vào một ngày trong tương lai với giá đã thoả thuận ngày hôm nay mà không phụ thuộc vào giá ở thời điểm thực hiện hợp đồng. Ví dụ: vào đầu năm 2002, công ty A ký hợp đồng tương lai với công ty B mua 100 tấn gạo với giá 2USD/kg với thời điểm mua vào cuối năm 2003. Như vậy vào thời điểm mua, công ty B phải bán cho công ty A 100 tấn gạo với giá 8 2USD/kg và công ty A phải mua 100 tấn gạo của công ty B với giá đó, cho dù giá gạo trên thị trường vào cuối năm 2003 là bao nhiêu chăng nữa. Đặc điểm của hợp đồng tương lai: • Hợp đồng tương lai được ký kết và thực hiện thông qua một môi giới trên TTCK, người mua và người bán thường không biết nhau, do vậy đơn vị môi giới thường đưa ra một số các tiêu chuẩn cho những hợp đồng này. • Ngày giao hàng không được xác định một cách chính xác, mà được quy định theo tháng và khoảng thời gian của tháng phải giao. Người môi giới xác định khối lượng, chất lượng của hàng hoá giao dịch, cách giao hàng, giá hợp đồng. • Người mua, bán phải trả phí hoa hồng cho người môi giới, và giá tương lai được xác định trên sàn giao dịch chứng khoán. • Có hai loại thương nhân trên sàn giao dịch: thứ nhất là những người môi giới ăn hoa hồng, họ sẽ thực hiện mua bán theo lệnh của nhà đầu tư và tính hoa hồng; thứ 2 là người tự đầu tư. • Để tránh những rủi ro khi thực hiện hợp đồng tương lai, do người mua hay người bán tháo lui khỏi hợp đồng vì sự biến động giá trên thị trường bất lợi cho mình, hoặc do đến thời điểm thanh toán, người mua không có khả năng tài chính thì người môi giới phải đưa ra những quy định về yêu cầu dự trữ tối thiểu đối với người ký hợp đồng tương lai với người môi giới. Khoản tiền dự trữ này được giữ lại một tài khoản của người đầu tư mở tại văn phòng chứng khoán. Điểm khác nhau giữa Hợp đồng kỳ hạn và Hợp đồng tương lai • Hợp đồng tương lai là những hợp đồng được chuẩn hoá ( về loại tài sản cở sở mua bán, số lượng các đơn vị tài sản cơ sở mua bán, thể thức thanh toán, 9 kỳ hạn...). Hợp đồng kỳ hạn là những hợp đồng không được chuẩn hoá, các chi tiết là do hai bên đàm phán quy định cụ thể. • Hợp đồng tương lai chỉ được giao dịch các công cụ tương lai được niêm yết tại các Sở giao dịch chứng khoán. Như vậy, giao dịch hợp đồng tương lai đã được các sở giao dịch chuẩn hoá và khi đó các bên tham gia giao dịch không nhất thiết phải biết nhau. Hợp đồng kỳ hạn có thể áp dụng đối với chứng khoán hay hàng hoá . • Hợp đồng tương lai được thoả thuận và mua bán qua người môi giới. Hợp đồng kỳ hạn được thoả thuận và mua bán trực tiếp giữa hai bên kí kết hợp đồng. • Hợp đồng tương lai được mua bán trên thị trường chứng khoán tập trung. Hợp đồng kỳ hạn được mua bán trên thị trường phi tập trung. • Tính thị trường: Hợp đồng kỳ hạn tiêu chuẩn thường không có giao dịch thứ cấp, tức là khi muốn thay đổi các bên đối tác tham gia hợp đồng kỳ hạn, phải đàm phán tìm đối tác khác thay thế, điều này làm tăng chi phí, thời gian thực hiện hợp đồng bị kéo dài. Ngược lại, hợp đồng tương lai được chuẩn hoá và giao dịch liên tục trên TTCK. • Rủi ro: Hợp đồng kỳ hạn có thể gặp rủi ro lớn khi bên đối tác không đủ khả năng thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian trong tương lai, trong khi hợp đồng tương lai do giao dịch tại các Sở giao dịch chứng khoán, nên rủi ro sẽ thấp hơn hoặc có cơ chế bảo hiểm khi xảy ra rủi ro. • Thời điểm thực hiện hợp đồng: Hợp đồng tương lai thường xác định thời điểm thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian trong tương lai, trong khi hợp đồng kỳ hạn xác định chính xác thời điểm thực hiện hợp đồng. • Căn cứ thị trường của hai loại hợp đồng cũng có khác biệt, hợp đồng kỳ hạn chỉ có một thời điểm thanh toán khi kết thúc hợp đồng, còn hợp đồng tương 10 lai yêu cầu các bên tham gia phải có chi phí gắn với diễn biến thị trường. Trong thời hạn của hợp đồng tương lai có thể phát sinh dòng tiền, thu nhập trong quá trình thực hiện hợp đồng. Ví dụ hợp đồng tương lai đối với trái phiếu thì chủ sở hữu thực vẫn nhận được các khoản thu nhập từ trái phiếu trong thời gian hợp đồng chưa có hiệu lực. Đây là khác biệt căn bản của hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng tương lai. • Hợp đồng tương lai được tính hàng ngày theo giá thị trường. Hợp đồng kỳ hạn được thanh toán vào ngày đáo hạn. • Giống như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao sau cũng có rủi ro hai chiều, rủi ro tín dụng, tức người sở hữu hợp đồng hoặc là người được nhận hoặc là người phải chi trả. Nhưng khác biệt rõ nhất với thị trường kỳ hạn là thị trường giao sau sử dụng 2 công cụ để loại bỏ rủi ro này. + Thứ 1, thay vì giao nhận giá trị hợp đồng vào 1 ngày thông qua mua bán đơn thuần vào ngày đáo hạn, thay đổi trong giá trị hợp đồng giao sau được thực hiện thanh toán vào cuối ngày giao dịch. Điều này có nghĩa hợp đồng giao sau có tính chất thanh toán tiền mặt hay điều chỉnh theo ngày, tức thời hạn giao sau được rút ngắn lại. Nhờ thanh thế mà rủi ro thanh toán được giảm đi. + Thứ 2, hợp đồng giao sau yêu cầu tất cả các thành viên tham gia thị trường, người bán và người mua đều như nhau, phải thực hiện một khoản ký gửi gọi là ký quỹ. Nếu hợp đồng giao sau tăng giá trị trong ngày giao dịch, mức tăng này sẽ được cộng vào tài khoản ký quỹ vào cuối ngày. Ngược lại, nếu hợp đồng bị giảm giá trị, thua lỗ sẽ được trừ ra. Và nếu số dư tài khoản ký quỹ giảm xuống mức tối thiểu đã thoả thuận trước đó thì sẽ bị yêu cầu nộp một khoản ký gửi bổ sung, tài khoản ký quỹ phải được bổ sung như cũ. Hợp đồng giao sau rất giống với một danh mục các hợp đồng kỳ hạn. Tuy nhiên, hợp đồng giao sau và một danh mục các hợp đồng ỳ hạn chỉ giống nhau 11 khi lãi suất là có thể xác định trước, tức là biết được một cách chắc chắn. Vào lúc đóng cửa mỗi ngày, các hợp đồng giao sau mag tính kỳ hạn đang tồn tại sẽ được thanh toán cũng như một hợp đồng mới được ký kết. Tính chất thanh toán hàng ngày kết hợp với yêu cầu ký quỹ cho phép hợp đồng giao sau giảm thiểu đáng kể rủi ro tín dụng vốn có của hợp đồng kỳ hạn. 2.2.3. Quyền chọn: Mua và Bán Quyền chọn : là hợp đồng giữa hai bên, người mua và người bán, trong đó cho người mua quyền nhưng không phải nghĩa vụ, để mua hoặc bán một tài sản nào đó vào ngày trong tương lai với giá đã đồng ý vào ngày hôm nay. Mặc dù các quyền chọn được giao dịch trong một thị trường có tổ chức nhưng phần lớn các giao dịch quyền chọn được quản lý riêng rẽ giữa hai bên. Những người này tự tìm đến với nhau, loại thị trường này gọi là thị trường OTC – loại thị trường quyền chọn xuất hiện đầu tiên. Hầu hết các quyền chọn chúng ta quan tâm là mua bán các loại tài sản tài chính chẳng hạn như cổ phiếu, trái phiếu.... Mặc dù vậy, cũng xuất hiện một hình thức khác của quyền chọn đó là loại thoả thuận tài chính như hạn mức tín dụng, đảm bảo khoản vay, và bảo hiểm. Ngoài ra, bản thân cổ phiếu cũng là quyền chọn trên tài sản công ty. Quyền chọn cũng có những nét giống với một hợp đồng kỳ hạn nhưng quyền chọn không bắt buộc phải thực hiện giao dịch còn người sở hữu hợp đồng kỳ hạn bắt buộc bắt buộc phải thực hiện giao dịch. Hai bên trong hợp đồng kỳ hạn có nghĩa vụ phải mua và bán hàng hoá, nhưng người nắm giữ quyền chọn có thể quyết định mua hoặc bán tài sản với giá cố định nếu giá trị của nó thay đổi. Có hai kiểu thực hiện quyền chọn: 12 • Theo kiểu Mỹ: thực hiện quyền chọn vào bất cứ ngày nào trước ngày đáo hạn. • Theo kiểu châu Âu: thực hiện quyền chọn chỉ trong ngày đáo hạn. Có hai loại quyền chọn: Quyền chọn mua: Người mua quyền chọn trả một khoản tiền (gọi là phí quyền chọn) cho người bán. Người mua sẽ có quyền được mua một lượng tài sản nhất định theo một mức giá thoả thuận trước, tại một thời điểm xác định trong tương lai. Người bán nhận phí quyền chọn có trách nhiệm phải bán một lượng tài sản như đã thoả thuận cho người mua, theo mức giá đã thoả thuận, vào thời điểm xác định trong tương lai ( hoặc trước thời điểm đó) khi người mua muốn thực hiện quyền chọn mua. Ví dụ: Giá cổ phiếu ngân hàng AB tại thời điểm hiện tại là 100.000đồng/cổ phiếu, nhà đầu tư sau khi phân tích đưa ra dự báo giá cổ phiếu sẽ tăng lên khoảng 200.000đồng. Hiện tại, nếu muốn mua 1000 cổ phiếu của AB thì nhà đầu tư phải bỏ ra 100.000.000đ để mua nó. Giả sử sau một thời gian giá cổ phiếu không như dự báo, giảm xuống còn 60.000đ thì nhà đầu tư lỗ 40.000.000đ. Để giảm thiểu rủi ro mà vẫn thực hiện theo dự báo, nhà đầu tư mua quyền chọn mua: mua 1000 cổ phiếu của AB với giá 100.000đ/cổ phiếu, trong thời gian 3 tháng với mức phí quyền chọn là 20.000đ/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000đ. Trong thời gian 3 tháng trên nếu giá cổ phiếu AB tăng như dự báo lên mức 200.000đ/cổ phiếu thì nhà đầu tư sẽ thu được: 1000cổ phiếu x 200.000đ = 200.000.000 đ tức là nhà đầu tư lãi 100.000.000đ - 20.000.000đ phí mua quyền chọn = 80.000.000đ. Trong trường hợp giá cổ phiếu không tăng mà liên tục giảm cho đến hết thời gian 3 tháng thì 13 nhà đầu tư có quyền không thực hiện việc mua của mình và chỉ chịu mất 20.000.000 đồng tiền phía quyền chọn mua. Quyền chọn bán: Người nắm giữ một lượng tài sản mua phí quyền chọn bán của nhà cung cấp quyền chọn bán để đảm bảo rằng tài sản của mình sẽ chắc chắn được bán ở một mức giá nhất định trong tương lai. Ví dụ: Nhà đầu tư nắm giữ 1000 cổ phiếu của AB trên với mức giá thị trường hiện tại là 100.000đ/ cổ phiếu. Nhà đầu tư lo lắng về giá cổ phiếu có thể giảm xuống còn 70.000đ/cổ phiếu, vậy nhà đầu tư sẽ lỗ 30.000.000đ. Nhà đầu tư sẽ mua quyền chọn bán với mức phí 20.000đ/cổ phiếu x 1000 cổ phiếu = 20.000.000đ để đảm bảo cổ phiếu của mình lúc nào cũng có thể bán được với giá 100.000đ/cổ phiếu. Nghĩa là nếu giá cổ phiếu giảm xuống dưới 100.000đ/cổ phiếu thì nhà đầu tư có thể sẽ có lợi vì được bán cổ phiếu ở mức cao hơn mức giá cổ phiếu đó trên thị trường vào thời điểm đó. 2.2.4. Hợp đồng hoán đổi Hoán đổi là một hợp đồng trong đó hai bên đồng ý hoán đổi dòng tiền, một giao dịch mà cả hai bên đồng ý thanh toán cho bên còn lại một chuỗi các dòng tiền trong một khoảng thời gian xác định. Ví dụ một bên đối tác đang nhận được một dòng tiền từ một khoản đầu tư , nhưng lại thích một loại đầu tư khác với dòng tiền mà mình đang thị hưởng. Bên đối tác này sẽ liên lạc với một môi giới hoán đổi, thường là một công ty hoạt động trên OTC, và họ sẽ thực hiện vị thế đối nghịch trong giao dịch. Tuỳ thuộc vào lãi suất hay giá sau đó như thế nào mà 1 bên sẽ thu được lợi nhuận hay là bị lỗ. Lãi của bên này chính là lỗ của bên kia. Thông thường giao dịch hoán đổi bao gồm các thanh toán lãi, trong một số trường hợp là thanh toán nợ gốc. 14 Có 4 loại hoán đổi là hoán đổi tiền tệ, hoán đổi lãi suất , hoán đổi chứng khoán và hoán đổi hàng hoá. Hoán đổi được xem như là sự kết hợp giữa các hợp đồng kỳ hạn. 2.2.5. Một số loại chứng khoán phái sinh khác 2.2.5.1. Bán khống chứng khoán Đây là một nghiệp vụ trên thị trường tài chính được thực hiện nhằm mục đích lợi nhuận thông qua giá chứng khoán giảm. Nhà đầu tư sẽ vay cổ phiếu khi giá đang cao để bán, khi giá xuống thấp thì nhà đầu tư mua lại để trả. Khi đặt lệnh bán chứng khoán, nhà đầu tư không có chứng khoán trong tài khoản, họ mong đợi giá sẽ giảm trong tương lai, khi đó họ sẽ mua được chứng kháon với giá thấp hơn để trả cho công ty chứng khoán. Khoản chênh lệch là lợi nhuận của nhà đầu tư, song nếu chứng khoán tăng thì họ sẽ bị lỗ. 2.2.5.2. Repo chứng khoán Repo chứng khoán được hiểu là một giao dịch trong đó các chứng khoán được mua ở tỉ lệ giao ngay và được mua lại ở tỉ lệ kì hạn. Về bản chất thì nghiệp vụ repo giống như một khoản vay có bảo đảm bằng các chứng khoán và các tài sản bảo đảm khác. Về hình thức biểu hiện thì repo chứng khoán sử dụng một hợp đồng mua lại trong đó quy định các điều khoản mà mỗi bên tham gia phải tôn trọng. Một hợp đồng repo sẽ quy định rõ các điều khoản về: • Tư cách của các bên tham gia giao dịch • Quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên • Tài sản đảm bảo • Tài sản dùng để repo: trái phiếu, cổ phiếu hay các chứng khoán khác. • Cách tính lãi suất repo, thời hạn của hợp đồng, phương pháp định giá lại chứng khoán cơ sở, biên độ dao động, khoản giảm trừ. 15 • Các điều khoản xử lý các vấn đề phát sinh trong thời gian thực hiện repo. Việc thực hiện nghiệp vụ repo góp phần làm tăng tính thanh khoản cho thị trường, tăng hiệu quả đồng vốn kinh doanh cho nhà đầu tư và đem lại cho nhà đầu tư một số lợi ích như: vẫn có quyền sở hữu cổ phiếu khi mua lại cổ phiếu đã bán sau kỳ hạn nhất định, vẫn được hưởng cổ tức trong thời hạn chuyển nhượng... II. ỨNG DỤNG CỦA CÁC CÔNG CỤ TÀI CHÍNH PHÁI SINH 1. Quản trị rủi ro Thị trường sản phẩm phái sinh cho phép những người muốn làm giảm rủi ro của mình chuyển giao rủi ro cho những người sẵn sàng chấp nhận nó, đó là những nhà đầu cơ. Thị trường này rất có hiệu quả trong việc phân phối lại rủi ro giữa các nhà đầu tư, không ai cần phải chấp nhận một mức rủi ro không phù hợp với bản thân mình. Vì thế họ sẵn sàng cung cấp nhiều vốn hơn cho thị trường tài chính, điều này tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, phát huy khả năng huy động vốn và giảm chi phí sử dụng vốn. Thị trường các sản phẩm phái sinh còn là một công cụ hiệu quả cho hoạt động đầu cơ, người muốn phòng ngừa rủi ro phải tìm được một người có nhu cầu hoàn toàn đối lập với mình, tức là rủi ro của người muốn phòng ngừa rủi ro phải được hấp thụ bởi các nhà đầu cơ. Thực tế của thị trường các sản phẩm phái sinh sẽ làm một bên được lợi và tất yếu bên kia không tránh khỏi những thiệt hại nhưng những giao dịch này vẫn rất phát triển trên thị trường bởi mỗi nhà đầu tư có một “khẩu vị rủi ro” khác nhau, khả năng chấp nhận rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, ai cũng mong muốn giữ cho các khoản đầu tư của mình ở một mức rủi ro có thể chấp nhận được và vì thế 16 các nhà đầu cơ gặp nhau và tiến hành việc chuyển giao một phần rủi ro của mình cho đối tác. Bên cạnh đó, thị trường phái sinh không dẫn vốn trong nền kinh tế vào những âm mưu đầu cơ khủng khiếp. Những nhà đầu cơ thay vì giao dịch cổ phiếu họ lại giao dịch các sản phẩm phái sinh và chính việc đầu tư vào công cụ tài chính phái sinh tạo điều kiện cho việc phòng ngừa các rủi ro ít tốn kém hơn và hiệu quả hơn. Thị trường phái sinh không tạo ra và cũng không thể phá huỷ được tài sản, chúng chỉ là những phương tiện chuyển giao rủi ro trên thị trường, những rủi ro sẵn có của thị trường tài sản, chuyển những khoản rủi ro đó từ những người không đủ khả năng chấp nhận nó sang những người sẵn sàng tiếp nhận nó. Không có thêm bất kì một rủi ro nào được sinh ra trên thị trường này, và lợi ích từ thị trường không chỉ bó hẹp trong lợi ích của những nhà đầu cơ mà nó lan toả ra toàn xã hội. 2. Thông tin hiệu quả hình thành giá Thị trường kỳ hạn và tương lai là nguồn thông tin quan trọng đối với việc hình thành giá cả. Có rất nhiều hàng hoá được giao dịch trên thị trường tương lai nhưng thị trường giao ngay của nó rất rộng lớn và phân tán nên rất khó có thể xác định giá giao ngay của chúng, vì vậy thị trường tương lai được xem là một công cụ chủ yếu để xác định giá giao ngay của tài sản và thường là giá tương lai của những giao dịch sớm nhất sẽ được xác định là giá giao ngay của chúng. Ngoài ra thị trường giao sau trên thế giới thường nhộn nhịp hơn nên các thông tin cung cấp trên thị trường này có tính tin cậy cao hơn. Những thông tin được cung cấp trên thị trường phái sinh dù trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần hình thành giá giao 17 ngay trong tương lai một cách có hiệu quả mà những người tham gia thị trường có thể chốt lại trong giới hạn chấp nhận của mình. 3. Các lợi thế về hoạt động và tính hiệu quả 3.1. Lợi thế Thứ 1, chi phí giao dịch thấp hơn. Điều này làm cho việc chuyển hướng từ các giao dịch giao ngay sang phái sinh ngày càng dễ dàng và hấp dẫn hơn. Thứ 2, tính thanh khoản cao hơn hẳn so với thị trường giao ngay. Trước hết đó là yêu cầu một mức vốn để tham gia thị trường là tương đối thấp. Hơn nữa, tỷ suất sinh lời và rủi ro có thể được điều chỉnh ở bất cứ mức độ nào như mong muốn. Thứ 3, các giao dịch bán khống được thực hiện dễ dàng hơn. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể tìm kiếm được những khoản lợi nhuận đáng kể từ chênh lệch giá, chênh lệch lãi suất. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường đều có thể tìm thấy lợi nhuận. Thị trường phái sinh giúp các tín hiệu thị trường khó bị bóp méo. Vì thế, các nhà đầu cơ với ý định thao túng thị trường cũng có những khó khăn nhất định. Chính vì thế, đặt bên cạnh thị trường giao ngay, sự hiệu quả của thị trường phái sinh giúp nâng cao tính lành mạnh cho thị trường đó. 3.2. Hiệu quả Xét ở góc độ tổng thể của nền kinh tế: thị trường công cụ tài chính phái sinh đóng góp cho tăng trưởng kinh tế thông qua việc phát huy tốt các chức năng của hệ thống tài chính: • Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. • Sàng lọc, chuyển giao và phân tán rủi ro trên thị trường • Giám sát doanh nghiệp 18 • Tăng tính thanh khoản của các công cụ tài chính (cổ phiếu, trái phiếu...) Xét ở góc độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: doanh nghiệp có thể mua hoặc bán công cụ phái sinh với 2 mục đích: mục đích phòng ngừa rủi ro tài chính, mục đích đầu cơ, tạo lợi nhuận từ ứng dụng công cụ phái sinh, trên cơ sở tạo trạng thái mở về lãi suất, ngoại tệ, hàng hoá, chứng khoán... Ngoài ra, khi sử dụng phối hợp nhiều công cụ phái sinh với đối tác khác nhau, trên những thị trường khác nhau có thể tạo lợi nhuận trên cơ sở không phải đối mặt với các trạng thái mở, các rủi ro tài chính. Xét ở góc độ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tài chính: Các lợi ích thu được khi ứng dụng công cụ phái sinh cũng tương tự doanh nghiệp. Hơn thế nữa, với vai trò của trung gian tài chính, các tổ chức này có thể tăng nguồn thu từ chi phí với tư cách của người môi giới. Đặc biệt, khả năng mở rộng, phát triển các hoạt động khác của tổ chức tài chính như huy động vốn, cho vay, dịch vụ thanh toán, tư vấn .... cũng tăng cao và hiệu quả hơn. Như vậy, công cụ tài chính phái sinh là sản phẩm của nền kinh tế hiện đại, kỹ thuật tài chính này đòi hỏi một trình độ hiểu biết và phát triển nhất định của bất kì nền kinh tế nào. III. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHÁI SINH CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1. Sự ra đời của thị trường quyền chọn Có rất nhiều loại công cụ tài chính phái sinh khác nhau trên thị trường nhưng có thể thấy giao dịch quyền chọn là giao dịch được ưu tiên hơn cả về những ích lợi mà nó đem đến. 19 Điểm lại lịch sử hình thành quyền chọn trên thị trường ta có thể thấy sự phát triển của thị trường này trên thế giới, qua đó thấy được nhu cầu của những nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán. Giao dịch đầu tiên về quyền chọn bán và quyền chọn mua bắt đầu ở Châu Âu và Mỹ từ đầu thế kỉ XVIII. Những năm đầu thị trường hoạt động thất bại vì nạn tham nhũng. Vào đầu những năm 1900, một nhóm công ty đã thành lập Hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn. Mục đích của hiệp hội này là cung cấp kỹ thuật nhằm đưa những người mua và những người bán lại với nhau. Nhà đầu tư muốn mua Quyền chọn liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ cố gắng tìm người bán quyền chọn từ những khách hàng của họ hoặc của công ty thành viên khác, nếu không có người bán, công ty sẽ tự phát hành quyền chọn với giá cả thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường OTC, các nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch của thị trường. Thị trường quyền chọn của các nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn chịu áp lực của 2 yếu tố: thứ nhất, khi không có thị trường thứ cấp, người mua quyền chọn không có quyền bán cho bên khác trước ngày đáo hạn. Thứ hai, không có kỹ thuật nào đảm bảo rằng người bán quyền chọn sẽ thực hiện hợp đồng, nếu người bán không thực hiện hợp đồng thì người mua phải tốn chi phí kiện tụng. Tháng 4 năm 1973, Sàn giao dịch quyền chọn Chicago ra đời đặc biệt dành cho trao đổi quyền chọn về cổ phiếu. Từ đó, thị trường quyền chọn trở nên phổ biến với nhà đầu tư. Thị trường chứng khoán Mỹ (AMEX) và thị trường chứng khoán Philadelphia (PHLX) bắt đầu thực hiện giao dịch quyền chọn vào năm 1975. Năm 1976, thị trường chứng khoán Pacific ra đời. Khoảng đầu thập niên 80, khối lượng giao dịch tăng lên nhanh chóng đến mức mà số lượng cổ 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan