Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giải pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may tại việt nam...

Tài liệu Giải pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may tại việt nam

.DOC
37
59
105

Mô tả:

1 LỜI MỞ ĐẦU Ngày 11-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Ba năm qua, trên con đường hội nhập quốc tế, nước ta đã tham gia đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, mở rộng thị trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các thể chế, đồng thời, cải tiến nền hành chính quốc gia theo hướng hiện đại.Từ đó việc cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt và khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp dệt may cũng vậy ngoài việc sản xuất cũng rất cần phải đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ để đáp ứng tốt cho việc sản xuất được liên tục và đều đặn.Với quy của các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam, liệu có cần phải nghiên cứu thêm về hoạt động tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp nhằm nâng cao hoạt động này trong nền kinh tế thị trường thời mở cửa. Chỉ có một câu trả lời duy nhất, hoạt động tiêu thụ sản phẩm luôn luôn đóng vai trò quan trọng trong mọi chiến lược của các Công ty. Dù chiến lược đó có là nâng cao sức mạnh cạnh tranh bằng chất lượng, nâng cao thị phần, thu lại nhiều nhất lợi nhuận hay doanh thu cho doanh nghiệp,… thì cuối cùng tất cả vẫn xoay quay vấn đề làm sao để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp. Tiêu thụ sản phẩm bản thân không phải là một vấn đề trầm trọng của các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam. Nhưng do những vai trò quan trọng của hoạt động tiêu thụ sản phẩm đối với sự sống còn, mở rộng hay phát triển một doanh nghiệp nên hoạt động này vấn luôn cần được chú ý để nghiên cứu đẩy mạnh nó không ngừng phát triển Ý thức sâu sắc được vấn đề đó nên trong quá trình thực tập cùng với những kiến thức, lý luận đã học được ở trên trường, để tìm hiểu về: “Giải pháp đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam” Nội dung đề án gồm 3 chương Chương 1 : Lý thuyết chung về hoạt động tiêu thụ Chương 2: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam Chương 3: Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 2 CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ 1.1. Khái niệm về quản trị tiêu thụ Quản trị kinh doanh truyền thống quan niệm Tiêu thụ sản phẩm là hoạt động đi sau sản xuất chỉ được thực hiện khi đã sản xuất được sản phẩm:” Doanh ngiệp bán cái mình có”.Mọi hoạt động của doanh nghiệp đều phải dựa vào khả năng tiêu thụ,nhịp độ tiêu thụ quy định nhịp độ của sản xuất người sản xuất chỉ có thể và phải bán cái thị trường cần chứ không thể bán cái mình có. Vì vậy,Quản trị kinh doanh hiện đại luôn phải đặt công tác điều tra nghiên cứu khả năng tiêu thụ trước khi tiến hành sản xuất thực tế. *Quản trị tiêu thụ sản phẩm là tổng hợp các hoạt động xây dựng kế hoạch ,các chính sách và giải pháp tiêu thụ và tổ chức thực hiện các kế hoạch,chính sách và giải pháp ấy nhằm đảm bảo luôn được tiêu thụ hết các sản phẩm với lợi ích lớn nhất cho cả doanh nghiệp và khách hàng. Quản trị tiêu thụ làm cho công tác sản phẩm không phải là hoạt động thụ động mà chủ động từ việc nghiên cứu thị trường,xác định đúng đắn cầu thị trường và cầu của bản thân doanh nghiệp đang và sẽ có khả năng sản xuất để quyết định đầu tư tối ưu,thiết kế hệ thống kênh phân phối phù hợp,chủ động tiến hành các hoạt động quảng cáo cần thiết nhằm giới thiệu và thu hút khách hàng. Nội dung chủ yếu của quản trị tiêu thụ Quản trị tiêu thụ thường bao gồm các hoạt động chủ yếu là tổ chức chuẩn bị bao gồm nghiên cứu thị trường,QT hệ thống kênh phân phối,quảng cáo ,xúc tiến và thúc đẩy hoạt động bán hàng,tổ chức hoạt động bán hàng và tổ chức dịch vụ sau bán hàng.  1.2.1.Nghiên cứu thị trường Thị trường là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế phát sinh liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa. Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập ,xử lý và phân tích số liệu về thị trường một cách hệ thống làm cơ sở cho các quyết định quản trị. Nội dung chủ yếu của nghiên cứu thị trường gồm có -Nghiên cứu cầu -Nghiên cứu cung -Nghiên cứu mạng lưới tiêu thụ Để nghiên cứu thị trường cần có các phương pháp 3 -Phương pháp nghiên cứu chung(nghiên cứu chi tiết thị trường và nghiên cứu tổng hợp thị trường -Phương pháp nghiên cứu cụ thể( nghiên cứu trực tiếp và nghiên cứu gián tiếp) Xây dựng và quản trị hệ thống kênh phân phối Kênh phân phối là tổng thể các thành viên tham gia vào quá trình phân phối sản phẩm của doanh nghiệp -Kênh phân phối trực tiếp nếu người sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng -Kênh phân phối gián tiếp nếu người sản xuất không bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng,giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng có các trung gian khác nhau. Để xây dựng hệ thống kênh phân phối phải tuân thủ các qui trình xây dựng 1,Phân tức các căn cứ 2,Xác định mục tiêu 3,Xác định các yêu cầu chủ yếu 4,Xây dựng các điểm bán hàng 1.2.2.Xây dựng chính sách tiêu thụ 2.1 Chính sách sản phẩm đề cập đến nguyên tắc chỉ đạo,quy tắc ,thủ tục được thiết lập gắn với việc thiết kế,sản xuất và cung cấp sản phẩm. -Thứ nhất ,chính sách đưa một sản phẩm mới vào thị trường hoặc loại bỏ một sản phẩm cũ ra khỏi thị trường gắn với chu kỳ sống của sản phẩm -Thứ hai, chính sách hình thành sản phẩm mới và khác biệt hóa sản phẩm -Thứ ba,chính sách bao gói 2.2 Chính sách giá cả đề cập đến tổng thể các nguyên tắc,phương pháp và giải pháp tác động vào giá cả nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động tiêu thụ,đem lại lợi ích cho cả DN và khách hàng -Thứ nhất,cơ sở của chính sách giá – giới hạn dưới của giá bán sản phẩm là: Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung,giá cả được xây dựng từu giá thành,tức P= Z +% π 4 -Thứ hai,tùy chiến lược và tình hình KD cụ thể ở từng thị trường bộ phận với từng sản phẩm cụ thể mà mọi doanh nghiệp đều có thể đưa ra các chính sách về giá. 2.3 Chính sách xúc tiến đề cập đến tổng thể các nguyên tắc cơ bản,các phương pháp thủ tục,giải pháp xúc tiến bán hàng nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm. -Thứ nhất, chính sách quảng cáo -Thứ hai,chính sách khuyến mại 2.4 Chính sách phân phối đề cập đến tổng thể các nguyên tắc cơ bản,các phương pháp thủ tục và giải pháp ở kĩnh vực phân phối nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm,đảm bảo thực hiện các mục tieeutieeu thụ với hiệu quả cao nhất cho DN và lợi ích lớn nhất cho khách hàng trong từng thời kỳ cụ thể 2.5 Chính sách thanh toán đề cập đến tổng thể các nguyên tắc cơ bản,các phương pháp thủ tục và các phương pháp thanh toán nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng khi mua sản phẩm của doanh ngiệp -Chính sách thanh toán đề cập nguyên tắc như: hình thức thanh toán nào? ở thị trường nao? Đối với khách hàng nào? Sử dụng linh hoạt các phương pháp như thế nào? 2.6 Chính sách phục vụ khách hàng đề cập đến tổng thể các nguyên tắc cơ bản,các phương tiện phương pháp phục vụ khách hàng tốt nhất khi họ dùng sản phẩm của doanh nghiệp. -Chính sách phục vụ khách hàng đề cập đến các nguyên tắc ,kết hợp để quyết định sử dụng các kỹ thuật phục vụ khách hàng nào? ở thị trường nào…DN cần có các điều kiện và giải pháp nào nhằm thực hiện có hiệu quả cá hình thức và kĩ thuật phục vụ khách hàng đã xác định 5 3. Xây dựng kế hoạch tiêu thụ -Kế hoạch bán hàng -Kế hoạch marketing -Kế hoạch chi phí kinh doanh tiêu thụ Để xây dựng kế hoạch tiêu thụ cần dựa trên những căn cứ cụ thể,doanh thu bán hàng ở các thời kỳ trước,kết quả nghiên cứu thị trường cụ thể ,năng lực sản xuất và chi phí kinh doanh tiêu thụ của DN.Khi kế hoạch hóa tiêu thụ phải tính toán,cân nhắc kỹ đến kế hoạch sản xuất đưa ra nhiều phương án kết hợp khác nhau nhằm tìm ra được phương án thỏa mãn nhất các mục tiêu và chỉ ra các chính sách cũng như giải pháp tiêu thụ sản phẩm thíc hợp Phân tích và đưa ra các dự báo liên quan đến tình hình thị trường ,mạnh yếu của DN,các mục tiêu kế hoạch tiêu thụ sản phẩm,ngân quỹ có thể dành cho hoạt động Marketing…Nội dung chủ yếu của kế hoạch marketing gắn với lập kế hoạch sản phẩm nhằm xác định các sản phẩm mới được bổ sung,sản phẩm cũ nào phảo chấm dứt,sản phẩm nào cần được đổi mới. Để kế hoạch hóa quảng cáo phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch quảng cáo , mục tiêu cụ thể phải đạt cảu kỳ kế hoạch,tác dụng của quảng cáo,thời gian và không gian.Nội dung chủ yếu là xác định các hình thức quảng cáo ,quy mô của mỗi hình thức quảng cáo và xác định các phương tiện sử dụng cũng như xác định ngân quỹ quảng cáo tối ưu cho kỳ kế hoạch. Để xác định chi phí KD tiêu thụ cho từng sản phẩm một cách chính xác sẽ phải tìm cách tập hợp và phân bổ chi phí KD tiêu thụ gián tiếp cho từng điểm chi phí.Có thể hình thành các điểm chi phí theo nhiệm vụ như lưu kho,quảng cáo,bán hàng vận chuyển… 4. Tổ chức bán hàng và dịch vụ sau bán hàng Mục tiêu của thiết kế và trang thiết bị nơi bán hàng không chỉ đảm bảo cho quá trình bán hàng thuận lợi,bảo quản hàng hóa mà còn phải thu hút khách hàng. Nhằm thu hút khách hàng phải chú ý đến khâu thiết kế và trang thiết bị nơi bán hàng. Phải tính toán ,tuyển chọn đầy đủ lực lượng nhân viên bán hàng cần thiết. Trên cơ sở trang thiết bị sẵn có việc bố trí,sắp đặt ,trình bày hàng hóa là một công việc không phải chỉ đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật mà phải có tinh nghệ thuật cao.Chính sach giá cả hợp lý cũng là một chất xúc tác quan trọng,là một công cụ hữu hiệu nhằm giành thắng lợi trong cạnh tranh 6 Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ sau bán hàng là điều kiện không thể thiếu nhằm duy trì,củng cố và mở rộng hoạt động tiêu thụ sản phẩm cũng như thị trường.Yêu cầu chung đối với mọi hoạt động dịch vụ sau bán hàng và đảm bảo nhanh chóng,thuận tiện,không được gây khó khăn cho khách hàng.Yêu cầu tổ chức hoạt động dịch vụ sau bán hàng là đảm bảo chất lượng cung cấp dịch vụ và tính hiệu quả.Các hoạt động dịch vụ sau bán hàng quan trọng nhất là hướng dẫn và bảo hành, cung cấp phụ tùng và dịch vụ sửa chữa. 1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của các DN dệt may VIệt Nam 1.3.1Môi trường vĩ mô - * Môi trường quốc tế : Việt Nam gia nhập WTO, một thuận lợi lớn cho ngành Dệt May Việt Nam khi chế độ hạn ngạch với dệt may chính thức được bãi bỏ kể từ ngày 1/1/2005, theo quy định của Hiệp định Dệt may ATC đã ký kết giữa các thành viên WTO. Việt Nam là thành viên WTO nên được hưởng quyền lợi trong hiệp định này. Liên minh Châu âu và Canada tuyên bố bãi bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam kể từ ngày 1/1/2005. Đây cũng là những thị trường quan trọng của các doanh nghiệp, điều này mang lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là mở rộng hơn nữa kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU- một thị trường nhiều tiềm năng, Mỹ, một thị trường tiêu thụ lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam,. Khi các nước thành viên WTO không còn bị ràng buộc bởi hạn ngạch thì giá sản phẩm của các nước này giảm từ 20-40%. Thị trường nhập khẩu (phi hạn ngạch) đầy tiềm năng - Nhật Bản: hiện việc sản xuất quần áo nội địa của nước này đã giảm sút mạnh cả về số lượng và giá trị. Trong khi đó, hàng may mặc nhập khẩu Việt Nam, Indonesia và các nước ASEAN khác hiện chiếm thị phần khá nhỏ ở Nhật Bản. Đây cũng là một cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ của mình ở Nhật. Thổ Nhĩ Kì kiểm soát nhập khẩu dệt may Việt Nam: theo quy chế mới, một số mặt hàng dệt may của Việt Nam muốn nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ phải có giấy kiểm soát do Ban Thư ký Ngoại thương nước sở tại cấp. Thổ Nhĩ Kỳ là một thị trường xuất khẩu mới của các doanh nghiệp , quy định này sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến tiến độ xuất khẩu hàng sang nước này khi mà chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm thực hiện các loại thủ tục hành chính. Việt Nam gia nhập CEPT/AFTA - hệ thống ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).Theo đó hàng hoá nước ta xuất sang các nước ASEAN sẽ được hưởng mức thuế thấp hơn các nước khác, đây sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng thêm thị trường ở các nước trong khu vực. *Môi trường trong nước 7 - Chính phủ đồng ý về mặt nguyên tắc với đề nghị cho phép chuyển nhượng hạn ngạch dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ giữa các doanh nghiệp. Điều này tạo ra nhiều cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm đơn hàng, tận dụng tối ưu hạn ngạch, chủ động hơn trong các cuộc đàm phán ký kết hợp đồng. -Cơ chế cấp Visa tự động đối với 12 chủng loại hàng dệt may xuất sang Mỹ được Bộ thương mại áp dụng từ ngày 1/2/2005. Tất cả các DN dệt may có thành tích xuất khẩu 2004 và có thực lực sản xuất đều được hưởng quy chế này. Bộ Tài Chính ban hành quyết định xoá lệ phí hạn ngạch sang 2 thị trường EU, Canada vào đầu tháng 2/2005. Theo đó, nó tạo ra thế cạnh tranh giá cả cân bằng giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các nước khác, đặc biệt là các thành viên WTO. Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Bộ Công nghiệp đã mở cuộc vận động các nhà đầu tư nước ngoài đưa máy móc thiết bị sản xuất vải, nhuộm vào làm ăn tại Việt Nam, góp phần tăng nguồn cung cấp nguyên phụ liệu dệt may trong nước. - 1.3.2 Môi trường vi mô * Khách hàng: gồm người tiêu dùng các nhân và khách hàng công nghiệp. Khách hàng quốc tế chính hiện nay là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... đây là những khách hàng đầy tiềm năng nhưng khó tính, đòi hỏi sản phẩm chất lượng cao, mẫu mã hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với văn hoá quốc gia. Khách hàng công nghiệp trong nước gồm một số công ty may; người tiêu dùng Việt Nam hiện cũng có nhu cầu và đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm và kế hoạch marketing hợp lý. * Đối thủ cạnh tranh : thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam là có rất nhiều doanh nghiệp dệt may trong nước và quốc tế không ngừng cạnh tranh nhau trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu. -Đối thủ cạnh tranh quốc tế nặng ký hiện nay của doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói chung và của Hanosimex là Trung Quốc, ấn Độ...những nước có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm dệt may có giá cạnh tranh và có nguồn lao động lành nghề, giá tương đối thấp, không khác mấy Việt Nam. Bangladesh và Pakistan cũng là đối thủ cạnh tranh mới về một số mặt hàng như áo dệt kim, sơ mi vải bông, quần áo vải bông nam... có giá thành tương đối thấp Đối thủ cạnh tranh trong nước: hai dòng sản phẩm đang thịnh hành trên thị trường nội địa là hàng thời trang nữ của Trung Quốc và hàng thời trang cao cấp của một số nước xung quanh như Thái Lan. Các đối thủ dệt may trong nước đã có chỗ đứng trong tâm trí người tiêu dùng Việt Nam chủ yếu là Việt Tiến, Việt Thắng, Nhà Bè, May 10, Dệt 8/3, Dệt Huế, Dệt Nha Trang, Thăng Long... bên cạnh đó phải kể đến các cửa hàng thiết kế, may mẫu thời trang bán sẵn trong nước hiện rất được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng do tính độc đáo của sản phẩm. 8 9 Chương 2: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 2.1 Khái quát về các doanh nghiệp dệt may Việt Nam giai đoạn 2007_2010 Ngành may Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời. Dệt may là ngành hàng mũi nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Từ nhiều năm qua, sản phẩm dệt may Việt Nam không ngừng phát triển về số lượng, cơ cấu chủng loại và giá trị kim ngạch, trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiếm giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Những thành công của sản phẩm may mặc trên thị trường quốc tế đã đánh dấu bước khởi đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong toàn ngành Dệt may, may mặc là ngành có nhiều tiềm năng phát triển, có lợi thế cạnh tranh lớn trên trường quốc tế.Theo thống kê của hiệp hội dệt may Việt Nam đến tháng 10 năm 2011 thì Việt Nam có 3710 doanh nghiệp dệt may trên cả nước. 2.1.1. Tình hình sản xuất và cung ứng trong nước Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát triển khá mạnh. Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc.... Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động, chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những năm qua, tuy đã nhập bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10.500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng khoảng 15% công suất dệt. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao cũng như nhu cầu hàng dệt may trong nước. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, với hơn 86 triệu dân hiện nay, thị trường tiêu thụ nội địa rất lớn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may. Tốc độ tăng 10 trưởng trong tiêu thụ hàng nội địa đạt khoảng 15%/năm, nhưng thực tế chỉ chiếm 1/4 năng lực sản xuất. Phần lớn doanh nghiệp dệt may trong nước chỉ chú trọng xuất khẩu, chưa quan tâm phát triển xây dựng thương hiệu tại thị trường nội địa. Những doanh nghiệp đã xây dựng thành công hệ thống phân phối của riêng mình như Việt Tiến, Nhà Bè, Thành Công, NinoMaxx,… vẫn còn đếm trên đầu ngón tay và chiếm tỷ lệ thị phần còn khá khiêm tốn so với tổng dung lượng của cả thị trường. Trong khi đó những thương hiệu thời trang lớn trên thế giới như Levi’s, D&G, Lolita, Valentino, … đều đã có mặt tại thị trường VN và đang dần dần mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Thực tế chỉ trong 6 tháng đầu năm 2010, tổng doanh thu từ thị trường trong nước đạt 6.000 tỷ đồng, tăng 28% so với cùng kỳ. Sau một thời gian dài bị bỏ ngỏ, đến nay, thị trường nội địa đang dần khẳng định vai trò là hậu phương vững chắc cho ngành dệt may phát triển bền vững và toàn diện. Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng ngày một tăng, tuy không đồng đều giữa các tầng lớp xã hội, nhưng chính điều đó lại tạo nên sự đa dạng trong phân khúc thị trường. Cũng đồng nghĩa với việc, các DN dệt may có đa dạng hơn đối tượng phục vụ... Bên cạnh đó, cuộc vận động “người Việt dùng hàng Việt” ngày càng nhận được sự ủng hộ, tâm lý tin dùng hàng nội địa ngày càng định hình rõ nét, đã tạo cơ hội rất thuận lợi cho các DN dệt may mở rộng thị phần. Đây thực sự là tiềm năng lớn mà các DN trong ngành dệt may không nên bỏ qua. Trên thị trường nội địa, các sản phẩm Dệt may Việt Nam được phân phối thông qua khoảng 15.000 đại lý và cửa hàng bán lẻ. Trong thời gian gần đây, nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào xuất khẩu do mức độ cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đang thúc đẩy bán hàng trên thị trường trong nước. Một xu hướng đang diễn ra giữa các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam là cùng hợp tác để mở các cửa hàng bán lẻ mới nhằm thu hút nhiều đối tượng khách hàng bằng những địa chỉ mua sắm có nhiều mặt hàng và mẫu mã đa dạng hơn. Nếu như trước đây, hệ thống cửa hàng, đại lý của các doanh nghiệp dệt may chỉ có mặt ở các trung tâm thương mại hay các vị trí đắc địa tại các thành phố lớn, thì nay, người tiêu dùng đã dễ dàng tìm thấy hệ thống bán lẻ hàng may mặc Việt Nam ở khắp các tỉnh thành trên cả nước. Tập đoàn Dệt may Việt Nam còn có riêng một hệ thống siêu thị Vinatex Mart của công ty kinh doanh hàng thời trang với 58 điểm bán hàng ở 24 tỉnh thành trong cả nước, mỗi năm tiêu thụ 32.000 mã hàng và 11 triệu sản phẩm. Điều này đã góp phần không nhỏ trong việc hỗ trợ các đơn vị dệt may trong nước tăng trưởng doanh thu nội địa. Bên cạnh việc đẩy mạnh kênh phân phối, mạng lưới bán lẻ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam còn đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài những thương hiệu thời trang cao cấp, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng có thu nhập cao, nhiều dòng sản phẩm dành cho người lao động có thu 11 nhập trung bình thấp với chất lượng tốt, giá thành hợp lý đã thỏa mãn được nhu cầu mặc đẹp của tầng lớp bình dân. 2.1.2. Thực trạnh xuất khẩu của ngành dệt may ra nước ngoài Ngành dệt may hiện là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam và có tốc độ tăng trưởng cao qua các năm. Sản phẩm Dệt may của Việt Nam đã thiết lập được vị thế trên các thị trường khó tính như Mỹ, EU và Nhật Bản. Theo số liệu của Trung tâm thương mại thế giới, Việt Nam đứng trong danh sách TOP 10 các nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới về hàng Dệt may trong giai đoạn 2007-2009 và đứng ở vị trí thứ 7 trong năm 2010 với thị phần xuất khẩu gần 3%, sau Trung Quốc (thị phần 36.6%), Bangladesh (4,32%), Đức (5,03%), Italy (5%), Ấn Độ (3,9%) và Thổ Nhĩ Kỳ (3,7%). Bình quân giai đoạn 2006-10/2011, ngành Dệt may đóng góp trên 15% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm 2006-2008, Dệt may là ngành hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô. Tuy nhiên, từ năm 2009 tính đến hết 10 tháng đầu năm 2011, Dệt may đã vươn lên vị trí hàng đầu mặc dù tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu có giảm nhẹ. Bảng 1 - Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may (2007-10/2011) Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 10/2011 Kim ngạch xuất khẩu dệt 7 750 may(tr USD) 9 120 9 066 11 175 11 693 % tổng kim ngạch XK của Việt 16,02 Nam 14,50 16,02 15,60 14,98 Tăng trưởng so với cùng kì năm trước theo giá hiện thời 17,68 -0,59 23,26 29,40 Tính theo giá hiện thời, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may Việt Nam tăng trưởng mạnh trong năm 2008 (gần 18%). Tuy nhiên, đến năm 2009, dưới ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu Dệt may của Việt Nam giảm nhẹ (gần 0,6%) so với năm 2008 xuống còn 9.066 triệu USD. Sự sụt giảm này có thể do các nhà sản xuất giảm giá hàng bán để khuyến khích người mua trong điều kiện nhu cầu tiêu thụ sụt giảm và do người mua chuyển sang sử dụng các sản phẩm rẻ tiền hơn để cắt giảm chi tiêu trong tình hình kinh tế khó khăn. Trong năm 2010, giá trị xuất khẩu Dệt may của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ trở lại với 12 tốc độ tăng trên 20% (năm 2010) do các đơn hàng gia công được chuyển dần từ Trung Quốc sang Việt Nam, đồng thời, Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu sang các thị trường mới như Đài Loan, Hàn Quốc, các nước ASEAN. và gần 30% (10 tháng năm 2011) so với cùng kỳ năm trước.Trong 10 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may tiếp tục tăng trưởng cao (gần 30% so với cùng kỳ năm 2010). Theo Bộ Công Thương, giá xuất khẩu Dệt may của Việt Nam, tăng liên tục trong những tháng đầu năm 2011 kể từ tháng 3/2011. Riêng trong tháng 9/2011, giá các mặt hàng dệt may xuất khẩu tăng 0,4% so với tháng 8/2011 và tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước. Việt Nam xuất khẩu hàng Dệt may đi 54 thị trường trên toàn thế giới. Trong đó, các khách hàng lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada và Đài Loan. 9 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may đến các thị trường này chiếm gần 89,5% tổng kim ngạch. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt giá trị tăng trưởng cao năm 2011 là do các doanh nghiệp trong nước đã thực hiện tốt công tác dự báo, tổ chức hoạt động đầu tư và sản xuất hiệu quả, tạo dựng được niềm tin và mối quan hệ thân thiết với các đối tác, khách hàng. 2.1.3. Năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam Ngành dệt may Việt Nam còn có khá nhiều tiềm năng cho xuất khẩu. Tiềm năng này trước hết là do nguồn lao động còn lớn, đặc biệt là nhờ cấu trúc dân số trẻ, nên chi phí cho lao động không tăng nhanh như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của hàng dệt may. Bên cạnh đó, Việt Nam có môi trường đầu tư ổn định, với tiềm năng tăng trưởng cao, nên có sức hấp dẫn với nhà đầu tư và bạn hàng nước ngoài. Hơn nữa, Việt Nam cũng đang tham gia ngày một sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với việc cải thiện hình ảnh của Việt Nam, quá trình này còn giúp gia tăng tiếp cận thị trường cho hàng hóa của Việt Nam nói chung và hàng dệt may của Việt Nam nói riêng. Một số đánh giá về triển vọng của ngành dệt may Việt Nam được trình bày trong bảng dưới đây. Bảng: Số liệu và dự báo tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu dệt may của Việt Nam giai đoạn 2006-2013 2009 Sản xuất 2006 2007 2008 2011 2012 2013 2010 Giá trị gia tăng, 3.205, 3.899,6 5.136,8 4.789,3 4.764,5 5.721,1 6.847,6 7.759,3 triệu đô la Mỹ 5 Giá trị gia tăng, % 5,3 5,5 5,7 5,2 4,9 5,0 5,0 5,1 13 trong GDP Tốc độ tăng trưởng 13,2 13,5 9,2 -3,0 -0,9 9,8 9,2 9,0 giá trị gia tăng, % Giá trị gia tăng ngành dệt, triệu đô 325,0 368,9 402,8 390,7 387,2 423,2 460,0 499,2 la Mỹ Thương mại quốc tế Kim ngạch XK 1.058 1.352,0 1.690,0 1.318,2 1.453,5 1.598,8 1.742,7 1.912,7 hàng dệt, triệu USD 4.940,0 Kim ngạch NK 3.988 4.699,8 5.056,9 5.166,8 4.990,7 5.096,5 hàng dệt, triệu USD 5.874,8 Cán cân thương mại ngành dệt, triệu -2.930 -3.588,0 -4.184,8 -3.381,6 -3.603,4 -3.568,0 -3.247,9 -3.183,8 USD Kim ngạch XK hàng may mặc, 5.579 7.186,0 9.054,4 7.424,6 8.335,4 8.898,6 8.929,0 9.505,3 triệu USD Kim ngạch NK hàng may mặc, 271,0 426,0 449,8 337,3 379,8 414,0 451,3 497,3 triệu USD Cán cân thương mại ngành may 5.308 6.760,0 8.604,6 7.087,2 7.955,6 8.484,6 8.477,7 9.008,0 mặc, triệu USD Nguồn: BMI (tháng 7/2009) Giá trị gia tăng của ngành hàng may mặc được dự báo sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2011-2013, mặc dù có giảm lần lượt 3,0% và 0,9% vào các năm 2009 và 2010. Đây là triển vọng khá tích cực, ngay cả khi tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn 2011-2013 còn thấp hơn so với mức trung bình trong các năm 2003-2008 (11,9%). Cũng do tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với GDP mà tỷ trọng giá trị gia tăng của ngành may mặc trong GDP trong giai đoạn 2009-2013 sẽ thấp hơn so với mức trong giai đoạn 2006-2008. Tương tự, giá trị gia tăng của ngành dệt cũng giảm nhẹ từ mức gần 403 triệu USD vào năm 2008 xuống còn xấp xỉ 391 triệu USD và hơn 387 triệu USD lần lượt vào các năm 2009-2010, trước khi tăng liên tục lên khoảng 500 triệu USD vào năm 2013. Tuy giá trị gia tăng có giảm, nhưng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may chỉ giảm trong năm 2009, và sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2010-2013. Theo BMI (2009), kim ngạch xuất khẩu hàng dệt tăng liên tục từ mức hơn 1,3 tỷ USD vào năm 2009 lên hơn 1,9 tỷ USD vào năm 2013, với tốc độ tăng trung bình khoảng 14 9,8%/năm trong 2010-2013. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc cũng tăng từ mức hơn 7,4 tỷ USD lên hơn 9,5 tỷ USD trong giai đoạn 2009-2013. Tư cách thành viên của ASEAN, APEC và WTO, vv và các hiệp định thương mại tự do, song phương và đa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng Dệt may Việt Nam có mặt nhiều hơn và rộng hơn trên thị trường quốc tế. Hàng Dệt may Việt Nam đã được xuất khẩu sang hầu hết thị trường quan trọng trên thế giới như Mỹ, EU, Nhật Bản, vv. Kim ngạch nhập khẩu hàng Dệt may thế giới đã đạt trên 450 tỷ USD/năm cho thấy tiềm năng tiêu dùng của ngành này còn rất lớn. Mặc dù đứng trong Top 10 nước xuất khẩu thế giới, thị phần của Việt Nam năm 2010 chỉ chiếm gần 3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu, tuy đã cải thiện đáng kể so với tỷ lệ 1,65% của năm 2009 nhưng vẫn là một tỷ lệ rất khiêm tốn và có một khoảng cách quá xa với nước đứng đầu danh sách là Trung Quốc với thị phần gần 36,7% 2.1.4. Mục tiêu, phương hướng của ngành trong tương lai Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô hiện tại, toàn ngành phải nỗ lực tập trung vào các dự án sinh lời, cắt giảm hoặc tạm dừng các dự án có tỉ suất lợi nhuận trên vốn thấp (dưới 20%). Trong ngắn hạn cần phát triển nguồn nhân lực, một kế hoạch đào tạo 3 vạn lao động đã được triển khai. Lâu dài, phải phát triển vùng nguyên liệu trong nước, đa dạng hóa các loại nguyên liệu từ chỗ phụ thuộc vào cây bông sang dùng nguyên liệu đay, cây lanh... Từng bước dịch chuyển vùng sản xuất cho phù hợp, hiện tại cơ cấu chưa hợp lý khi ngành dệt may chủ yếu tập trung ở Hà Nội (hơn 20%) và thành phố HCM (58%). Cơ cấu này sẽ không phát huy được sức mạnh của nguồn lao động tại chỗ. Bởi lẽ, qua khảo sát cho thấy, nếu người lao động làm việc ở chính quê hương họ với thu nhập khoảng 2 đến 2,5 triệu đồng/người/tháng là đã có thể yên tâm gắn bó công việc lâu dài. Nhưng với thu nhập 3,6 triệu đồng (là mức thu nhập bình quân của lao động dệt may hiện nay) thì sống ở đô thị, người lao động vẫn phải đối diện với nhiều khó khăn. Tập đoàn Dệt may Việt Nam cũng đã chính thức triển khai chiến lược phát triển từ nay đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Trong đó, tập trung vào phát triển dệt may trong nước theo hướng không chỉ nâng cao sản lượng mà còn tăng giá trị thông qua chất lượng. Mục tiêu chung đến năm 2020 là phát triển ngành dệt may trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập . 15 Bảng: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2015, với tầm nhìn đến năm 2020 Chỉ tiêu 1. Kim ngạch XK 2. Sử dụng lao động 3. Sản phẩm chủ yếu - Bông xơ - Xơ, sợi tổng hợp - Sợi các loại - Vải các loại - Sản phẩm may 4. Tỷ lệ nội địa hoá Đơn vị Triệu USD 1000 người Năm 2010 12.000 2.500 1000 Tấn 20 1000 Tấn 120 1000 Tấn 350 Triệu m2 1.000 Triệu sản 1.800 phẩm % 50 Năm 2015 18.000 2.750 Năm 2020 25.000 3.000 40 210 500 1.500 60 300 650 2.000 2.850 4.000 60 70 Nguồn: Bộ Công Thương. Trong giai đoạn 2011 – 2020 tăng trưởng bình quân 12 – 14%, xuất khẩu tăng 15%. Đến năm 2020, sản lượng sợi đạt 650 ngàn tấn/năm; sản lượng vải dệt đạt 2 tỷ m2 vải; sản lượng may đạt 4 tỷ sản phẩm; kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ USD, tạo việc làm cho 3 triệu lao động. Trong đó, mục tiêu của tập đoàn dệt may là đạt 300 ngàn tấn sợi/năm, sản lượng vải dệt đạt 675 triệu m2 vải, sản lượng may 706 triệu sản phẩm, kinh ngạch xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD, tạo việc làm cho 290 ngàn lao động. Tổng vốn đầu tư phát triển doanh nghiệp là 42.950 tỷ đồng, gồm nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, vốn từ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp (2012) và kêu gọi đầu tư trong nước và quốc tế, vốn vay thương mại. Trong thời gian tới, các mặt hàng chủ lực của ngành dệt may vẫn là các sản phẩm truyền thống như nguyên liệu bông, tơ sợi tổng hợp, sợi các loại, vải dệt thoi, vải dệt kim và các sản phẩm may mặc. Tuy nhiên, thứ tự và mức độ ưu tiên của các sản phẩm chủ lực là khác nhau. Trước hết, trong phát triển của ngành giai đoạn này sẽ tập trung tăng cường cho ngành may xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường; đa dạng hoá và nâng cao đẳng cấp mặt hàng. Hiện tỉ trọng đơn hàng xuất khẩu theo phương thức gia công là chủ yếu sẽ được tích cực thay đổi sang phương thức FOB (sử dụng một phần nguyên liệu trong nước thay vì sản xuất theo đơn đặt hàng) và sang hình thức bán sản phẩm gồm cả thiết kế(ODM). 16 Tỉ trọng sản phẩm ODM trong các đơn hàng dự kiến sẽ khoảng 5% ngay trong năm 2011, tăng lên15% vào năm 2015 và 20% năm 2020; đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ cho ngành may trong các hoạt động thiết kế thời trang, hỗ trợ nguồn cung ứng nguyên phụ liệu cho sản xuất kinh doanh. Ưu tiên thứ hai cho giai đoạn này là phát triển cây nguyên liệu; thứ ba là sản xuất vải và phụ liệu phục vụ may xuất khẩu. Hàng dệt may, thêu đan, may mặc của Việt Nam hiện đứng thứ 5 của thế giới và phấn đấu tiến lên hàng top 3 trong những năm tới. Trong năm 2011, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ thu về gần 7 tỷ đô la, bán sang EU thu hơn 2 tỷ đô la và xuất qua Nhật Bản chiếm một tỷ rưỡi đô la, kim ngạch trên một tỷ đô la còn lại là tại các thi trường khác khắp các châu lục. 2.2 Thực trạng quản trị hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam 2.2.1 Công tác thu thập và xử lý thông tin thị trường Các doanh nghiệp chủ yếu lấy thông tin từ báo, tạp chí, ấn phẩm, báo cáo, phương pháp này thường áp dụng để nghiên cứu khái quátvề thị trường lập danh sách những thị trường có triển vọng mà công ty cần tập trung khai thác. * Nhược điểm của phương pháp này là khó khăn trong việc lựa chọn thông tin từ cáo nguồn khác nhau. Thông tin có thể bị cũ, thông tin không chính xác, không đầy đủ, độ tin cậy không cao. * Ưu điểm: Dễ thực hiện tiết kiệm chi phí, thông tin sơ cấp thu được khi sử dụng một phương pháp như: Quan sát, thực nghiệm thăm dò, phỏng vấn, sau khi thu thập các thông tin cần thiết, công ty cần phải tiến hành xử lý thông tin để loại bỏ những thông tin không quan trọng, chưa chính xác, không thuyết phục, trên cơ sở đó xây dựng phương án đưa ra doanh nghiệp tiến hành đánh giá lựa chọn và quyết định phương án có hiệu quả nhất. Ý nghĩa của việc nghiên cứu thị trường Trên cơ sở nghiên cứu thị trường công ty nâng cao khả năng thích ứng với thị trường của các sản phẩm do mình sản xuất ra và tiến hành tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá mà thị trường đòi hỏi. + Doanh nghiệp có thể dự đoán hàng hoá tiêu thụ trên thị trường. +Thông qua nghiên cứu thị trường doanh nghiệp xác định được đối thủ cạnh tranh, điểm mạnh, điểm yếu của họ. Ví dụ như mấy năm gần đây, một số đơn vị của Vinatex đã chủ động đưa thương hiệu của dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới. Trường hợp đặc biệt là Việt Tiến đã có tổng đại lý tại Lào và Campuchia, tháng 4 tới đây sẽ có tổng đại lý 17 ở Myanmar và Trung Quốc. Khi am hiểu về văn hóa của các thị trường mà họ đưa sản phẩm sang như khi Việt Tiến đưa sản phẩm của mình sang thị trường EU thì cần phải đề cao chất lượng của sản phẩm,kiểu dáng đẹp 2.2.2 Phương pháp xây dựng và quản lý kênh phân phối * Chính sách phân phối là toàn bộ các công việc để đưa ra một sản phẩm hoặc dịch vụ từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng có nhu cầu đảm bảo về chất lượng ,thời gian,số lượng chung loại mà người tiêu dùng mong muốn . Kênh phân phối là con đường mà hàng hóa được lưu thông từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng .Nhờ nó mà khắc phục được ngăn cách về thời gian địa điểm và quyền sở hữu giữa người sản xuất. 18 SƠ ĐỒ KÊNH PHÂN PHỐI Nhà sản xuất --------------------------------------------------------Người tiêu dùng Nhà sản xuất-------------người bán lẻ-------------------------Người tiêu dùng Nhà sản xuất------đại lý------------ người bán lẻ-------- Người tiêu dùng Người bán buôn Người bán lẻ Người bán buôn Đại lý Người bán lẻ Công ty Dệt May Hà Nội Quầy QTSP Người tiêu dùng cuối cùng Đại lý Xuất khẩu ( Nguồn: Công ty dệt may hà nội) Kênh không cấp (kênh tiêu thụ trực tiếp) Gồm các nhà sản xuất bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng. Phương thức bán là bán tại công ty, bán lưu động. Kênh một cấp: Bao gồm người trung gian trên các thị trường người tiêu dùng, người trung gian này thường là người bán lẻ cần tren thị trường hàng tư liệu sản xuất thì người trung gian là đại lý tiêu thụ hay người môi giới. Kênh hai cấp bao gồm hai người trung gian. Trên thị trường thì những người này thường là người bán sỉ và người bán lẻ. Kênh ba cấp: Gồm ba người trung gian. Đối với kênh tiêu thụ sản phẩm trực tiếp do trực tiếp quan hệ với người tiêu thụ và thị trường nên dễ nắm bắt thị hiếu, tình hình tiêu thụ hàng hoá từ đó dễ tạo uy tín với khách hàng, phương thức phân phối trực tiếp diễn ra chậm công tác thanh toán phức tạp, doanh nghiệp là người chịu rủi ro. 19 Trên thực tế doanh nghiệp thường sử dụng các kênh tiêu thụ trực tiếp và kênh tiêu thụ gián tiếp. Khi xây dựng kênh phân phối doanh nghiệp cần tính đến: + Đặc điểm thị trường, sản phẩm. : + Đặc tính kỹ thuật của sản phẩm. + Đặc điểm của đối thủ cạnh tranh. Như công ty Việt Tiến đang thực hiện chiến lược phát triển thị trường trong nước với mức tăng trưởng lên 40%, đưa ra thị trường hàng loạt sản phẩm mới, nhất là các mặt hàng thời trang cao cấp như Viettien, Vee Sendy, T-Tup, Sciaro, Manhattan, Ngoài 17 cửa hàng và gần 600 đại lý bán sản phẩm của Việt Tiến, doanh nghiệp đang tiếp tục mở rộng, phát triển kênh phân phối, đưa sản phẩm vào 48 trung tâm thương mại. Tổng công ty cổ phần May Nhà Bè có kế hoạch tăng trưởng thị trường nội địa cho năm nay dự kiến là 200%. Đây là một tỷ lệ ấn tượng trong bối cảnh sức mua của nhiều mặt hàng đều suy giảm. Đây là những dấu hiệu tốt cho thấy ngành may mặc đang phát triển rất mạnh trên thị trường nội địa.Và các doanh nghiệp cũng chú trọng phát triên kênh phân phối trong nước. Theo FineIntel, trên thị trường nội địa, các sản phẩm Dệt may Việt Nam được phân phối thông qua khoảng 15.000 đại lý và cửa hàng bán lẻ. Trong thời gian gần đây, nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào xuất khẩu do mức độ cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đang thúc đẩy bán hàng trên thị trường trong nước 2.2.3 Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ Theo số liệu của Trung tâm thương mại thế giới, Việt Nam đứng trong danh sách TOP 10 các nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới về hàng Dệt may trong giai đoạn 2007-2009 và đứng ở vị trí thứ 7 trong năm 2010 với thị phần xuất khẩu gần 3%, sau Trung Quốc (thị phần 36.6%), Bangladesh (4,32%), Đức (5,03%),Italy (5%), Ấn Độ (3,9%) và Thổ Nhĩ Kỳ (3,7%). Bình quân giai đoạn 2006-10/2011, ngành Dệt may đóng góp trên 15% vào tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm 2006-2008, Dệt may là ngành hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô. Tuy nhiên, từ năm 2009 tính đến hết 10 tháng đầu năm 2011, Dệt may đã vươn lên vị trí hàng đầu mặc dù tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu có giảm nhẹ. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các Công ty Dệt May Việt Nam khá rộng lớn bao gồm thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Trong đó doanh thu tiêu thụ ở 20 thị trường xuất khẩu chiếm 65% tổng doanh thu của công ty còn tiêu thụ tại thị trường nội địa chỉ đem lại 35% tổng doanh thu. Trong cơ cấu mặt hàng tiêu thụ thì mặt hàng sợi chiếm 51,4%, mặt hàng dệt kim chiếm 34,5% còn lại mặt hàng khăn chiếm 14,1%. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Chỉ tiêu 2007 ( Nguồồn : GSO,HBBS) 2008 2009 2010 Kim ngạch xuất khẩu dệt 7,750 may( tr USD) 9,120 9,066 11,175 % tổng kim ngạch xuất khẩu 16,02% của VN 14,50% 16,02% 15,60% Tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước với giá hiện thời 17,68% -0,59% 23,26% Thị trường xuất khẩu chủ yếu của các công ty là thị trường Châu Âu, Nhật, Mỹ và một số thị trường khác. Cơ cấu thị trường xuất khẩu của các công ty được thể hiện qua bảng sau: Biểu 8: Cơ cấu thị trường xuất khẩu: (Tỷ USD) Thị trường 2007 2008 2009 Hoa kỳ 103.98 100.51 86.74 Đức 42.33 45.27 45.34 Nhật Bản 29.36 31.66 31.07 Anh 32.60 31.54 27.31 Pháp 28.80 30.95 26.95 Hồng Kông 31,99 30.09 24.85 Italia 26.71 27.55 23.01 Trung Quốc 25.37 25.00 21.78 Bỉ 13.83 14.91 12.38 Canada 11.55 11,93 10.55 ( Nguồn : TTTTCN&TM,HBBS)
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan