Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp nâng cao thị phần tiêu thụ chè trên thị trường quốc tế của tổng công t...

Tài liệu Giải pháp nâng cao thị phần tiêu thụ chè trên thị trường quốc tế của tổng công ty chè việt nam

.DOC
64
187
96

Mô tả:

§Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT PHẦN I: LỜI NÓI ĐẦU Bước sang thế kỷ mới , thế kỷ 21 với nhiều thành tựu về Văn Hoá - Xã Hội cũng như Kinh Tế - Chính trị . Đất nước ta đang ngày càng đổi mới , mọi người , mọi nhà đang tích cực hăng say cùng nhau xây dựng một đất nước Việt Nam giàu đẹp văn minh . Chúng ta đang cố gắng từng bước , từng vững chắc để tiến lên một nước Công Nghiệp Hoá - Hiện Đại Hoá . sắp tới đây khi chúng ta đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) một cơ hội mới đang mở ra trước mắt cho đất nước chúng ta . Các doanh nghiệp kể cả nhà nước cũng như tư nhân có nhiều cơ hội hơn cho sự phát triển củ mình . Đặc biệt hiện nay ở nước ta các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế . Nó chiếm vai trò chủ đạo và là động lực thúc đẩy thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Nhận thấy vai trò quan trọng của các doanh nghiệp này trong sự phát triển nền kinh tế , thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chủ trương và biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển và nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước . Trong đó việc đưa ra các giải pháp về tiêu thụ và chế biến trong nước cũng như quốc tế của các công ty là một trong những vấn đề trọng tâm của chương trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam . Để thực hiện có hiệu quả chương trình này , Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương và biện pháp nhằm thúc đẩy các công ty cũng như Tổng công ty thực hiện tốt mục tiêu và nhiệm vụ của mình .Hiện nay , việc nâng cao thị phần tiêu thụ sản phẩm của các công ty ở trong nước cũng như quốc tế đã có những bước chuyển biến quan trọng , nhiều doanh nghiệp đã khẳng định được vị trí của mình , thích ứng với cơ chế thị trường , ổn định và phát triển , góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng của nền kinh tế nước nhà , đưa nước nhà từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới . Nhận thức được đây là một chủ trương tạo nên sức mạnh mới cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng . Nhất là Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT chúng ta đang trong quá trình thai nghén , cố gắng đàm phán từng bước để gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO )trong năm này . Tổng Công Ty chè Việt Nam đã triển khai thực hiện việc đổi mói , sắp xếp cũng như định hướng phát triển thị trường một cách mạnh mẽ nhằm tạo nên sức mạnh mới cho sự phát triển của Tổng Công Ty nói riêng và của toàn ngành chè nói chung .Qua thời gian được thực tập tại Tổng công ty chè Việt Nam , được sự chỉ bảo và giúp đỡ tận tình của Bác Nguyễn Khắc Thịnh Chánh Văn Phòng Tổng Công Ty chè Việt Nam và thầy Phạm Ngọc Linh giáo viên hướng dẫn , em đã quyết định chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao thị phần tiêu thụ chè trên thị trường quốc tế của Tổng Công Ty chè Việt Nam “ với mục đích được tìm hiểu kỹ hơn về thị trường xuất khẩu cũng như thị phần tiêu thụ chè của công ty trên thị trường thé giới . Do kiến thức và thời gian có hạn , bài viết khó tránh khỏi những sai sót em mong nhận được những góp ý của thầy giáo để bài viết được hoàn thiện hơn . Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy Phạm Ngọc Linh và Bác Nguyễn Khắc Thịnh đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành bài viết này . Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT PHẦN II: NỘI DUNG CHƯƠNG I: HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ VỚI NGÀNH CHÈ VIỆT NAM I. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGÀNH CHÈ VIỆT NAM 1. Vài nét về cây chè việt nam Chè là một cây công nghiệp lâu năm , trồng một lần có thể cho thu hoạch nhiều năm , từ 30-50 năm . Người ta trồng chè chủ yếu lấy búp non , đó là những búp chè một tôm 2-3 lá non. Từ búp chè , tuỳ theo cách chế biến và công nghệ chế biến chúng ta có được các laọi ché khác nhau : chè xanh , chè đen , chè vàng , chè đỏ , chè hoà tan nhanh , chè xi rô ..... Trong lá chè có nhiều sinh tố và chất kích thích hoạt động cơ thể con người , có cả chất chống phóng xạ . chè xanh có thể giúp giảm lượng colesteron , điều hoà huyết áp , tăng cường mao dẫn , hạn chế boé phài và là một thứ thuốc lợi tiểu tốt . Đặc biệt sử dụng chè có khả năng ngăn ngừa bệnh ung thư , bệnh bạch hầu và bệnh SIDA . Uống nước chè còn có khả năng kéo dài tuổi thọ . do đó nước chè là một loại nước uống cần thiết cho con người . Giờ đây nước chè đã trở thành một phần chính không thể thiếu được sau mỗi bữa ăn của nhiều gia đình ở các nước trên thế giới . Ở việt nam , từ lâu nước chè đã đi vào cuộc sống hàng ngày của moị người dân . Uống nước chè đã trở thành tập quán , chè đã trở thành người bạn tri âm , tri kỷ , đã gắn bó với mọi người dân . Hiện nay trên thế giới có khoảng 95 nước uống chè . chỉ tính riêng 12 nước nhập khẩu chè nhiều nhất thế giới , hàng năm đă nhập trên 1,15triệu tấn , trong khi đó chỉ có 28 nước có điều kiện tự nhiên trồng chè . Việt nam là một trong những nước có điều kiện khí hậu và đất đai thuận tiện cho cây chè phát triển , do đó cây chè được phát triển rất sớm . Trên đỉnh cao Suối Giàng tỉnh Nghĩa Lộ hiện nay có những cây chè tuyết cổ thụ có độ tuổi từ 300- 400 năm tuổi , được đồng bào H'Mông trồng , chăm sóc , thu hái từ lâu đời , có Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT cây hai người ôm không xuể . Điều này cho thấy rằng cần phát triển một ngành chè vững mạnh nói chung và Tổng công ty chè nói riêng . 2. Lịch sử hình thành và phát triển của cây chè việt nam Theo thư tịch cổ việt nam , cây chè đã có từ xa xưa dưới 2 dạng : cây chè vườn hộ gia đình vùng châu thổ sông hồng và cây chè ở miền núi phía bắc Lê Quý Đôn trong sách " vân đài loại ngữ " ( 1773 ) có ghi trong mục IX , phẩm vật như sau : ".....cây chè đã có ở mấy ngọn núi Am thiêm , Am Giới và Am Các , huyện Ngọc Sơn tỉnh Thanh Hoá , mọc xanh um đầy rừng thổ nhân hái lá chè đem về giã nát ra , phơi trong râm , khi khô đem nấu nược uống , tính hơi hàn , uống vào mát tim phổi . giải khát , ngủ ngon , hoa và nhị chè càng tốt , có hương thơm tự nhiên ...." Năm 1882 , các nhà thám hiểm pháp đã khảo sát về sản xuất và buôn bán chè gữa Sông Đà và Sông Mê Kông ở miền núi phía bắc Việt Nam , từ Hà Nội ngược lên phía cao nguyên Mộc Châu , qua Lai Châu , đến tận Ipang vùng xipxoongpảnnản ( Vân Nam ) , nơi có những cây chè đại cổ thụ . " Hàng ngày những đoàn thồ lớn 100-200 con lừa , chất đầy muối và gạo khi đi và nặng trĩu chè khi về . Ipang nổi tiếng về chất lượng chè đạt mức ngự trà cống nộp . cho hoàng đế Trung Hoa . Loại chè cao cấp này không bán ngoài thị trường ...và ai cũng cố giữ lại môtị phần nhỏ . , mặc dù có nguy cơ bị trừng trị nặng nề . tôi đã thấy một nắm chè loại này màu trắng ngà , bao gồm những cánh chè rất nhỏ và rất xoăn . Vùng đât đai của Đèo Văn trị ở Lai châu , là hàng xóm láng giềng gần gũi của Ipang , vùng Xíp xoongpảnnan " Sau những chuyến khảo sát rừng chè cổ ở tỉnh Hà Giang Việt Nam (1923 ) , và tây nam Trung Quốc ( 1926 ) , các nhà khoa học Pháp và Hà Lan đã viết " ...những rừng chè , bao giờ cũng mọc trên những sông lớn như sông Dương Tử , sông Tsi Kiang ở Trung quốc , sông Hồng ở Vân Nam và Bắc kỳ Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT ( Việt Nam ) , sông Mê Kông ở Vân Nam , Thái Lan và Đông Dương sông salouen và irrawađi ở Vân Nam và Mianma , sông Bramapoutro ở Assam . " Năm 1976 , viện sĩ thông tấn viện hàn lâm khoa học Liên Xô , sau những nghiên cứu về tiến hoá của cây chè , bằng cách phan tích chất catesin trong chè mọc hoang dại , ở các vùng chè Tứ xuyên , Vân Nam Trung quốc , và các vùng chè cổ việt Nam ( suối Giàng , Nghĩa Lộ , Lạng Sơn , Nghệ An . đã viết : .....cây chè cổ Việt Nam , tổng hợp các catêchin đơn giản nhiều hơn cây chè Vân Nam . ... từ đó có sơ đồ tiến hoá cây chè thế giới sau đây " camellia -> chè Việt Nam -> chè Vân Nam lá to -> chè Trung Quốc -> chè Assam ( ấn độ )" Tóm lại, đến nay các nhà khoa học thế giới đã xác nhận: Đại thể cây chè phát nguyên từ 1 vùng sinh thái hìng cái quạt, giữa các ngọn đồi Naga, Manipuri và Lushai, dọc theo đường biên giới giữa Assam và Mianma ở phía tây, ngang qua Trung Quốc ở phía đông và theo hướng nam chạy qua các ngọn đồi của Mianma và Thái Lan vào Việt Nam, trục tây đông từ kinh độ 95 độ đến 120 độ đông, trục bắc nam từ vĩ độ 29 độ đến 11 độ bắc. - Chè Việt Nam phát triển qua các trời kỳ sau : a. Thời kỳ trước 1882 Từ xa xưa , người Việt Nam trồng chè dưới 2 loại hình : - Chè vườn hộ gia đình uống lá chè tươi , tại vùng chè Đồng Bằng Sông Hồng ở Hà Đông , chè đồi ở Nghệ An - chè rừng vùng núi , uống chè mạn , lên men 1 nửa , như vùng Hà Giang , Bắc Hà... b. Thời kỳ năm 1882- 1945 Ngoài 2 loại chè trên . xuất hiện mới 2 loại chè công nghiệp chè đen công nghệ truyền thống OTD và chè xanh sao chảo Trung Quốc . Bắt đầu phát triển những đồn điền chè lớn tư bản Pháp với thiết bị công nghệ hiện đại . Người dân Việt Nam , sản xuất chè xanh tại hộ gia đình và tiểu doanh Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT điền . Chè đen xuát khẩu sang thị trường Tây Âu , chè xanh sang thị trường Bắc Phi là chủ yếu . Diện tích chè cả nước là 13305 ha , sản lượng 6.000 tấn chè khô/ năm . c. Thời kỳ độc lập ( 1945 - nay ) - Sau 1945 , nhà nước xây dựng các nông trường quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp trồng chè , chè đen OTD xuất khẩu sang Liên Xô - Đông Âu , và chè xanh xuất khẩu sang Trung Quốc . - Đến hết 2004 tổng diện tích chè là 120.000 ha và hơn 90.000 ha là chè kinh doanh , tổng số lượng chè sản xuất là 105.000 tấn sản lượng xuất khẩu chè của cả nước đạt 961.000 tấn , trong đó xuất khẩu đạt 90 triệu USD . * ) Các vùng chè ở Việt Nam : Việt Nam nằm trongvùng gió mùa Đông Nam á , cái nôi của cây chè . - khí hậu đất đai rất thích hợp với sinh trưởng cây chè . Lượng nước mưa dồi dào 1700 - 2000 mm/năm . nhiệt độ 21-22,6 0C , ẩm đọ không khí 80-85% . Đất đai trồng chè gồm 2 loại phiến thạch sét và bagian màu mỡ . - chè trồng ở vĩ tuyến B 11.5-22.5 chia thành 3 vùng : vùng thấp dưới 300m , vùng giữa 300-600m , vùng cao 600-trên1000m , nênchát lượng chè rất tốt . - Giống chè bản địa gồm 2 giống Trung Du và shan miền núi có búp nhiều lông tuyết trắng , được thị trường quốc tê rất ưa chuộng . Ngoài ra còn những giống chè tốt làm chè đen , chè xanh , chè ôlong , nội nhập của Trung Quốc , Đài Loan , Nhật Bản , ấn Độ và srilanka , inđônêxia . 3. Tình hình sản xuất kinh doanh chè trong thời gian qua Năm 2002 là một năm tương đối khó khăn đói với ngành chè, thời tiết khô hạn trong 5 tháng đầu năm làm cho năng suất , chất lượng chè giảm sản lượng xuát khẩu sang các thị trường giảm sút . Đặc biệt là thi trường iraq giảm hơn 8.000 tấn so với năm 2001 ( năm 2001 là 24.000 tấn ) . Kết thúc năm 2002 , Việt Nam trồng được 108.000 ha , trong đó có 87.000 ha chè kinh doanh , đứng thứ 5 thế giới về diện tích . cả nước sản xuất được gần 90.000 Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT tấn chè xuất khẩu . Trong đó xuất khẩu năm 2002 đạt 72.000 tấn , vượt 6% so với năm 2001 . Việc đầu tư ồ ạt cho các nhà máy chè , có thể nói là nhà máy mọc len như nấm , dẫn tới tình trạng mất cân đối về công suất của nhà máy với vùng nguyên liệu . ở địa phương nhiều nhà máy có công suất vượt 2-3 lần so với khả năng cung cấp nguyên liệu , vì vậy các nhà máy quay sang cạnh tranh các vung nguyên liệu với nhau dẫn tới giá thanh chè dội lên rất cao . tron khi chất lượng chè lai giảm . Điều này ảnh hưởng tới giá thành chè xuất khẩu của việt Nam trên thị trường thế giới . Năm 2003 cũng là một năm đầy biến cố đối với ngành chè của chúng ta . chiến tranh gữa Mỹ -Iraq đã làm tổn hại rất lớn đối với ngành chè Việt Nam , vì Iraq là thị trường tiêu thụ chè lớn nhât của chúng ta trong suốt thời gian qua. Thị trường nay không tiêu thụ được sản phẩm dẫn tới viẹc sản xuất cũng như tiêu thụ chè của chúng ta vào thị trường thế giới giảm đi một cách rõ rệt Nhưng sang năm 2004 thì đã có sự đổi khác , theo thông tin từ bộ thương mại trong 5 tháng đầu năm 2004 , các đối tác nhập khẩu chè lớn của Việt Nam là Anh , Đức , Nga , Hoa kỳ ....vẫn tăng lượng nhập khẩu . Bên cạnh đó nhu cầu nhập chè xanh của Nhật Bản , Trung Quốc cũng tăng , khién xuất khẩu chè của Việt Nam trong tháng tăng khá . chè Việt Nam hiện có mặt tại 59 quốc gia và vùng lãnh thổ . Đặc biệt thị trường Iraq đã đi vào phục hồi và ổ định đồng thời thị trường Trung Quốc cũng tăng trưởng vững chắc . nhu cầu tiêu thụ chè của thế giới cũng tăng rất khả quan . Theo bộ thương mại đén hết năm 2004 chúng ta đã xuát khẩu được 97.000 tấn đạt kim ngạch xuất khẩu 93 triệu USD , tăng 68% về lượng và 76% về giá trị so với 2003 . Tuy nhiên vấn đề càn khắc phục hiện nay là nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm chè đẻ đáp ứng nhu cầu của từng loại thị trường . Chẳng hạn thị trường Nhật Bản đang hứa hẹn nhiều hợp đồng xuất khẩu chè xanh lớn và ổn định , nhưng đòi hỏi phải có chất lượng cao từ nguồn nguyên liệu cho đến chế biến , nhất là chè xanh Ô Long được chế biến theo công nghệ của Nhật Bản . còn Nga thị trường tiêu thụ khoảng 160.000 tấn chè , trong đó Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT 90% chè nhập khẩu , thì thương hiệu chè của Việt Nam chưa được người dân ở đây biết đến , bởi từ trước tới nay , Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Nga chè nguyên liệu với giá thấp . II. những yêu cầu của hội nhập Ngày nay , xu thế toàn cầu hoá , khu vực hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ , thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ , mở rộng đa phương hoá , đa dạng hoá các quan hệ quốc tế . sẵn sàng là bạn , là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phán đấu vì hoà bình , độc lập và phát triển . việt nam đẵ gia nhập hiệp hội các quốc gia ĐÔNG-NAM-A (ASEAN) , tổ chức hợp tác kinh tế châu A' - Thái Bình Dương ( APEC ) , Diễn đàn hợp tác A' - Âu ( ASEM ) , Mậu dịch tự do ( AFTA ) ...và đã qua 7 vòng đàm phán , hiện đang bước vào giai đoạn cuối quá trình xúc tiến đàm phán gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) 1. Hội nhập WTO với ngành chè 1.1 . WTO là gì ? WTO là tổ chức thương mại đa phương , bắt đầu hoạt động từ ngày 11-1995 , với sự tham gia của nhiều nứoc trên thế giới , cùng áp dụng những luật lệ , quy ước chung .Mục đích xuyên suốt trong hoạt động của WTO là tự do hoá thương mại , dỡ bỏ những hàng rào do các nước lập nên nhằm bảo đảm cho những luồng hàng hoá di chuyển dễ dàng hơn từ nước nay sang nước khác trên cơ sở cạnh trnh bình đẳng . Những hàng rào đó có thể là thuế quan , giấy phép xuất nhập khẩu , các quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá , kiểm dịch , phương pháp kiểm dịch , găm giữ hàng , bán phá giá , bồi thường thiệt hại . ...nói tóm lại là WTO bảo vệ lợi ích chính đáng , đúng quy ước , luật đinh cho các nước thành viên , không phân biệt nước đó ở trong khối , khu vực nào , cũng không phải nước đó là nước có tiềm lực kinh tế mạnh hay yếu . 1.2 . Thuận lợi , khó khãn khi hội nhập WTO 1.2.1. Thuận lợi : Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT Truớc hết đó là việc giúp các nước thành viên phát triển ổn định . khách quan mà nói những người bán hàng không muốn chống lại khách hàng của mình . nói cách khác nếu việc buôn bán suôn sẻ và cả hai bên ( bán và mua ) đều có một khối quan hệ thương mại lành mạnh thì chắc chắn khả năng cùng tồn tại hoà bình , cùng có lợi sẽ bền vững hơn . hơn nữa thương mại thuận lợi cũng giúp cuộc sống người dân ở mọi nơi trên thế giới có cuộc sống khá giả hơn . niềm tin là chìa khoá giúp tránh được viễn cảnh bạo lực trên thương trường . khi các chính phủ đều tin rằng các nước khác sẽ không tăng cường các hàng rào mậu dịch thì chính họ cũng không có ý định lam như vậy . họ cũng sẽ ở trong một tâm trạng tốt hơn nhiều để cùng hợp tác . hệ thống thương mại WTO đóng vai trò sống còn trong việc tạo ra và củng cố niềm tin đó . Hai là : trong quá trình tự do hoá và đa phương hoá thương mại , dù có tích cực đến đâu cũng không tránh khỏi những cuộc tranh chấp quyền lợi lẫn nhau . nếu cứ để phó mặc thì những cuộc tranh chấp này có thể kéo dài và dẫn tới những cuộc xung đột nghiêm trọng . WTO sẽ đóng vai trò trọng tài duy nhất giả quyết các mâu thuẫn thương mại đó một cách xây dựng . từ ngày thành lập tới nay WTO đã giải quyết hơn 200 vụ tranh chấp thương mại gữa các quốc gia thành viên chứng minh đièu đó . Ba là : Hoạt động của WTO hoàn toàn dựa trên những nguyên tắc chung chứ không phải là sức mạnh , cho nên đã làm giảm bớt thật sự những bất bình đẳng , giúp cho các nước nhỏ có nhiều tiếng nói hơn , và đồng thời cũng giải thoát cho những nước lớn khỏi sự phức tạp trong những thoả thuận và các hiệp định thương mại với vô số đối tác thương mại của họ . thêm vào đó , các nước nhỏ có thể hoạt động hiệu quả hơn nếu họ tận dụng những cơ hội để thành lập các liên minh và góp chung các nguồn lực . Một vài nước cũng đã làm viẹc này . Bốn là : Thương mại tự do sẽ làm giảm bớt chi phí cuộc sống . chúng ta đều là những người tiêu dùng . giá cả mà chung ta trả cho thức ăn , quần áo , Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT những vật dụng cần thiết , những xa xỉ phẩm , và tất cả mọi thứ khác đều chịu sự tác động của chính sách thương mại . Chủ nghĩa bảo hộ dẫn đến độc quyền đắt đỏ làm tăng giá cả hàng hoá . Hệ thống toàn cầu WTO đã giảm bớt các hàng rào mậu dịc thông qua thương lượng và áp dụng các nguyên tắc không phân biệt đối xử . kết quả là chi phí sản xuất giảm ( vì hàng nhập khẩu phục vụ sản xuát rẻ hơn ) , giá hàng hóa thành phẩm và dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí cuộc sống thấp hơn . Năm là : WTO đem đến cho người tiêu dùng nhiều sự lựa chọn hơn theo đó là phạm vi đối tác , chát lượng , số lượng hàng hoá lựa chọn cũng rộng hơn . tự do hoá thương mại mở rộng cách cửa xuất , nhập khẩu cho phép chúng ta có nhiều lựa chọn hơn . thậm chí chất lượng của hàng sản xuất nội địa có thể nâng lên do chính sự cạch tranh của hàng nhập khẩu Nhiều lựa chọn hơn không đơn giản là vấn đề người tiêu dùng mua hàng thành phẩm của nước ngoài . Hàng nhập khẩu còn được sủ dụng làm nguyên liệu , linh kiện và thiết bị cho sản xuất trong nước . Điều này mở rộng phạm vi của các thành phẩm và dịch vụ do các nhà sản xuất trong nước làm , và nó làm tăng phạm vi những công nghệ mà sản phẩm dó được sử dụng . Sáu là : sự giảm bớt hàng rào thương mại tất yếu thương mại tăng trưởng , sẽ làm tăng thu nhập - cả thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân Tất nhiên đa phương hoá thương mại cũng làm nảy sinh ra những thách thức khi các nhà sản xuất trong nước phải đối mặt sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu . nhung thục tế có nguồn thu nhập bổ sung có nghĩa là sẵn có nhiều nguồn lực để các chính phủ tái phân phối lợi nhuận từ những người được lợi nhiều nhất Bảy là : Kích thích tăng trưởng kinh tế , tạo nên việc làm mới cho hàng trăm triệu người lao động thực tế cho thấy thương mại thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự tăng trưởng đó có nghĩa là có nhiều việc làm hơn . tất nhiên cũng không loại trừ mộth số việc làm bị mất đi khi thương mại mở rộng , nhưng đây chỉ là một tỷ lệ nhỏ,hiếm hoi . 1.2.2. khó khăn: Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT Chúng ta đang thực hiện những bước nước rút cuối cùng cho công cuộc gia nhập tổ chức thương mại thế giơi ( WTO ) . Thực tế mà nói một khi chúng ta gia nhập được tổ chưc này thì việc mở rộng hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới cũng như các quốc gia trong khối ASEAN ngày càng thuận lợi hơn . Nhưng bên cạnh đó vì là một nước đang trong giai đoạn phát triển lên con đường công nghiệp hoá , hiện đại hoá đồng thời lại vừa mới chập chững bước vào WTO ắt hẳn sẽ gặp không ít khó khăn thử thách . Những khó khăn đấy không chỉ là bó hẹp trong một ngành , một lĩnh vực mà là trong toàn bộ nền kinh tế nói chung . WTO đem đến cho người tiêu dùng nhiều sự lụa chọn hơn , theo đó là phạm vi đối tác , chất lượng , số lượng hàng hoá để lựa chọn cũng rộng hơn . Tự do hoá thương mại , mở rộng cách của xuất , nhập khẩu cho phép chúng ta có nhiều sự lựa chọn hơn . Thậm chí chất lượng của hàng hoá sản xuất nội địa có thể nâng lên do chính sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu . Một số ngành kinh tế nói chung và Ngành chè nói riêng là một ngành kinh tế còn non trẻ , sản phẩm của chúng ta chưa gây được tiếng vang lớn trên thị trường trên thế giới . các sản phẩm cũng đạt chất lượng chưa cao , nhiều lúc không đáp ứng đựoc những yêu cầu của các thị trường lớn và khó tính như : Trung Đông, EU ....Mặt khác hiện nay trên thế giới cũng có nhiều loại chè phổ biến và nổi tiếng , được mọi người ưa dùng như : lipton , Dimah ...Do đó khi chúng ta hội nhập WTO các sản phẩm chè cũng như các mặt hàng khác không tránh khỏi việc bị các sản phẩm cuả các nước khác chèn ép . Việc nỗ lực gia nhập WTO của chúng ta đã là một điều khó khăn , đến khi gia nhập được và tạo cho sản phẩm của mình một chỗ đứng còn là khó khăn hơn gấp nhiều lần . Hiện nay trên thế giới có rất nhiều sản phẩm chè nổi tiếng do đó chúng ta phải tạo dựng được thương hiệu chè Việt Nam trên thị trường quốc tế thì lúc đó các sản phẩm của chúng ta mới vững mạnh và gây được tiếng vang trên trường quốc tế . 2. Hội nhập AFTA vời ngành chè Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT 2.1. AFTA là gì ? Ngày 28 tháng 7 năm 1995 , Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hiệp hội các nước Đông Nam á ( ASEAN ) và việc tham gia của Việt Nam vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) là một tất yếu , không những vì Việt Nam là một thành viên của ASEAN mà còn do các tác động tíc cực của nó đối với sự phát triển kinh tế của đất nước ta . Việc hội nhập vào AFTA sẽ tạo điều kiện hình thành những mối quan hệ kinh tế rộng mở hơn giữa nền kinh tế của Việt Nam với khuôn khổ kinh tế chung của khu vực và thế giới .Đây chính là cơ hội mới để nền kinh tế Việt Nam bắt kịp với xu hướng vận động chung của khu vực và thế giới . tìm ra tiếng nói chung gữa cộng đồng quốc tế mà trước hết là các nước trong khối mậu dịch tự do AFTA mở ra một thế vững vàng hơn trong quan hệ kinh tế của Việt Nam với liên minh khác , đặc biệt là với liên minh Châu Âu ( EU ) , với khu vực tự do mậu dịch Bắc Mỹ ( NAFTA ) , cũng như với tổ chức thương mại thé giới ( WTO ) và với diễn đàn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương ( APEC ) . Hơn nữa hội nhập vào AFTA còn là điều kiện đẻ Việt Nam đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá phấn đấu đưa Việt Nam thành một nước công nghiệp vào năm 2020 . 2.2. Thuận lợi , khó khãn khi hội nhập afta a. Thuận lợi : Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN là sự kiện đánh dấu bước phát triển mới của của Việt Nam trong quan hệ quốc tế để hôị nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới . Đồng thời đây cũng là sự kiện chính trị quan trọng của Việt Nam và các nước trong khu vực . Trọng tâm của việc hình thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA ) là nhằm thúc đẩy sự hợp tác kinh tế và phát triển thương mại . thực hiên chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT là hình thành một thi trường thống nhất cho mọi thành viên . Việc tham gia vào chương trình này là điều kiện thuận lợi để tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại , thúc đẩy nhanh chóng quá Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nứoc . khi các nước cắt giảm dầm thuế thì hàng hóa của Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để thâm nhập vào khu vực thị trường rộng lớn . Tham gia AFTA , Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của AFTA . Hiện nay , khoảng 30% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là từ các nước thành viên của ASEAN các mặt hàng được chúng ta ưu tien nhập về là máy móc , thiết bị và nguyên liẹu phục vụ cho nhu cầu sản xuất công nghiệp mà Việt Nam chưa tự đáp ứng được hay chi phí quá cao . Tham gia vào AFTA các mặt hàng này sẽ được giảm thuế nhập khẩu từ mức 0-5% . Như vậy , diện các mặt hàng nhập khẩu được mở rộng nhanh chóng . Hơn nữa , do cơ cấu các danh mục tham gia CEPT bao gồm cả hàng nông sản thô và cả nống sản chế biến nên nếu Việt Nam tăng cường sản xuát hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích cho các doanh nghiệp thúc đẩy sản xuất các loại mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN và các nước ngoài khu vực , từ đó phát huy được lợi thế so sánh tuyệt đối của Việt Nam trong việc sản xuất các loại hàng hoá này với nước khác . Mặt khác ASEAN còn là cầu nối để Việt Nam tiếp cạn với thị trường thế giới , ít bị phụ thuộc vào một số thị trường lớn , khó tính như Nhật Bản , Tây Âu . Tham gia vào AFTA , Việt Nam có điều kiện thay đổi cơ cáu kinh tế , nhất là cơ cáu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá chú trọng vào xuất khẩu , tăng tỷ trọng hàm lượng kỹ thuật trong hàng hoá xuát khẩu Tham gia AFTA Việt Nam có cơ hội để phát triẻn sản xuất công nghiệp , thương mại , dịch vụ và nông nghiệp tạo nên cơ cấu kinh tế thích hợp , đồng thời thúc đẩy sự cạch tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường khu vực và thế giới . Một trong những cái lợi của Việt Nam khi tham gia vào AFTA là đầu tư nước ngoài sẽ tăng lên , ngành công nghiệp ché biến Việt Nam có điều kiện để xuất khẩu mạnh sang thị trường ASEAN . các nhà đầu tư nứoc ngoài đầu Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT tư vào Việt Nam sẽ tính đến rhị trường hàng công nghiệp chế biến xuất khẩu cho thị trường ASEAN , để hưởng lợi từ AFTA . Hiện nay một số nước ASEAN như singapore , philippine , Malaysia ....đang mất đi lợi thế về nguồn lao động rẻ , do đó họ đang chuyển một ngành sản xuất tiêu tốn nhiều lao đông sang Việt Nam như sản xuát giày dép , quần áo , hàng công nghiệp nhẹ ...họ quan tâm tới Việt Nam , đến thị trường hơn 80 triệu dân . b. Khó khăn : Tham gia vào AFTA đồng nghĩa với viêc chúng ta phải thừa nhận tự do hoá thương mại , tự do hoá lưu chuyển hàng hoá trong nước và khu vực . Tham gia vào AFTA các chỉ số kinh tế của ta đều thấp hơn các nước trong khối . các nước như Thai Lan , Singapore , philippin ...đều đã hoàn thành giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá . Hiện nay sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam còn kếm nếu so sánh về giá cả và chất luợng . Hàng nhập ngoại tràn vào sẽ dẫn tới tình trạng rất nhiều ngành công nghiệp địa phương không cạnh tranh được , sản xuất ra không tiêu thụ được , tiêu biểu như một số ngành dệt may , giày dép điện gia dụng , hàng công nghiệp nhẹ ....cơ cấu sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam và một số nước trong khu vưc ASEAN còn quá giống nhau . có rất nhiều mặt hàng mà ta sản xuất được thì các nước bạn hàng ASEAN cũng đều sản xuất được nên dẫn tới sự cạnh tranh trực tiếp gay gắt không những trên thị trường Việt Nam , ASEAN mà còn cả thị trường ngoài ASEAN. Trước sức ép của thị trường do hàng rào thuế quan giảm đòi hỏi chúng ta điều chỉnh lai cơ cấu sản xuất , làm sao cho các mặt hàng không đủ sức cạnh tranh phải đổi mới công nghệ cải tiến kỹ thuật để hàng hoá sản xuất ra đủ sức cạnh tranh , tạo sự liên kết sản xuất gữa các ngành . ở cấp độ vĩ mô , chính phủ cần có chiến lược ưu tiên đầu tư cho các ngành sản xuất có khả năng tạo ra được những sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường ASEAN . Tham gia vào ASEAN sẽ tác động trực tiếp tới giá cả của hàng hoá cùng với việc cắt giảm thúe quan , đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu thì giá Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT cả hàng hoá sẽ hạ . Hiện nay hoàng hoá của chúng ta còn chịu nhiều loại thuế và các chi phí khác không cần thiết ,thêm vào đó là trình độ quản lý của chúng ta còn nhiều hạn chế . chính những điều này góp phần đẩy hàng hoá của Việt Nam cao hơn so với sản phẩm cùng loại của nhiều nước trong khu vực . chính vì vậy vấn đề đặt ra đói với nhiều doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay là phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu , loại bỏ những chi phí không cần thiết , nâng cao trình độ quản lý của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp , tập trung xuất khẩu những hàng hoá nằm trong danh mục cắt giảm thuế CEPT . có như vậy thì các doanh nghiệp mới có điều kiện để phát triển , có lợi về giá cả hàng hoá khi xuất khẩu sang thị trường ASEAN . Hội nhập vào thị trường ASEAN , một thách thức đặt ra đối với chúg ta là vừa có thể xây dựng được một chính sách quản lý nhà nước thích hợp nhằm bảo đảm một " sân chơi bình đẳng " cho các doanh nghiệp trong nước và khu vực nhưng lại không mất đi chức năng quản lý nhà nước về thương mại . đơn giản hoá các thủ tục hành chính vá hàng hoá của Việt Nam có thể xâm nhập vào thị trường ASEAN một cách nhanh chóng hơn , hiệu quả hơn . 2.3. điều kiện hội nhập afta với ngành chè Trong giai đoạn đầu của hội nhập , Việt Nam cần xuất nhập khẩu những mặt hàng , những sản phẩm tạo điều kiện bổ sung kinh tế giữa các quốc gia như xuất khẩu gạo , chè , dầu mỏ , thiếc và nhập khẩu các thiết bị , máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp , công nghiệp chế biến , sản xuất hàng tiêu dùng , sản phẩm hoá chất , công nghệ sản xuất xe máy ... Thực hiện việc cắt giảm nhanh các mặt hàng trong quan hệ mậu dịch của khối vì tỷ trọng xuất nhập khẩu của Việt Nam còn bé so với thị trường thế giới và khu vực . Đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống pháp luật đặc biệt là việc " ban hành quy chế đầu tư nước ngoài " để các doanh nghiệp chủ động đầu tư ra nước ngoài , trước hết là khối ASEAN , do đó ngành chè của chúng ta cần tận dụng triệt để những thuận lợi mà chính phủ mang lại để tích cực phát triển những vùng nguyên liệu tiềm năng . hơn nưã nhờ sự đầu tư của Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT nước ngoài một cách mạnh mẽ đồng thời với những nỗ lược của tập thể và các doanh nghiệp chúng ta đang ngày càng cố gắng tạo dựng thương hiệu chè Việt trên khắp thế giới . Mặt khác để ngành chè của chúng ta ngày một phát triển hơn thì các doanh nghiệp càn phải sắp xếp lại cơ cấu tổ chức , thành lập một số chi nhánh cũng như các công ty đủ điều kiện cung cấp và phân phối sản phẩm có hiệu quả . Đồng thời các công ty hoạt động không có hiệu quả , quy mô nhỏ và không có khả năng cạnh tranh thị chúng ta nên có biện pháp sát nhập cũng như cải tổ lại sao cho hoạt động có hiệu quả hơn . Việc sản xuất với quy mô lớn , hàng loại mang tính đồng bộ cao và công nghệ tiên tiến sẽ làm giảm giá thành sản phẩm , tạo nên sức cạnh tranh mạnh hơn cho sản phẩm chè của chúng ta trên thi trường nội địa và thế giới . Đi cùng với xu thế trên là vấn đề quản lý một cách có hiệu quả các công ty này . Đây là một điểm yếu của chúng ta . Do đó hơn bao giời hết ngành chè của chúng ta phải đào tạo được một đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ , năng lực kinh doanh hiểu biết về kinh tế , nắm vữn pháp luật , chính sách để thực sự có thể đảm đương trách nhiệm cảu các công ty lớn này , ngược lai nếu không giải quết được khâu thiết yếu này thì sự ra đời của các công ty này chỉ là gánh nặng đối với toàn ngành và cả nước . chương II : thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm chè của tổng công ty chè việt nam . I. khái quát tình hình sản xuất kinh doanh chè của tổng công ty 1. Tình hình sản xuất trong thời gian qua Biểu : Kết quả sản xuất của tổng công ty chè việt Nam năm 2001 -2004 STT 1 Chỉ tiêu 2001 Diện tích chè tổng số (ha) 5.608 2002 5.825 2003 6.246 2004 5.792 -Diện tích kinh doanh 5.553 5.553 5.121 Sinh viªn thùc hiÖn : 5.454 NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp -Diện tích KTCB Khoa : KH-PT 51 -Diện tích trồng mới 103 Năng suất chè (tấn/ha) 6,99 Tổng sản lượng chè búp 38.143 2 3 tươi tự sản xuất (tấn) 96 196 7,71 42.670 414 447 297 224 8,82 10,10 48.976 51.737 Nguồn số liệu:Tổng công ty chè Sau 5 năm tổ chức lại mô hình Tổng công ty nhà nước, Tổng công ty chè Việt Nam đã đạt được những bước phát triển đáng kể so với những năm trước đây. Nhờ kết quả đầu tư của năm 2001 và những năm trước đó các vườn chè đều đã phục hồi. Khả năng chống chịu hạn hán lớn mặc dầu 6 tháng đầu năm 1999 hạn hán diễn ra trên diện rộng nhưng sản lượng chè búp tươi tự sản xuất của toàn Tổng công ty vẫn không bị giảm sút. Sản lượng chè liên tục tăng qua các năm : năm 2001 tăng 11,87 so với năm 2000 , năm 2002 tăng 14,78% so với năm 2001 , năm 2003 tăng không đáng kể (5,64%) và thạm chí có xu hướng giảm vì cuộc chiến tranh iraq xảy ra . chính vì cuộc chiến tranh này mà sản lượng sản xuất ra cũng như thị phần tiêu thụ sản phẩm trên thị thường này của tổng công ty giảm một cách đáng kể . cho tới năm 2004 thì sản lượng chè đã dần bình ổn trở lại và tiếp tục tăng mạnh dần sau đó và cho tới bây giờ . Sản lượng chè qua các năm tăng là kết quả của việc thực hiện tốt khâu sản xuất nông nghiệp. Các vườn chè của các công ty, nông trường sau khi đã giao khoán cho các hộ công nhân đã được đầu tư chăm sóc đúng yêu cầu kỹ thuật, khâu đốn chè đã được thực hiện đúng quy trình kỹ thuật. Một số đơn vị đã triển khai đào rãnh thoát nước theo yêu cầu kỹ thuật của ấn Độ nhằm chống úng cho vườn chè trong mùa mưa và chống mòn cho đất. Diện tích chè qua các năm 2001-2004 có biến đổi nhiều song điều đáng lưu ý là năng suất cây chè đã tăng lên đáng kể. Nhờ thực hiện các biện pháp thâm canh tổng hợp, các vườn chè của Tổng công ty được trồng dặm tương đối đủ mật độ, chú trọng bón phân hữu cơ, phân vi sinh tổng hợp và Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT bón cân đối NPK, đã xây dựng được quy trình bón phân tổng hợp thay thế cho bón phân vô cơ đơn lẻ…do vậy chất lượng chè búp tươi khá tốt, năng suất bình quân cao nhất ngành. Năng suất tăng khá qua các năm: năm 2002 tăng 17%, năm 2003 giảm xuống còn 14% , tuy nhiên từ tháng3 năm 2004 trở đi thị trường chè đă ổn định trở lại và tăng hơn 21%. Tuy nhiên, năng suất chè của ta còn thấp xa so với một số nước sản xuất chè hàng đầu trên thế giới như : Kênya, ấn Độ, Nhật Bản, Srilanka…nguyên nhân chính là do cây chè chưa được đầu tư đúng mức, chưa có giống chè có năng suất cao, phẩm chất tốt. Những người làm chè khẳng định: "Cho đến nay trên đất trung du, miền núi này, chưa có cây nào thích hợp và mang lại hiệu quả kinh tế nh cây chè". Nhưng cái sức sống của ngành chè không chỉ đơn thuần tạo ra của cải, lợi nhuận mà là tạo được sự thống nhất giữa yêu cầu kinh tế với nhu cầu xó hội, như là cái cốt lừi của phương pháp kinh doanh xó hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đó là đa khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tạo công ăn việc làm cho hàng chục vạn lao động, việc khai thác tiềm năng dồi dào của đất đai, khí hậu để tăng thêm của cải cho xó hội; việc bảo vệ mụi trường thiên nhiên phủ xanh đất trống đồi núi trọc, việc góp phần đáng kể làm sáng tỏ con đường phát triển kinh tế - xó hội ở trung du và miền nỳi mà Đảng đó đề ra. Mục tiêu đến năm 2010 mà những người làm chè trong cả nước cần vươn tới là có hon 150.000 ha chè kinh doanh, sản xuất ra 150.000 tấn sản phẩm chè các loại với chất lượng ngày một cao hơn, trong đó dành 120.000 tấn xuất khẩu để đạt kim ngạch khoảng 200 triệu USD, nhằm nâng cao thêm một bước cuộc sống của người làm chè nói riêng và góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xó hội ở trung du, miền nỳi núi chung". Để làm được điều này, vấn đề đặt ra hiện nay đối với ngành chè là tiếp tục bổ sung và hoàn thiện cỏc mụ hỡnh tổ chức sản xuất kinh doanh để tạo ra động lực kinh tế ngày càng mạnh mẽ hơn. Mặt khác, phải tạo ra được những Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT giống chè tốt; đi vào thâm canh cùng với đa dạng hoá cây trồng, đa dạng hoá sản phẩm; phải hiện đại các nhà máy chế biến chè, tạo nguồn vốn lớn, mở rộng được thị trường trong nước và ngoài nước trước sự cạnh tranh quốc tế gay gắt... Sự nỗ lực của bản thân ngành chè chưa đủ mà cần có sự hỗ trợ của Nhà nước, của các cấp, các ngành, các địa phương bằng những chính sách và việc làm cụ thể, thiết thực. 2. Tình hình chế biến trong thời gian qua Ngành công nghiệp chế biến chè là một khâu quan trọng trong quá trình sản xuất –kinh doanh chè. Nó là khâu kết tinh những giá trị quý báu của sản phẩm chè nhằm thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Là cầu nối giữa người nông dân trồng chè với thị trường tiêu thụ. Nó thúc đẩy phát triển trồng chè và tạo điều kiện để mở rộng thị trường. Vì chỉ có thể qua chế biến thì sản phẩm chè mới trở nên hoàn hảo, phát huy được những đặc tính tốt nhất của mình và trở thành sản phẩm được tiêu dùng rộng rãi. Ngành công nghiệp chế biến chè Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc. Năm 1957 nhà máy chế biến chè đầu tiên ở Thanh Ba ( Phú Thọ ) do Liên Xô (cũ) giúp ta xây dựng đã được khánh thành và bước vào sản xuất, những tấn chè đầu tiên đã được xuất ra nước ngoài. Trải qua hàng chục năm, các nhà máy chế biến chè đã được xây dựng ở hầu hết các vùng chè chuyên canh lớn trong cả nước. Theo báo cáo của Vinatas, năm 2003 cả nước hiện cú 200 doanh nghiệp chế biến chố vừa và nhỏ, cùng với khoảng 10.000 hộ sản xuất tại gia đỡnh. Nhưng trên thực tế, số nhà máy lên tới 600, và hơn 30.000 cơ sở sản xuất tại gia đỡnh. Đến hết năm 2003 cả nướcã có 184 nhà máy có năng lực chế biến 70.000 tấn chè/năm, nhu cầu nguyên liệu cần 310.000 tấn/năm (Trong đó các nhà máy chè xanh :8.000 tấn/ năm, chè đen:60.000 tấn/ năm) Đồng thời thiết bị chế biến nhỏ, thủ công khoảng hơn 10.000 chiếc. Trong những năm qua số lượng nhà máy chế biến của Tổng công ty chè Việt Nam phát triển khá mạnh , đã đáp ứng được nhu cầu chế biến chè Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt §Ò ¸n tèt nghiÖp Khoa : KH-PT búp tươi sản xuất ra tăng lên do tăng năng suất và mở rộng diện tích.Toàn bộ các nhà máy chế biến chè của Tổng công ty chè Việt Nam (trừ 3 xưởng tại Hà Tĩnh ) đều là những nhà máy có thiết bị đồng bộ, đảm bảo tiêu chuẩn chế biến chè xuất khẩu và vệ sinh công nghiệp. Tổng công suất là 625 tấn/ ngày, trong đó công ty trực tiếp quản lý 19 nhà máy (316 tấn/ ngày ), các Công ty cổ phần 6 nhà máy (148 tấn/ ngày), liên doanh 5 nhà máy ( 160 tấn/ ngày ). Tổng công ty có năng lực chế biến 22.000 tấn/ năm chiếm 32% cả nước. Hiện nay, sản phẩm chế biến của ta gồm 3 loại chính là chè đen orthodox, chè đen CTC và chè xanh. Chất lượng sản phẩm trong những năm qua tăng lên rõ rệt, nhất là sản phẩm của các nhà máy chế biến có công suất từ 12 tấn/ ngày với thiết bị đồng bộ. Nếu loại trừ yếu tố chất lượng nguyên liệu chè búp tươi thì khâu chế biến đạt loại chất lượng trung bình của thế giới, một số nhà máy với thiết bị hiện đại của Nhật Bản, Đài Loan, ấn Độ đạt chất lượng loại khá. Nhìn chung công nghiệp chế biến chè của nước ta cũng như của Tổng công ty thời gian qua tuy tăng mạnh về năng lực (trừ các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư có vốn đầu tư nước ngoài) mới chỉ chú trọng đến quy mô sản lượng, mà ít quan tâm đến đầu tư đồng bộ và đầu tư chiêu sâu để nâng cao chất lượng sản phẩm. Sự bựng nổ về số lượng nhà mỏy chế biến khụng theo quy hoạch dẫn tới sự thiếu chủ động và tranh nhau vựng nguyờn liệu. Lấy ví dụ về sự bùng nổ này là năm 2001, tỉnh Thái Nguyên mới cú 18 doanh nghiệp chế biến, nhưng 8 thỏng đầu năm nay, Thỏi Nguyờn đó xuất hiện thờm 11 nhà mỏy nữa. Sở nụng nghiệp ngay lập tức đó kiến nghị sở khoa học đầu tư tỉnh ngưng cấp phép xây dựng thêm nhà máy. Các nhà máy được trang bị bằng thiết bị của Liên Xô (cũ) nay đã quá già cỗi, nhà xưởng đã hết thời hạn khấu hao và sử dụng, việc cải tạo và mở rộng lại rất khó khăn Hiện nay toàn ngành chè chưa có một nhà máy nào đạt ISO 9000 và HACCAP. Các xưởng chế biến thủ công bán cơ giới mini và lò thủ công quá nhiều , các cơ sở này sản xuất ra chất lượng chè quá thấp, không đủ tiêu Sinh viªn thùc hiÖn : NguyÔn C«ng Hoµng ViÖt
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan