Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê việt nam...

Tài liệu Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê việt nam

.DOCX
32
52
77

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU Sau 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra được khối lượng nông sản không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn có giá trị xuất khẩu cao mang về hàng tỉ USD. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ cao và ổn định, hình thành những vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa với quy mô lớn. Sự phát triển nhanh của ngành nông nghiệp đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế, góp phần đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là một trong những mặt hàng nông sản chủ lực, cà phê Việt Nam có tốc độ phát triển rất cao, hàng năm thu về hàng triệu USD từ việc xuất khẩu, mang lại nguồn thu nhập ổn định, thường xuyên cho một nhóm đông dân cư ở nông thôn, trung du và miền núi. Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh của mình, ngành cà phê vẫn tồn tại những hạn chế ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh. Do đó, làm sao phát huy hết nội lực, hết lợi thế để cà phê Việt Nam có thể đứng vững và phát triển trên thị trường thế giới vẫn là một câu hỏi bất cập cần có lời giải đáp. Đề tài “Giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam” mà em chọn là một đóng góp nhỏ ý kiến của bản thân mong góp phần giải quyết cẩu hỏi đó. Tuy đây là lần đầu tiên tiếp cận với cách thức viết đề án môn chuyên ngành, nhưng dưới sự hướng dẫn tận tình của Ths.Nguyễn Thu Thuỷ, em đã hoàn thành đề án này. Em xin chân thành cảm ơn cô! 1 MỤC LỤC Chương 1 Thực chất và nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh. 2. Phân loại năng lực cạnh tranh. 2.1 Năng lực cạnh tranh quốc gia. 2.2 Năng lực cạnh tranh ngành. 2.3 Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. 2.4 Năng lực cạnh tranh sản phẩm. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh ngành. 3.1 Các nhân tố chủ quan. 3.1.1 Nhân tố con người. 3.1.2 Khả năng về tài chính. 3.1.3 Trình độ công nghệ. 3.2 Nhân tố khách quan. 3.2.1 Các nhân tố kinh tế. 3.2.2 Các nhân tố về chính trị pháp luật. 4. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh ngành. Chương 2 Thực trạng về thị trường cà phê thế giới và ngành cà phê Việt Nam I. Tổng quan về thị trường cà phê thế giới. II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam. 1. Về sản xuất. 2. Về công nghệ. 3. Về nguyên liệu. 4. Về lao động. 2 III. Những lợi thế và bất lợi của ngành cà phê Việt Nam. 1. Lợi thế của ngành cà phê Việt Nam. 2. Lợi thế khách quan. 3. Lợi thế chủ quan. 4. Những hạn chế của ngành cà phê Việt Nam và nguyên nhân. 4.1 Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao. 4.2 Chất lượng cà phê chưa cao. 4.3 Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu. 4.4 Thiếu vốn. 4.5 Chưa chú trọng đến thị trường nội địa. Chương 3 Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành cà phê Việt Nam 1. Phương hướng. 2. Giải pháp. 2.1 Tạo nguồn vốn đầu tư. 2.2 Chuyển đổi cơ cấu cây trồng. 2.3 Nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm cà phê. 2.4 Đổi mới công nghệ. 2.5 Xây dựng hệ thống đồng bộ giữa các khâu. 2.6 Tổ chức hệ thống thu thập thông tin. 2.7 Quan tâm hơn đến thị trường nội địa. 2.8 Mở rộng thị trường cà phê và tăng cường hợp tác quốc tế. 2.9 Xây dựng thương thiệu và bảo vệ được thương hiệu của mình trên thị trường. Kết luận 3 Chương 1 THỰC CHẤT VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua nhau giữa các nhà doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường để đạt được một mục tiêu kinh doanh cụ thể. 1. Khái niệm về năng lực cạnh tranh. Hiện nay, một doanh nghiệp muốn có vị trí vững chắc trên thị trường và thị trường ngày càng được mở rộng thì cần phải có một tiềm lực đủ mạnh để có thể cạnh tranh trên thị trường. Cái đó chính là khả năng cạnh tranh hay là năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp cũng như của cả một ngành. Cạnh tranh để duy trì vị trí của nó một cách lâu dài trên thị trường cạnh tranh, đảm bảo thực hiện mức lợi nhuận ít nhất là bằng tỷ lệ đòi hỏi cho việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp hay đối với vị thế của một ngành. 2. Phân loại năng lực cạnh tranh. 2.1 Năng lực cạnh tranh quốc gia. Năng lực cạnh tranh quốc gia được định nghĩa là năng lực của một nền kinh tế đạt được tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân. 2.2 Năng lực cạnh tranh ngành. Xét theo phạm vi ngành kinh tế, năng lực cạnh tranh ngành được chia làm hai loại: - Năng lực cạnh tranh trong nội bộ ngành: là khả năng hay năng lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một loại mặt hàng hoặc dịch vụ. Cạnh tranh nội bộ ngành là một cuộc cạnh tranh tất yếu phải xảy ra, tất yếu đều nhằm vào mục tiêu cao nhất là lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính vì vậy, mỗi doanh nghiệp phải cải tiến kỹ thuật, năng lực quả lý… nhằm nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để tìm lợi nhuận siêu ngạch. - Năng lực giữa các ngành: là khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ trong các ngành kinh tế khác nhau nhằm mục tiêu lợi nhuận, vị thế và an toàn. Cạnh tranh giữa các ngành tạo ra xu hướng di chuyển của vốn đầu tư sang các ngành kinh doanh thu được lợi nhuận cao hơn và tất yếu sẽ dẫn 4 đến sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Đồng thời cũng thể hiện được thế mạnh của từng ngành với từng lĩnh vực cụ thể. 2.3 Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng tạo ta được lợi thế cạnh tranh, tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần lớn, tạo ra thu nhập cao va phát triển bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đánh giá tổng thể thông qua các chỉ tiêu đánh giá sau: - Sản lượng, doanh thu - Thị phần - Tỉ suất lợi nhuận Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên, năng lực cạnh tranh còn được đánh giá qua các chỉ tiêu định tính như: - Chất lượng hàng hóa – dịch vụ của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. - Khả năng đáp ứng các yêu cầu của khách hàng so với đối thủ cạnh tranh. - Thương hiệu, uy tín, hình ảnh của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh. 2.4 Năng lực cạnh tranh sản phẩm. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh trong khi có nhiểu người cùng bán loại sản phẩm đó trên thị trường. Hay nói một cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng, giá cả, tốc độ cung cấp dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh ngành. 3.1 Các nhân tố chủ quan. 3.1.1 Nhân tố con người. Con người ở đây phản ánh đến đội ngũ lao động. Đội ngũ lao động tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua các yếu tố như trình độ lao động, năng suất lao động, thái độ phục vụ khách hàng, sự sáng tạo trong sản xuất… Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất ra sản phẩm hàng hóa. 5 3.1.2 Khả năng về tài chính. Bất cứ một hoạt động đầu tư, sản xuất phân phối nào cũng đều phải xét, tính toán đến tiềm lực, khả năng tài chính của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp có tiềm năng lớn về tài chính sẽ có nhiều thuận lợi trong việc đổi mới công nghệ, đầu tư mua sắm trang thiết bị, bảo đảm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, duy trì và nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa, khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu, lợi nhuận và củng cố vị thế của mình trên thương trường. 3.1.3 Trình độ công nghệ. Tình trạng trình độ công nghệ máy móc thiết bị có ảnh hưởng một cách sâu sắc tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm của các doanh nghiệp. Đó là yếu tố vật chất quan trọng bậc nhất thể hiện năng lực sản xuất của một doanh nghiệp, tác động trực tiếp đến chất lượng, năng suất sản xuất. Ngoài ra, công nghệ sản xuất cũng ảnh hưởng đến giá thành và giá bán của sản phẩm. Các doanh nghiệp có công nghệ phù hợp sẽ có một lợi thế cạnh tranh rất lớn do chi phí sản xuất thấp, chất lượng sản phẩm và dịch vụ cao. Ngược lại các doanh nghiệp sẽ có bất lợi cạnh tranh khi họ chỉ có công nghệ lạc hậu. 3.2 Nhân tố khách quan. 3.2.1 Các nhân tố kinh tế. Trong môi trường kinh doanh, các nhân tố kinh tế luôn có những ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung cũng như sực lực cạnh tranh của sản phẩm các doanh nghiệp nói riêng. Các nhân tố kinh tế bao gồm: - Tốc độ phát triển kinh tế cao sẽ làm cho thu nhập của người dân tăng lên. Thu nhập tăng có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán của họ khi nhu cầu về hàng hóa thiết yếu và hàng hóa cao cấp cũng tăng lên. - Lãi cho vay của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp. Hiện nay có một phần không nhỏ vốn đầu tư của doanh nghiệp trong ngành là đi vay. Do đó khi lãi suất tăng lên sẽ dẫn tới chi phí sản xuất sản phẩm của các doanh nghiệp tăng và ngược lại. Như vậy, doanh nghiệp nào có lượng vốn chủ sở hữu lớn xét về mặt nào đó sẽ thuận lợi hơn trong cạnh tranh và rõ ràng năng lực cạnh tranh về tài chính của doanh nghiệp sẽ tốt hơn so với đối thủ cạnh tranh. Các nhân tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm của các doanh nghiệp trong các ngành. Do đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải đánh giá được tác động của nó để tìm ra những cơ hội cũng như thách thức. 6 3.2.2 Các nhân tố về chính trị pháp luật. Các nhân tố về chính trị pháp luật là nền tảng quy định các yếu tố khác của môi trường kinh tế. Nền kinh tế ảnh hưởng đến hệ thống chính trị nhưng ngược lại hệ thống chính trị cũng tác động trở lại các hoạt động kinh tế. Pháp luật và chính trị ổn định sẽ tạo ra một cơ chế chính sách trong hoạt động sản xuất kinh doanh trong từng lĩnh vực cụ thể có được lợi thế cạnh tranh trong xu thế toàn cầu hóa của thế giới. Nói tóm lại, khi xem xét khả năng cạnh tranh của một ngành, của một doanh nghiệp thậm chí kể cả của đối thủ cạnh tranh, cần phải xem xét đầy đủ các nhân tố tác động, từ đó tìm ra các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành hay của các doanh nghiệp đó. 4. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh ngành. Lí thuyết nổi tiếng của mô hình “viên kim cương” của Michael Porter. Các yếu tố quyết định của mô hình là các điều kiện về các yếu tố sản xuất, điều kiện về cầu, các ngành hỗ trợ và bối cảnh cạnh tranh, chiến lược và cơ cấu doanh nghiệp. Ngoài ra, còn có hai biến số bổ sung là vai trò của Nhà nước và yếu tố thời cơ. Và theo ông, thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ có thể thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Và khả năng cạnh tranh của quốc gia ngày nay lại phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành của quốc gia đó. Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu hóa thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì thế cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trên trường quốc tế. Các quốc gia thành công ở một số ngành trên thị trường toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong và nhiều sức ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ việc các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong nước, nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ của ngành phụ trợ. Lý luận của Michael Porter về lợi thế cạnh tranh quốc gia giải thích hiện tượng thương mại quốc tế và vai trò của nhà nước trong việc hỗ trợ cho các ngành có điều kiện thuận lợi để giành lợi thế cạnh tranh quốc gia. Sự thành công của các quốc gia ở ngành kinh doanh nào đó phụ thuộc vào 3 vấn đề cơ bản: lợi thế cạnh tranh quốc gia, năng suất lao động bền vững và sự liên kết hợp tác có hiệu quả trong cụm ngành. Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia mà nhó có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một 7 số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nhiệp có được “quyền lực thị trường” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Đó cũng là những yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngành. 8 Chương 2 THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG CÀ PHÊ THẾ GIỚI VÀ NGÀNH CÀ PHÊ VIỆT NAM I. Tổng quan về thị trường cà phê thế giới. Nhìn lại sự phát triển thị trường tiêu thụ cà phê thế giới cho thấy sau thế chiến II, nhu cầu dùng cà phê ở nhiều quốc gia tăng lên nhanh chóng. Bắt đầu từ Mỹ ở thập niên 1950 – 1960 khi những cựu chiến binh mang sở thích uống cà phê về truyền bá trong quân đội và dân chúng, rồi dần dần phát triển sang Châu Âu ở những năm 1960 – 1970. Vào cuối thập niên 1970, khi thị trường Mỹ và Châu Âu gần như chững lại thì những thị trường mới lại mở ra ở vùng Viễn Đông như Nhật Bản và gần đây là thị trường Đông Âu, Trung Quốc có dấu hiệu tăng. Cùng với sự mở rộng thị trường ở khắp nơi, sản lượng cà phê thế giới không ngừng tăng lên, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Sản lượng cà phê toàn cầu niên vụ 2010/2011 kết thúc vào tháng 9 đã đạt mức 133 triệu bao. Brazil là nước sản xuất cà phê lớn nhất thế giới đạt mức sản lượng 55,3 triệu bao trong niên vụ 2010/2011; trong khi sản lượng của hai nước Việt Nam và Colombia, nước đứng thứ hai và thứ ba về sản xuất cà phê đạt 27,7 triệu bao. Với khoảng 1/4 dân số thế giới hiện uống cà phê thường xuyên, triển vọng tăng tiêu thụ cà phê trong những năm tới là rất khả quan. Tuy nhiên, nếu không có hành động tích cực nào để đẩy mạnh, tốc độ tăng sẽ không có tiến triển gì khá hơn những năm vừa qua. Và nếu cứ giữ mức tăng chưa đầy 5% mỗi năm hiện nay, có lẽ tới vụ 2011/2012 mới hy vọng tổng tiêu thụ đạt mức 139,7 triệu bao. Brazil là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế giới chiếm khoảng 26% tổng lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu, chủ yếu là cà phê Arabica. Colombia đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê Arabica tòa cầu, chiếm khoảng 9% chủ yếu là loại cà phê Arabica dịu. Đứng thứ ba về xuất khẩu cà phê Arabica là Guatemala, chiếm khoảng 5% tổng sản lượng xuất khẩu cà phê toàn cầu. Mỹ là nước nhập khẩu cà phê lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 29% tổng sản lượng cà phê nhập khẩu. Đứng thứ hai là Đức với tỷ trong khoảng 18% tổng nhập khẩu. Nhập khẩu cà phê của Nhật Bản tăng nhanh, đưa Nhật Bản trở thành nước đứng thứ ba thế giới về nhập khẩu cà phê trong những năm qua với tỷ trọng khoảng 9% tổng sản lượng cà phê nhập khẩu toàn cầu. Trên thị trường thế giới, trong tháng qua, giá cà phê đã có những biến động lớn, giá giảm rất mạnh, có lúc giá cà phê Robusta tại London đã giảm xuống dưới 1.300 USD/tấn, giảm tới 13% so với mức giá khoảng 1.500 USD/tấn đã được giao dịch khá ổn định trong một thời gian dài trước đó, còn so với cùng kỳ 2011 giảm tới gần 9 50%. Giá cà phê Arabica giao kỳ hạn trên thị trường New York cũng giảm xuống 115 Uscent/lb; giảm 19% so với đầu tháng 6/2011 và cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, giá cà phê khó có thể tăng nhanh do nguồn cung vẫn ở trong tình trạng dư thừa. Về dài hạn, giá cà phê có thể hồi phục nhưng chắc khó có thể trở lại mức giá kỷ lục của những năm 70 hay đầu thập niên 90 của thế kỷ 20. II. Thực trạng năng lực cạnh tranh của ngành cà phê Việt Nam. 1. Về sản xuất. Cây cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam từ năm 1870, mãi đến đầu thế kỉ 20 mới được phát triển trồng ở một số đồn điền của người Pháp. Năm 1930 ở Việt Nam có 5900 ha. Trong thời kì những năm 1960 – 1970, cây cà phê được phát triển ở một số nông trường quốc doanh ở các tỉnh miền Bắc, khi cao nhất (1964 – 1966) đã đạt tới 13000 ha song không bền vững do sâu bệnh ở cà phê Arabica và do các yếu tố tự nhiên không phù hợp với cà phê Robusta nên một số lớn diện tích cà phê phải thanh lý. Cho đến năm 1975, đất nước thống nhất, diện tích cà phê của cả nước có khoảng 13000 ha, cho sản lượng 6000 tấn. Sau 1975, cà phê ở Việt Nam được phát triển mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên nhờ có vốn đầu tư các hiệp định hợp tác liên chính phủ với các nước: Liên Xô cũ, CHDC Đức, Bungary, Tiệp Khắc, Ba Lan, đến năm 1990 đã có 119300 ha. Trên cơ sở này, từ năm 1986, phong trào tròng cà phê phát triển mạnh trong nhân dân. Đến nay đã có trên 390000 ha, đạt sản lượng gần 700000 tấn. Ngành cà phê nước ta đã có những bước phát triển nhanh vượt bậc. Chỉ trong vòng 20 năm trở lại đây chúng ta đã đưa sản lượng cà phê nước ta tăng lên hàng trăm lần. Hiện nay, cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất khẩu sang 50 nước với khối lượng lớn đứng thứ 3 thế giới. Mức tăng trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khá lớn. Bảng 1: Thị trường chủ chốt xuất khẩu cà phê thô của Việt Nam, nửa đầu niên vụ 2009/2010 và niên vụ 2010/2011 STT Thị trường xuất khẩu % thay đổi của niên vụ 2010/11 so với niên vụ (T10/2009–T3/2010) (T10/2010–T3/2011) 2009/10 Niên vụ 2009/2010 Niên vụ 2010/2011 Khối lượng Giá trị (nghìn USD) 10 Khối lượng Giá trị (nghìn USD) Khối lượng Giá trị (nghìn tấn) (nghìn tấn) 1 Hoa Kỳ 74 116.455 97 208.803 31% 79% 2 Đức 81 116.008 74 151.440 -9% 31% 3 Bỉ 25 34.428 74 143.267 196% 316% 4 Ý 34 47.265 57 109.283 68% 131% 5 Tây Ban Nha 34 46.077 42 81.150 24% 76% 6 Hà Lan 9 12.938 25 48.803 178% 277% 7 Nhật Bản 25 38.935 22 51.133 -12% 31% 8 Hàn Quốc 15 20.977 18 32.699 20% 56% 9 Singapore 3 4.254 16 30.472 433% 616% 18 23.245 15 30.475 -17% 31% 11 Vương Quốc Anh 19 24.640 15 30.955 -21% 26% 12 Nga 15 19.620 14 25.925 -7% 32% 13 Trung Quốc 9 12.496 13 23.968 44% 92% 14 Algeria 12 16.899 13 24.643 8% 46% 15 Pháp 7 9.633 12 22.395 71% 132% 10 Thuỵ Sĩ 11 16 Nước khác 135 181.531 94 178.772 -30% Tổng cộng 515 725.401 601 1.194.183 17% -2% 65% Nguồn: Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam, Tổng cục Hải quan Việt Nam. Cà phê hiện đang là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị lớn đứng thứ hai sau gạo. Giá trị cà phê xuất khẩu thường chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Ngay cả những thị trường khó tính như Mỹ, Đức, Bỉ … cũng dần bị cà phê Việt Nam chinh phục. Bảng 2: Sản lượng cà phê của Việt Nam theo năm (tính từ tháng 10 đến tháng 9) 2008/20092009/20102010/2011 Thời gian bắt đầu niên vụ 10/2008 10/2009 10/2010 Sản lượng (hạt cà phê xanh, nghìn tấn)1.080 1.050 1.124 Sản lượng trung bình (tấn/ha) 2,09 2,10 2,16 Nguồn: Bộ Nông nghiệp & PTNN, FAS. Do thời tiết mưa kéo dài trong thời gian ra hoa và thu hoạch cây cà phê tại Đắk Lắk và Lâm Đồng nên sản lượng cà phê nước ta niên vụ 2009/2010 giảm xuống còn 17,7 triệu bao (tương đương, giảm 3% so với niên vụ trước). Việc cây cà phê ra hoa muộn và không đồng đều cũng là nguyên nhân khiến việc thu hoạch gặp nhiều khó khăn, nhất là khi hạt cà phê đã chín và còn xanh cùng mọc trên cùng một cây. Điều kiện thời tiết không thuận lợi cũng làm cho chất lượng và kích thước hạt cà phê không được đồng đều. Ngoài ra, thiếu nhân lực cũng khiến cho chi phí thuê nhân công thu hoạch cao hơn so với niên vụ trước. Mưa xối xả tại một số vùng trong thời gian thu hoạch cũng khiến người nông dân gặp nhiều khó khăn trong việc sấy khô 12 cà phê. Đó là lí do sản lượng trung bình niên vụ 2009/2010 khoảng 2,09 mét tấn/ha, thấp hơn 3% so với niên vụ trước. Bảng 3: Tình hình sản xuất cà phê nước ta 2009 2010 2011 2008/2009 2009/2010 2010/2011 Thời gian bắt đầu niên Thời gian bắt đầu niên Thời gian bắt đầu vụ: vụ: niên vụ: Tháng 10 năm 2008 Số Số liệu báo cáo liệu hàng năm mới Official Tháng 10 năm 2009 Số Số liệu báo cáo liệu hàng năm mới Tháng 10 năm 2010 Số Số liệu báo cáo hàng năm liệu mới Post Data Official Post Data Official Diện tích gieo trồng (nghìn 531 ha) 531 0 536 536 0 0 Diện tích thu hoạch (nghìn ha) 500 500 0 504 504 0 0 Cây mang hạt 620 (triệu cây) 620 0 629 629 0 0 Cây không mang hạt (triệu 75 cây) 75 0 80 80 0 0 13 Post Data Tổng số lượng 695 cây (triệu cây) 695 0 Số lượng dự trữ ban đầu (nghìn bao) 1.561 894 1.561 2.130 1.417 2.168 1.747 Sản lượng cà phê Arabica (nghìn bao) 480 480 480 450 480 Sản lượng cà phê Robusta (nghìn bao) 17.520 17.520 17.520 17.050 17.050 17.050 18.25 3 Sản lượng cà phê khác (nghìn bao) 0 0 0 0 Tổng sản lượng (nghìn bao) 18.000 18.000 18.000 17.500 17.500 17.500 18.73 3 Cà phê hạt nhập khẩu (nghìn bao) 70 75 75 75 75 75 80 1 1 1 1 1 1 Cà phê hoà tan 25 (nghìn bao) 25 25 25 25 25 27 Tổng nhập 101 101 101 101 101 108 Cà phê rang & nguyên hạt 1 nhập khẩu 0 709 450 0 709 0 450 0 0 (nghìn bao) 96 14 khẩu 19.657 18.995 19.662 19.731 19.018 19.769 20.58 8 Cà phê hạt xuất khẩu (nghìn 16.333 bao) 16.333 16.283 16.675 16.667 16.667 16.66 7 25 42 25 40 45 50 Cà phê hoà tan 105 (nghìn bao) 156 105 110 100 110 115 Tổng xuất khẩu (nghìn bao) 16.463 16.514 16.430 16.810 16.807 16.822 16.83 2 964 964 964 1.005 1.005 1.080 1.115 100 100 100 110 110 135 Tổng cung Cà phê rang & nguyên hạt 25 xuất khẩu (nghìn bao) Cà phê rang & nguyên hạt được tiêu thụ trong nước (nghìn bao) Cà phê hoà tan được tiêu thụ 120 trong nước (nghìn bao) Tổng tiêu thụ 1.064 trong nước 1.064 1.064 1.115 15 1.115 1.200 1.250 (nghìn bao) Sử dụng trong nước (nghìn 2.130 bao) 1.417 2.168 1.806 1.096 1.747 2.506 Tổng lượng phân phối (nghìn bao) 19.657 18.995 19.662 19.731 19.018 19.769 20.58 8 16.936 16.936 16.936 16.385 16.385 16.300 17.48 3 Sản lượng có thể xuất khẩu (nghìn bao) Nguồn: FAS. Chính phủ vẫn tiếp tục khuyến khích nông dân áp dụng GAP - một công cụ nhằm nâng cao sản lượng và duy trì tính bền vững trong sản xuất. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp Tây Nguyên cũng tiến hành nghiên cứu, lựa chọn và cho lai nhiều giống cà phê mới đồng thời hỗ trợ kỹ thuật cho nông dân trong việc thay thế các cây cà phê lâu năm cho phù hợp với điều kiện của khu vực canh tác và thu được lợi nhuận cao. 2. Về công nghệ. Sau 1975, khi đi vào sản xuất phát triển sản xuất cà phê, chúng ta mới có một ít xưởng chế biến cũ kỹ, chắp vá. Ở phía bắc có một số xưởng chế biến ở Đồng Giao, Phù Quỳ với thiết bị lắp đặt từ năm 1960 – 1962 do CHDC Đức chế tạo. Ở phí nam có một số xưởng của các doanh điền cũ như Rossi, Delphante để lại công suất không lớn. Cùng với việc mở rộng diện tích trồng cà phê, chúng ta cũng đã bắt tay vào xây dựng các xưởng chế biến mới, bắt đầu từ những thiết bị lẻ, rồi đến các dây chuyền sản xuất sao chép theo mẫu của Hang – xa như nhà máy 1/5 Hải Phòng, nhà máy A74 Bộ Công Nghiệp ở Thủ Đức – TP.HCM. Những năm gần đây, nhiều công ty, nông trường đã xây dựng các xưởng chế biến mới khá hoàn chỉnh với thiết bị nhập từ CHLB Đức, Brazil. Một loạt hơn chục dây chuyền chế biến cà phê của hãng Pinhalense – Brazil được đưa vào Việt Nam. Tiếp đó lại xuất hiện nhiều xưởng lắp ráp thiết bị do cơ sở công nghiệp Việt Nam chế tạo mô phỏng có cải tiến công nghệ của Brazil. Như thế so với thời gian trước đây thì hiện tại vấn đề công nghệ trong sản xuất và chế biến cà phê đã được quan tâm chặt chẽ hơn. 3. Về nguyên liệu. 16 Về nguyên liệu, nhờ có điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi và đất đai màu mỡ, phì nhiêu nên đã tạo điều kiện cho các giống cà phê phát triển tốt. Cả nước hiện có khoảng 390000 ha cà phê phân bố trên nhiều địa bàn từ bắc vào nam. Cây trồng được chăm sóc tốt, đảm bảo chất lượng cho sản xuất. Vì vậy mà nguồn nguyên liệu rất dồi dào, luôn đảm bảo cung cấp đủ sản lượng cho sản xuất, xuất khẩu và dự trữ. 4. Về lao động. Nhờ tạo được công ăn việc làm và mang lại nguồn thu nhập ổn định thường xuyên nên ngành cà phê đã thu hút hàng triệu lao đông. Trong đó chiếm một lượng lớn là dân cư các vùng nông thôn, trung du và miền núi có điều kiện thuận lợi như các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên, Gia Lai… Qua nhìn lại thực trạng phát triển ngành cà phê Việt Nam những năm qua cho thấy ngành đã đạt được nhiều thành tựu đáng ca ngợi. Tuy nhiên, trong vài năm gần đây do kích thích mạnh mẽ của giá cả thị trường cà phê đã ra khỏi kiểm soát của ngành cũng như của Nhà nước. Chính vì thế mà sự tăng trưởng nhanh chóng với mức độ lớn đã có tác động quan trọng trong việc góp phần đẩy ngành cà phê thế giới đến mức thấp kỷ lục 30 năm lại đây. Ngành cà phê bước vào thời kỳ ảm đạm và có phần hoảng loạn. Đài phát thanh và báo chí thường xuyên đưa tin nông dân chặt phá cà phê ở nơi này, nơi khác… Có thể nói, đây là tình hình chung của ngành cà phê toàn cầu và nó có tác động lớn đến ngành cà phê nước ta. III. Những lợi thế và bất lợi của ngành cà phê Việt Nam 1. Lợi thế của ngành cà phê Việt Nam. Qua đánh giá tổng quan về ngành cà phê Việt Nam trên đây có thể thấy trong những năm gần đây, Việt Nam đã nhanh chóng trở thành một trong những nước sản xuất cà phê cà phê hàng đầu thế giới, chiếm lĩnh được một thị phần đáng kể, có mặt trển 50 quốc gia, là nguồn thu ngoại tệ quan trọng sau thủy hải sản và gạo. Có được những thành tựu đó là do ngành cà phê Việt Nam đã có những lợi thế to lớn, giúp ngành phát triển. 2. Lợi thế khách quan. Việt Nam có thể mạnh về trồng cây cà phê do điều kiện đất đai và khí hậu thuận lợi. Đất đỏ bazan, rất thích hợp với cây cà phê, được phân tán rộng khắp lãnh thổ, trong đó tập trung nhiều ở hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với diện tích hàng triệu ha. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, lượng mưa phân bố đều các tháng trong năm, nhất là các tháng cà phê sinh trưởng. Cây cà phê cần hai yếu tố cơ bản là đất và nước thì cả hai yếu tố đó đều có ở Việt Nam. Hơn thế nữa với nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công lại rẻ và năng xuất lao động cao đã góp phần giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Nhờ đó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường 17 quốc tế. Ngoài ra, do nhu cầu tiêu dùng cà phê trên thế giới tăng nhanh nên sản phẩm cà phê cũng ngày càng được tiêu thụ mạnh. 3. Lợi thế chủ quan. Với môi trường chính trị ổn định được cả thế giới công nhận, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài yên tâm khi làm ăn với Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo môi trường thuận lợi để phát triển sản xuất và xuất khẩu cà phê. Như chính sách giao quyển sử dụng ruộng đất, vườn cây cho người lao động đã nâng ý thức làm chủ lên cao, nhờ vườn cây được chăm sóc tốt, đầu tư thâm canh tăng cao, đát đai được sử đụng triệt để. Ngoài ra ngay từ năm 1994, thủ tướng chính phủ đã chỉ đạo thành lập quỹ hỗ trợ hay bảo hiểm ngành cà phê (Văn bản số 140/TB ngày 1/11/1994 của văn phòng chính phủ). Các năm sau, chính phủ liên tiếp chỉ đạo và yêu cầu Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn chủ trì và phối hợp với Bộ Tài chính, Ban vật giá chính phủ, Bộ Thương mại xây dựng quỹ hỗ trợ hay quỹ bảo hiểm cho ngành cà phê. Chính phủ chủ trương ngân sách Nhà nước sẽ hỗ trợ ban đầu một lần khi thành lập quỹ (Văn bản số 589/KTTH ngày 3/2/1997 của chính phủ). Ngoài ra còn huy động ngân sách Nhà nước để giúp đỡ nông dân qua khỏi những giai đoạn khó khăn như mua cà phê tạm trữ để nâng cao giá cho nông dân, miễn thuế nông nghiệp cho đất trồng cà phê, hoãn nợ và tiếp tục cho nông dân vay tiền chăm sóc vườn cây… Bên cạnh đó, những sửa đổi các chính sách hành chính cho nhanh và đơn giản thuận tiện, cùng với các chính sách mở cửa thu hút đầu tư, kêu gọi đầu tư cũng góp phần phát triển ngành. Đây chính là những thế mạnh, lợi thế của cà phê Việt Nam trên con đường cạnh tranh quốc tế. 4. Những hạn chế của ngành cà phê Việt Nam và nguyên nhân. Tuy có nhiều lợi thế và thu được những thành quả đáng khích lệ nhưng trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, ngành cà phê Việt Nam đã và đang bộc lộ những nhược điểm và hạn chế từ sản xuất đến xuất khẩu, ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của ngành. Vấn đề đặt ra lớn nhất trong xuất khẩu cà phê Việt Nam hiện nay là tính bền vững chưa cao. Những năm gần đây, tuy sản lượng xuất khẩu nhanh nhưng giá cả không ổn định, trong đó một số năm giảm sút lớn nên kim ngạch xuất khẩu tăng chậm hoặc giảm sút. Vấn đề này có liên quan đến sản xuất, chế biến và xuất khẩu, dẫn đến cung vượt cầu, công nghệ chế biến bảo quản thu hoạch không đáp ứng được yêu cầu tăng sản lượng và chất lượng, thị trường xuất khẩu chưa ổn định. Biểu hiện cụ thể là: 4.1 Tính bền vững của ngành cà phê Việt Nam chưa cao. Thật thế, thị trường cà phê Việt Nam phụ thuộc chặt chẽ vào thị trường quốc tế. Khi thị trường cà phê quốc tế sôi động làm cho hoạt động thu mua, thu gom nhộn nhịp, việc tiêu thụ cà phê ở cá hộ sản xuất thuận lợi. Khi thị trường quốc tế thu hẹp, cà phê tụt giá, thị trường thu mua nội địa sẽ chao đảo, ách tắc, việc tiêu thụ của các 18 sản xuất gặp nhiều khó khăn. Giá bán ra không bù đắp đủ chi phí sản xuất, lượng hàng tồn nhiều gây nên ứ đọng vốn. Một dẫn chứng thực tế trong lịch sử phát triển cà phê Việt Nam là niên vụ 2007/2008, khi thị trường cà phê thế giới giảm mạnh đã gây ra những ảnh hưởng lớn đến thị trường cà phê trong nước. Theo báo cáo của Tổng công ty cà phê Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2008, toàn Tổng công ty đã xuất khẩu được lượng cà phê bằng 255,3 % so với cùng kỳ năm 2007, nhưng kim ngạch xuất khẩu chỉ bằng 131,6 %, chủ yếu do giá trị xuất khẩu cà phê (FOB) giảm mạnh và liên tục từ đầu năm 2000, tính ra giá xuất khẩu bình quân 9 tháng đầu năm 2008 chỉ bằng 51,6% so với mức giá bình quân cùng kỳ năm 2007 (709,8/1376 USD/tấn). Có thể nói, đây là mức giá thấp nhất trong vòng 8 năm từ năm 2000 cho đến năm 2008. Tình hình thực tế đó đã gây ra những khó khăn thua thiệt to lớn cho cả người sản xuất và các nhà kinh doanh xuất khẩu cà phê Việt Nam. Cũng theo số liệu báo cáo của Tổng công ty cà phê Việt Nam, trong 9 tháng đầu năm 2008 các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh cà phê đã phải chịu lỗ xấp xỉ 84 tỉ đồng; trong khi đó lượng cà phê tồn kho tính đến đầu tháng 10/2008 là xấp xỉ 30000 tấn. Qua nhìn nhận lại niên vụ cà phê 2007/2008 trên đây có thể khẳng định lại tính bền vững của ngành cà phê chưa cao, còn phụ thuộc nhiều vào thị trường thế giới. 4.2 Chất lượng cà phê chưa cao. Chất lượng cà phê Việt Nam còn thấp chưa tương xứng với lợi thế về đất đai và khi hậu Việt Nam, còn khoảng cách xa so với yêu cầu của thị trường thế giới. Ông Daniele Giovannucci, cố vấn cao cấp của Ngân hàng Thế giới, lấy hình ảnh Brazil, một đất nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới và so sánh: “Chất lượng ổn định là điều dễ nhận thấy nhất đối với cà phê Brazil, trong khi đó vấn đề này đối với cà phê Việt Nam thì ngược lại” Cà phê loại I chiếm từ 16 -18%, loại II A chiếm tới trên 70%, còn lại là loại thấp hơn… Giá cà phê Robusta II 5% của Việt Nam thấp hơn giá trị cf phê cùng loại củ Indonesia khoảng 90 USD/tấn, giá cà phê Robusta I (trên sàng 16) thấp hơn giá cà phê Uganda (trên sàng 15) đến 200 USD/tấn. Các chuyên gia về lĩnh vực này từ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đánh giá, tình trạng giảm sút chất lượng cà phê xuất khẩu nước ta thời gian qua là từ nhiều yếu tố. Ngay từ khâu chọn giống đã tồn tại nhiều bất cập. Giống cà phê ở nước ta từ trước đến nay vẫn chủ yếu là do bà con nông dân tự chọn, ươm giống và trồng nên không đảm bảo chất lượng. Cây phát triển kém, hạt nhỏ, đen, tỷ lệ đồng đều giữa các hạt thấp. Đầu tư trong lĩnh vực thủy lợi để tưới tiêu cho cà phê đạt thấp (22,4% tổng diện tích). Nhiều vùng vào mùa khô hạn không đủ nước tưới, ảnh hưởng xấu đến quá trình sinh trưởng của cây. Thêm nữa, cà phê nước ta vẫn thu hái theo kiểu tuốt cành là phổ biến, quả xanh chín lẫn lộn, dẫn đến chất lượng cà phê chế biến thấp, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cũng cao (thu hái xanh 50% có tỷ lệ tổn thất lên đến 8%). Ngoài ra, khâu chế biến cũng còn nhiều bất cập, góp phần ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng cà phê. Trong khâu chế biến nước ta hiện nay vẫn sử dụng hai 19 phương pháp, chế biến khô và chế biến ướt. Trong đó phương pháp chế biến khô vẫn được dùng phổ biến (khoảng 80% sản lượng). Phương pháp này cho hương vị cà phê không bằng phương pháp ướt. Mặt khác lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốn nhiều công phơi đảo, đòi hỏi diện tích kho và sân phơi lớn. Hiện nay, ở nước ta chế biến cà phê vẫn chủ yếu ở quy mô gia đình (80% sản lượng cà phê). Vì thế tính đồng bộ kém, thiết bị chế biến đơn giản, chủ yêu là các máy xát nhỏ. Hiện tại, cả nước mới có hơn 50 dây chuyền chế biến công nghiệp, trong đó có 14 dây chuyền nhập ngoại (một của Anh và ba của Brazil), số còn lại được chế tạo trong nước với tổng công suất 100000 tấn nhân/năm (công suất mỗi dây chuyền từ 1 – 4 tấn/giờ). Từ những thực tế trên đây, mặc dù chất lượng vốn có của cà vối (Robusta) trồng ở nước ta được đánh giá cao: chất lượng thử nếm có 35% rất tốt; 50% tốt; 10% ở mức trung bình và chỉ có 5% là loại trung bình kém. Song trên thực tế, chất lượng cà phê nhân xuất khẩu của Việt Nam lại không thể hiện những chỉ tiêu trên. Mấy năm gần đây, tỷ lệ cà phê xuất khẩu loại I ở nước ta chỉ đạt mức dưới 20%. Ngoài các nguyên nhân trên, chất lượng cà phê xuất khẩu của ta bị giảm sút do sự đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch chưa tương xứng với tốc độ tăng nhanh của sản lượng. Thêm vào đó, giá thành sản xuất cà phê ở nước ta so với các nước là tương đối cao (tới hàng triệu đồng/tấn). Có thực tế này là do khấu hao cơ bẳn và xây dựng hạ tầng chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành. Chi phí về chế biến có sự dao động lớn (từ 800 – 1800đ/kg) phụ thuộc vào quy mô, loại hình và mức độ trang bị. Theo ý kiến của các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, vấn đề đánh giá chất lượng cà phê của nước ta cũng có nhiều bất cập với các tiêu chuẩn quốc tế, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả xuất khẩu. Cách tính lỗi của tiêu chuẩn Việt Nam quy định theo % trong khi tiêu chuẩn thị trường kỳ hạn Luôn Đôn tính lỗi theo cách điểm. Tiêu chuẩn Việt Nam quy định kích cỡ hạt trên sàng số 16 (6,3mm), trong khi nhiều khách nước ngoài lại yêu cầu cà phê loại kích thước trên sàng là số 18 (tức là 7,15 mm). Những bất đồng trong cách xác định tiểu chuẩn trên đây đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng xuất khẩu của cà phê Việt Nam. Vì vậy, thống nhất tiểu chuẩn trong đánh giá chất lượng là việc làm cần thiết, tránh những bất lợi cho ngành cà phê nước ta. 4.3 Thiếu tính đồng bộ giữa các khâu. Ngành cà phê Việt Nam vẫn chưa gắn sản xuất với chế biến, thu mua, xuất khẩu. Thực trạng hiện tại là người sản xuất chỉ biết sản xuất còn các khâu sơ chế, chế biến, thu gom, xuất khẩu hoàn toàn do các doanh nghiệp, tư thương lo liệu. Tình hình trên đã dấn đến hậu quả là sản lượng cà phê dư thừa, ứ đọng lớn, chất lượng và giá cả giảm. Một số năm nhà nước phải bù lỗ lãi suất ngân hàng để mua cà phê tạm trữ xuất khẩu. Người trồng cà phê luôn trong cảnh thiếu thông tin và thông tin không được cập nhật làm họ không nắm được giá cả diễn biến trong năm để có phương hướng điều chỉnh mức cầu thích hợp với diễn biến của thị trường cho mùa vụ tới. Thiếu thông tin người nông dân không còn kiểm soát được việc bán sản phẩm, khi nào thì nên bán, bán với giá bao nhiêu, vì vậy thường xuyên bị ép giá. Người trồng cà phê cho biết họ không nhận được sự giúp đỡ nào khi bán sản phẩm cho những công ty chế biến hoặc xuất khẩu cà phê. Hơn nữa, việc sản xuất phân tán tạo ra những khó khăn lớn trong việc tập trung nguồn hàng và giao hàng đúng hạn theo hợp đồng đã kí kết. Với trên 150 đơn vị xuất khẩu và gần hàng chục công ty 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan