Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh cà mau...

Tài liệu Giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh cà mau

.PDF
224
136
58

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ----------- NGUYỄN QUỐC ĐỊNH GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Hà Nội - 2008 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ VIỆN CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN ----------- NGUYỄN QUỐC ĐỊNH GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỦY SẢN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU Chuyên ngành: Kinh tế phát triển Mã số: 62 31 05 01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. TS. Nguyễn Bá Ân 2. TS. Lưu Đức Hải Hà Nội - 2008 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu kết quả nêu trong luận án là trung thực. Các tài liệu tham khảo có nguồn trích dẫn rõ ràng. Tác giả luận án Nguyễn Quốc Định DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CoC : Quy tắc ứng xử có trách nhiệm trong nuôi trồng thủy sản ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long GAP : Quy phạm thực hành nuôi trồng thủy sản tốt GDP : Tổng sản phẩm quốc nội HACCP : Phân tích mối nguy và xác định điểm kiểm soát tới hạn KT – XH : Kinh tế - Xã hội NTTS : Nuôi trồng thủy sản PTBV : Phát triển bền vững TNHH : Trách nhiệm hữu hạn USD : Đồng Đô la Mỹ WTO : Tổ chức thương mại thế giới MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Việt Nam có nguồn tài nguyên biển đa dạng và phong phú, bờ biển Việt Nam có nhiều cửa sông tạo ra các hệ sinh thái giàu chất dinh dưỡng, là điều kiện cho sự sinh tồn và phát triển của nhiều loài động, thực vật, các khu rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển, vũng, vịnh, đảo... mỗi dạng tài nguyên, hệ sinh thái của biển có tính đặc thù và giữ vai trò, vị trí nhất định trong phát triển bền vững và bảo vệ môi trường biển. Ngành thuỷ sản là một hoạt động kinh tế quan trọng ở vùng biển và ven biển của Việt Nam cũng như nhiều nước nhằm khai thác lợi thế về biển, thúc đẩy phát triển kinh tế và tạo ra cơ hội việc làm, tăng thu nhập góp phần xoá đói giảm nghèo. Do nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản trên thế giới không ngừng tăng lên, bên cạnh những lợi nhuận to lớn do các hoạt động nuôi trồng và đánh bắt thuỷ hải sản mang lại, việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên ven biển và phát triển mạnh vượt quá ngưỡng cho phép về nuôi trồng thuỷ sản gây nên không ít những vấn đề nan giải về ô nhiễm, làm giảm diện tích rừng ngập mặn, gây nhiều biến động môi trường nghiêm trọng và suy thoái môi trường. Ngành kinh tế thuỷ sản là ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam nói chung và vùng Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng, do đó việc phát triển bền vững ngành thuỷ sản, đặc biệt là đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long là một vấn đề cấp bách hiện nay cần được tập trung nghiên cứu và có các giải pháp thực hiện. Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện trong các phong trào bảo vệ môi trường trên thế giới từ những năm đầu của thập niên 70 thuộc thế kỷ 20. Qua hai cuộc Hội nghị Thượng đỉnh ở Braxin năm 1992 và Nam Phi năm 2002, thế giới đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển gồm phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Khái niệm “Phát triển bền vững” cũng đã được nêu tại khoản 4 Điều 3 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, có thể hiểu khái niệm về phát triển bền vững vùng biển Việt Nam như sau “Phát triển bền vững vùng biển Việt Nam là sự phát triển dựa trên việc khai thác các tiềm năng, lợi thế so sánh của vùng biển và ven biển để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tếxã hội hiện tại nhưng không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó trong tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hoà giữa khai thác các tiềm năng, lợi thế so sánh với bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường vùng biển”. Tỉnh Cà Mau nằm ở cực Nam của Tổ quốc, thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long với ba mặt giáp biển và là tỉnh có tiềm năng to lớn để phát triển thủy sản trên cả ba lĩnh vực: khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản và chế biến thủy sản xuất khẩu. Với bờ biển dài 254 km và đặc biệt là tiếp giáp với hai vùng biển Đông và biển Tây nên Cà Mau có lợi thế rất lớn để phát triển khai thác đánh bắt hải sản, ngoài ra còn có hàng trăm ngàn ha diện tích nuôi trồng thủy sản. Và từ nguồn sản lượng khai thác và nuôi trồng to lớn, sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển chế biến thủy sản. Thế mạnh này sẽ tiếp tục được khai thác và phát triển trong tương lai với quy mô ngày càng lớn. Thực tế phát triển thủy sản Cà Mau những năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn và mang lại nhiều lợi ích cho địa phương. Thủy sản đã thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Cà Mau, chiếm đến 38,4% GDP của tỉnh, kim ngạch xuất khẩu thủy sản chiếm đến 99% tổng giá trị xuất khẩu của tỉnh và chiếm gần 15,5% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước. Quá trình phát triển ngành Thuỷ sản Cà Mau cũng tạo nên công ăn việc làm cho gần bốn mươi vạn lao động, tăng thu ngân sách và thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá tỉnh Cà Mau. Mặc dù ngành Thủy sản Cà Mau đã đạt được một số thành tựu to lớn, song sự phát triển đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của tỉnh. Sản xuất thủy sản còn mang nặng tính tự phát, sản xuất còn manh mún, tính quản lý cộng đồng chưa cao nên năng suất, chất lượng và hiệu quả cạnh tranh còn nhiều hạn chế, đặc biệt là sẽ càng gặp nhiều khó khăn hơn trong quá trình cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, quá trình phát triển thủy sản Cà Mau cũng đã làm phát sinh nhiều vấn đề về mặt xã hội (phân hoá giàu nghèo, thiếu đất, thiếu việc làm, chất lượng lao động thấp, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở những vùng sâu, vùng xa, cộng đồng ngư dân ven biển còn nhiều khó khăn thiếu thốn,…) và đặc biệt là những mâu thuẫn về mặt môi trường (tài nguyên rừng ngày càng suy thoái, tính đa dạng sinh học giảm, môi trường sinh thái biến đổi, khai thác quá mức cho phép và việc áp dụng các phương pháp đánh bắt hủy diệt dẫn đến nguồn lợi thủy sản ven bờ ngày càng cạn kiệt, sản xuất nguyên liệu lẫn chế biến đều gây ô nhiễm,…) Từ đó, cần phải sớm nghiên cứu đề xuất phát triển ngành thuỷ sản theo hướng phát triển bền vững, đề xuất các giải pháp để vừa phát huy được thế mạnh của địa phương, đưa thủy sản ngày càng phát triển nhưng không làm nảy sinh các vấn đề xã hội và các mâu thuẫn về môi trường. Xuất phát từ các lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau” để làm luận án nghiên cứu sinh. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài. Phát triển bền vững đã trở thành xu thế tất yếu, là vấn đề sống còn của xã hội loài người. Thời gian qua, đã có nhiều học thuyết và có nhiều hội nghị thượng đỉnh thế giới đã được tổ chức để bàn về vấn đề này. Học thuyết Mác đã có quan điểm rất biện chứng về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và đã khẳng định con người là một bộ phận không thể tách rời của giới tự nhiên. Và Ăngghen đã cảnh báo về “sự trả thù của giới tự nhiên” khi bị tổn thương. Hội nghị Stockholm 1972. Tháng 6 năm 1972, hội thảo của Liên hợp quốc về Môi trường và Con người được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển). Hội nghị đã đi đến kết luận: Việc bảo vệ và cải thiện môi trường con người là một vấn đề quan trọng tác động đến hạnh phúc của mọi người và phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Hội nghị Rio de Janeiro 1992. Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển được tổ chức vào năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin) với 179 nước tham dự đã đồng thuận thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản về phát triển bền vững và Chương trình nghị sự 21 – một chương trình hành động toàn cầu bao gồm các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21. Hội nghị Johannesburg 2002. Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững được tổ chức vào năm 2002 ở Johannesburg (Nam Phi) với 166 nước tham dự đã thông qua Bản tuyên bố Johannesburg và Bản kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững. Hai văn kiện đều nhấn mạnh phải thực hiện phát triển kinh tế trong mối liên hệ chặt chẽ với bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ môi trường ở tất cả các quốc gia, khu vực và toàn cầu. Đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia. Điển hình như Trung Quốc, tháng 7 năm 1994 Quốc vụ viện nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã thông qua và phê duyệt Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững của Trung Quốc bao gồm 4 nội dung: - Những chiến lược chung nhất về phát triển bền vững. - Phát triển xã hội bền vững. - Phát triển kinh tế bền vững. - Bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Việt Nam cũng đã nhận thức được tầm quan trọng và tính bức thiết của vấn đề phát triển bền vững thể hiện qua các mốc quan trọng sau: Năm 1991, Nhà nước đã ban hành “Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991 – 2000”. Năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW, trong đó đã khẳng định quan điểm phát triển bền vững và nhấn mạnh: “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Năm 2001, quan điểm phát triển bền vững tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện của Đại hội Đảng lần thứ IX và trong Chiến lược phát triển kinh tếxã hội 2001-2010 như sau: “Phát triển nhanh hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg về việc ban hành “Định hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam), như vậy quan điểm phát triển bền vững đã được thể chế hoá một cách rõ ràng, cụ thể. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành và đã có nhiều chương trình đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này, cụ thể như: - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có Thông tư số 01/2005/TT-BKH để hướng dẫn triển khai thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam. - Một vài tỉnh đã xây dựng Chương trình phát triển bền vững của địa phương mình như: Ninh Bình, Bến Tre,… - Xác định bộ chỉ tiêu và cơ chế xây dựng cơ sở dữ liệu phát triển bền vững ở Việt Nam của Lê Anh Sơn và Nguyễn Công Mỹ, Tạp chí Kinh tế và Dự Báo, số 9/2005. - Điều chỉnh chiến lược công nghệ để tiến tới phát triển bền vững của Lê Minh Đức, Phát triển bền vững kỷ yếu hội nghị toàn quốc lần thứ nhất 2004. - Đa dạng sinh học và phát triển bền vững của Võ Quý, Phát triển bền vững kỷ yếu hội nghị toàn quốc lần thứ nhất 2004. - Một số vấn đề về phát triển bền vững đối với ngành Thủy sản Việt Nam của Nguyễn Chu Hồi, Phát triển bền vững kỷ yếu hội nghị toàn quốc lần thứ nhất 2004. - Ảnh hưởng của chính sách nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản tới phát triển bền vững ở Việt Nam, Dự án VIE/01/021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội 2005. - Ảnh hưởng của chính sách phát triển các khu công nghiệp tới phát triển bền vững ở Việt Nam, Dự án VIE/01/021, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội 2006. Đối với Cà Mau, vào năm 2005 nhóm nghiên cứu đề tài khoa học trọng điểm cấp Bộ của Trường Đại học Kinh tế t/p Hồ Chí Minh do GS.TS Hoàng Thị Chỉnh làm chủ nhiệm, đã thực hiện đề tài “Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Cà Mau theo hướng phát triển bền vững”. Đề tài đã nghiên cứu, đánh giá tiến trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của tỉnh Cà Mau theo quan điểm phát triển nông nghiệp bền vững và đề xuất các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp tỉnh Cà Mau theo hướng bền vững. Phát triển bền vững là một định hướng rất quan trọng và mang tính cấp thiết của Nhà nước ta, tuy nhiên việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững cho từng ngành hoặc từng vùng là không đơn giản vì ngoài việc phải duy trì tính bền vững của bản thân còn phải tính đến mối tương tác lẫn nhau khá phức tạp. Và tuy có nhiều đề tài, công trình nghiên cứu về lý luận phát triển bền vững nhưng đề tài nghiên cứu về phát triển bền vững cho một ngành cụ thể nào đó thì còn rất ít. Từ đó, tác giả đã chọn đề tài là “Giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau” với mong muốn là nhằm giải quyết những vấn đề mang tính bức bách hiện nay là phát triển bền vững (vấn đề có tính chiến lược của Việt Nam) với một ngành cụ thể là thủy sản (một ngành kinh tế mũi nhọn và cũng rất nhạy cảm với môi trường) và đối tượng giải quyết là địa bàn tỉnh Cà Mau (một địa phương có tiềm năng lớn về phát triển thủy sản cả khai thác, nuôi trồng và chế biến xuất khẩu thủy sản). 3. Mục tiêu của luận án. Nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận cơ bản về phát triển bền vững ngành thuỷ sản, đề xuất các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững ngành thuỷ sản và áp dụng để phân tích, đánh giá và đề xuất các giải pháp phát triển bền vững thuỷ sản của tỉnh Cà Mau. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Luận án áp dụng các cơ sở lý thuyết về phát triển bền vững ngành thuỷ sản vào một tỉnh có tiềm năng phát triển thuỷ sản cả nuôi trồng và đánh bắt vào loại lớn của Việt Nam, cụ thể là tỉnh Cà Mau. Phân tích thực trạng được lấy số liệu từ năm 1997 đến năm 2007. Về định hướng phát triển, dự báo cho thời kỳ đến năm 2020. Đối tượng nghiên cứu tập trung vào đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản của tỉnh Cà Mau. 5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu. Luận án sử dụng các cách tiếp cận sau: - Cách tiếp cận hệ thống, liên ngành, liên vùng. - Cách tiếp cận kinh tế môi trường. - Cách tiếp cận hệ sinh thái. - Cách tiếp cận cộng đồng. Trên cơ sở các cách tiếp cận trên, luận án sử dụng các phương pháp chủ yếu sau đây: - Phương pháp phân tích hệ thống - Phương pháp thống kê. - Phương pháp so sánh. - Phương pháp ngoại suy. - Phương pháp chuyên gia. - Phương pháp điều tra xã hội học: thực hiện việc quan sát thực tế, phỏng vấn, lấy ý kiến các địa phương trong tỉnh và trực tiếp khảo sát các hộ nông dân và các chủ tàu khai thác hải sản. Tài liệu nghiên cứu bao gồm các số liệu thống kê, các tư liệu điều tra kinh tế-xã hội của Cục Thống kê Cà Mau; tư liệu của Bộ Thủy sản, Sở Thủy sản Cà Mau và các ngành, các cấp trong tỉnh cùng các tư liệu của các cơ quan nghiên cứu khác. Luận án kế thừa và phát triển kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây. 6. Những đóng góp khoa học và điểm mới của luận án. - Hệ thống hoá lý luận về phát triển bền vững. - Xây dựng quan niệm về phát triển bền vững ngành thủy sản và đề ra các tiêu chí đánh giá. - Đánh giá hiện trạng phát triển ngành Thủy sản Cà Mau, đây là đề tài đầu tiên phân tích trên ba góc độ bền vững về kinh tế, xã hội, môi trường và trong từng lĩnh vực: khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản và chế biến thủy sản. -Luận án đã đề xuất được một hệ thống quan điểm, định hướng và giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau. 7. ết cấu của luận án. Tên luận án: “Giải pháp phát triển bền vững thủy sản trên địa bàn tỉnh Cà Mau”. Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, nội dung của luận án được chia làm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển bền vững thủy sản ở Việt Nam. Chương 2: Đánh giá hiện trạng phát triển ngành Thủy sản tỉnh Cà Mau theo hướng phát triển bền vững. Chương 3: Định hướng và giải pháp phát triển bền vững ngành Thủy sản tỉnh Cà Mau. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng Mở đầu Chương 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM 1 1.1. Lý luận về phát triển phát triển bền vững 1 1.2. Phát triển bền vững ngành thủy sản 13 1.3. Kinh nghiệm quốc tế về PTBV ngành thủy sản và định hướng phát triển bền vững thủy sản ở Việt Nam 35 Chương 2 - ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN TỈNH CÀ MAU THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 52 2.1. Tiềm năng và vị trí của ngành thủy sản tỉnh Cà Mau 52 2.2. Đánh giá hiện trạng phát triển thủy sản Cà Mau theo hướng phát triển bền vững 58 Chương 3 - ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NGÀNH THỦY SẢN TỈNH CÀ MAU 125 3.1. Định hướng phát triển bền vững thủy sản Cà Mau 125 3.2. Các giải pháp để đạt mục tiêu phát triển bền vững ngành thủy sản tỉnh Cà Mau 133 Kết luận 196 Danh mục công trình của tác giả Tài liệu tham khảo Phụ lục 1 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG THỦY SẢN Ở VIỆT NAM 1.1. LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1.1.1. Bản chất của phát triển bền vững 1.1.1.1. Quá trình hình thành quan điểm phát triển bền vững Trên thế giới Trải qua quá trình tiến hóa hàng triệu năm con người mới đạt đến trình độ văn minh như hiện nay. Nhưng xã hội văn minh này lại đang gánh lấy những khó khăn và thách thức tự nó mang lại như: dân số tăng nhanh (nghèo đói, thất nghiệp, bệnh tật, ... ), tài nguyên môi trường cạn kiệt (đất đai thoái hóa, diện tích rừng mất dần, đa dạng sinh học giảm,... ), ô nhiễm môi trường ngày càng tăng cả đất, nước, không khí, ... Như vậy vấn đề đặt ra là phải làm sao giữ lấy thành quả đã qua và tiếp tục phát triển, đồng thời phải ngăn chặn, hạn chế các ảnh hưởng tiêu cực có thể xảy ra trong quá trình phát triển. Từ đó, phát triển bền vững đã trở thành xu thế tất yếu, là vấn đề sống còn của con người. Thời gian qua, đã có nhiều học thuyết và có nhiều hội nghị thượng đỉnh thế giới đã được tổ chức để bàn về vấn đề này. Học thuyết Mác đã có quan điểm rất biện chứng về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và đã khẳng định con người là một bộ phận không thể tách rời của giới tự nhiên. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hóa đã xuất hiện con người. Quá trình phát triển xã hội loài người cũng chính là quá trình con người tác động ngược lại vào giới tự nhiên, khai thác và cải tạo giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Để giữ được môi trường tồn tại và phát triển, con người phải nhận thức và sử dụng những quy luật tự nhiên một cách có hiệu quả, tức phải biết khai thác, sử dụng và gìn giữ, tái tạo các nguồn lợi của tự nhiên. Nếu con người 2 bất chấp quy luật, chỉ biết khai thác triệt để những cái có sẵn trong tự nhiên thì sẽ làm nghèo đi giới tự nhiên và dẫn đến phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội. Ăngghen đã cảnh báo về “sự trả thù của giới tự nhiên” khi bị tổn thương. Nếu con người khai thác quá mức hoặc tàn phá giới tự nhiên bao nhiêu thì sau này con người sẽ gánh lấy hậu quả của nó bấy nhiêu, đó chính là lúc tự nhiên “trả thù” lại con người. Như vậy, mọi diễn biến về môi trường đều bắt đầu từ phát triển. Việc giải quyết mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển là phải chấp nhận phát triển nhưng phải giữ cho phát triển không tác động xấu đến môi trường, sinh thái. Môi trường phải là nơi tạo cho con người một không gian sống với phạm vi và chất lượng tiện nghi cần thiết, cung cấp cho con người các tài nguyên cần thiết để sản xuất, sinh sống. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, sau những thất bại do sự phát triển riêng lẻ của từng bộ phận thuộc hệ thống kinh tế - xã hội đã xuất hiện lý thuyết phát triển đồng bộ, lý thuyết phát triển cân đối. Tuy nhiên trên thực tế, thị trường không phải lúc nào cũng có thể phát triển đồng bộ và cân đối. Và cũng chính do để đạt được những mục tiêu phát triển, con người đã tiến hành thực hiện sự phát triển ồ ạt, đồng loạt ở khắp nơi trên thế giới và mặc dù có tính tới yêu cầu đồng bộ, cân đối nhưng cũng đã dẫn tới sự tổn hại về tài nguyên môi trường như sự phá vỡ tầng ôzôn, sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên, sự gia tăng dân số và ô nhiễm môi trường,... Để nhằm giải quyết được những nhược điểm của quá trình phát triển theo các lý thuyết trên đã xuất hiện quan điểm phát triển bền vững. Đây là sự lựa chọn cách thức phát triển nhằm đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không được làm phương hại đến việc thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai. Lý thuyết phát triển bền vững dựa trên nguyên lý bảo tồn giá trị tài nguyên môi trường. Theo nguyên lý này, mọi đền bù đòi hỏi sự chuyển giao cho thế hệ tương lai một nguồn tài nguyên thiên nhiên không nhỏ hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên mà thế hệ hiện nay đang có. Như vậy 3 việc sử dụng tài sản Kn (nguồn vốn thiên nhiên, tức nguồn tài nguyên thiên nhiên) cần phải được đền bù bằng cách tạo ra một nguồn Km (nguồn vốn nhân tạo, tức nguồn tài nguyên do con người tạo ra) ngang với giá trị của chúng, hay nói khác khi khai thác một nguồn lợi thiên nhiên nào đó thì phải có sự đền bù, thay thế tương ứng. Vấn đề khó đặt ra là phát triển đến ngưỡng nào là vừa và theo quan điểm của một số người thì việc thực hiện lý thuyết này có thể làm chậm tốc độ phát triển kinh tế trên thế giới. Đây là vấn đề thời sự rất sôi động hiện nay và cần tiếp tục xem xét, cần được lượng hóa và cần có những quy chế rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, nhìn chung việc vận dụng lý thuyết phát triển bền vững vào việc xây dựng định hướng phát triển kinh tế xã hội là điều quan trọng, cần thiết và cấp bách để đảm bảo phát triển lâu dài. Trong lịch sử của nhân loại, con người luôn vươn tới cái mới, cái tiến bộ cả nhận thức và hành động về việc cải tạo và chinh phục tự nhiên nhằm thụ hưởng một cách tối đa nguồn lợi mà thiên nhiên mang lại. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mình, nếu con người khai thác quá mức tài nguyên, mất khả năng tái tạo, sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường như: ô nhiễm nguồn nước, không khí; mất nguồn nước ngầm và nước mặt; tai biến địa chất ngoại sinh: trượt lở đất, lũ bùn đá, lũ quét, … Vì thế tháng 6 năm 1972, Hội thảo của Liên hợp quốc về Môi trường và Con người được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển) đã đi đến những kết luận hết sức quan trọng như sau: “Việc bảo vệ và cải thiện môi trường con người là một vấn đề quan trọng tác động đến hạnh phúc của mọi người và phát triển kinh tế trên toàn thế giới”. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển được tổ chức vào tháng 6 năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin), các nhà chính trị cùng với các nhà hoạt động về kinh tế, xã hội, môi trường của 179 nước tham gia Hội nghị đã thống nhất quan điểm phát triển bền vững, coi đây là trách nhiệm chung của toàn nhân loại và đồng thuận thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro 4 với nguyên tắc cơ bản về phát triển bền vững coi con người là trung tâm của những mối quan hệ về sự phát triển lâu bền, con người có quyền được hưởng một cuộc sống hữu ích, lành mạnh và hài hòa với thiên nhiên. Mười năm sau, Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững lại được tổ chức vào tháng 9 năm 2002 ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) với sự tham gia của 109 vị nguyên thủ quốc gia và hơn 45.000 đại biểu của các nước và các tổ chức quốc tế, tổ chức xã hội, ... Tại đây, 166 nước tham gia Hội nghị đã thông qua Bản tuyên bố Johannesburg và Bản kế hoạch thực hiện về phát triển bền vững. Hai văn kiện đều nhấn mạnh phải thực hiện phát triển kinh tế trong mối liên hệ chặt chẽ với bảo đảm công bằng xã hội và bảo vệ môi trường ở tất cả các quốc gia, khu vực và toàn cầu. Từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển được tổ chức năm 1992 ở Rio de Janeiro (Braxin), đến nay đã có 113 nước trên thế giới xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững cấp quốc gia và 6.416 Chương trình nghị sự 21 cấp địa phương. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan, Singapore, Malaysia, ... đều đã xây dựng và thực hiện Chương trình nghị sự 21 về phát triển bền vững. Ở Việt Nam Ngay từ đầu những năm 90, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991 về “Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991 - 2000”, tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam. Trong định hướng phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam khẳng định “Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [2]. 5 Quan điểm phát triển bền vững cũng được thể hiện rõ trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 như sau: ”Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế - xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện mội trường, bảo đảm sự hài hòa giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học” [27]. Báo cáo tại Hội nghị Rio de Janeiro và Hội nghị Johannesburg đã thể hiện rõ quan niệm của Chính phủ Việt Nam về môi trường và phát triển bền vững, đó là để phát triển lâu bền cần coi trọng giá trị môi trường và tài nguyên cũng như vấn đề khai thác hợp lý, bảo vệ và tái tạo tài nguyên; các mục tiêu về kinh tế, xã hội và môi trường phải được phối hợp để giải quyết một cách hài hòa trong kế hoạch quốc gia, ngành và địa phương; việc bảo vệ và phát triển các hệ sinh thái rừng, khu bảo tồn, vườn quốc gia, di sản thiên nhiên thế giới, bảo vệ tính đa dạng sinh học phải được thực hiện; quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và phát triển nông nghiệp cần phòng ngừa ô nhiễm và suy thoái môi trường; có chính sách về giảm thiểu tai biến, bảo vệ môi trường. Để giải quyết vấn đề môi trường và phát triển trong mỗi quốc gia và trên phạm vi toàn cầu, Việt Nam cho rằng các quốc gia và cộng đồng quốc tế cần tập trung xây dựng một trật tự kinh tế mới công bằng, trong đó các nước đang phát triển cần được giúp đỡ. Việt Nam cam kết thực hiện bảo vệ môi trường và phát triển lâu bền trên đất nước mình. Việt Nam cũng chủ trương mở rộng và tăng cường hợp tác khu vực và quốc tế nhằm mục tiêu phát triển lâu bền cho Việt Nam nói riêng và góp phần cho sự phát triển lâu bền khu vực và thế giới nói chung. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, Chính phủ Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các Công ước quốc tế về vấn đề môi trường và phát triển bền vững. Trong “Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam” [38] cũng đã thể hiện quan điểm phát triển bền vững của Chính phủ Việt Nam một cách rõ 6 ràng, cụ thể hơn qua việc xác định mục tiêu ở 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. “Bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững ... và cần khắc phục tư tưởng chỉ chú trọng phát triển kinh tế - xã hội mà coi nhẹ bảo vệ môi trường, đầu tư cho bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển bền vững” [3]. Mục tiêu phát triển bền vững về kinh tế là đạt được sự tăng trưởng ổn định với cơ cấu kinh tế hợp lý, đáp ứng được yêu cầu nâng cao đời sống của nhân dân. Mục tiêu phát triển bền vững về xã hội là đạt được sự tiến bộ và công bằng xã hội, chăm sóc sức khỏe và học hành ngày càng nâng cao, hạn chế khoảng cách giàu nghèo và giảm đói nghèo, giảm các tệ nạn xã hội, ... Mục tiêu phát triển bền vững về môi trường là khai thác hợp lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, hạn chế ô nhiễm môi trường và bảo vệ tốt môi trường sống; bảo vệ các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển và bảo tồn sự đa dạng sinh học. Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam được xây dựng trên 8 nguyên tắc cơ bản, trong đó đã khẳng định con người là trung tâm của phát triển bền vững, phát triển con người nhằm tạo một lực lượng lao động khỏe mạnh, được giáo dục tốt và có kỹ năng để làm nền tảng cho sự phát triển đất nước và mục tiêu cuối cùng của sự phát triển cũng là để con người có một cuộc sống đầy đủ cả về vật chất lẫn tinh thần; đồng thời Việt Nam coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, kết hợp hài hòa với phát triển xã hội, sử dụng hợp lý và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Như vậy, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước, là sự nghiệp to lớn và lâu dài, là trách nhiệm của cả dân tộc ta. Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đã được ban hành; đã có nhiều chương trình đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất