1
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 11-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên 150 của tổ chức Thương mại
thế giới (WTO). Ba năm qua, trên con đường hội nhập quốc tế, nước ta đã tham gia
đầy đủ các định chế kinh tế toàn cầu, mở rộng thị trường hàng hóa dịch vụ, đầu tư
quốc tế, đổi mới mạnh mẽ hơn và đồng bộ hơn các thể chế, đồng thời, cải tiến nền
hành chính quốc gia theo hướng hiện đại.Từ đó việc cạnh tranh trên thị trường ngày
càng gay gắt và khó khăn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam. Doanh nghiệp dệt
may cũng vậy ngoài việc sản xuất cũng rất cần phải đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ để
đáp ứng tốt cho việc sản xuất được liên tục và đều đặn.Với quy của các doanh
nghiệp dệt may tại Việt Nam, liệu có cần phải nghiên cứu thêm về hoạt động tiêu
thụ sản phẩm và các biện pháp nhằm nâng cao hoạt động này trong nền kinh tế thị
trường thời mở cửa. Chỉ có một câu trả lời duy nhất, hoạt động tiêu thụ sản phẩm
luôn luôn đóng vai trò quan trọng trong mọi chiến lược của các Công ty. Dù chiến
lược đó có là nâng cao sức mạnh cạnh tranh bằng chất lượng, nâng cao thị phần, thu
lại nhiều nhất lợi nhuận hay doanh thu cho doanh nghiệp,… thì cuối cùng tất cả vẫn
xoay quay vấn đề làm sao để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm bản thân không phải là một vấn đề trầm trọng của các doanh
nghiệp dệt may tại Việt Nam. Nhưng do những vai trò quan trọng của hoạt động
tiêu thụ sản phẩm đối với sự sống còn, mở rộng hay phát triển một doanh nghiệp
nên hoạt động này vấn luôn cần được chú ý để nghiên cứu đẩy mạnh nó không
ngừng phát triển
Ý thức sâu sắc được vấn đề đó nên trong quá trình thực tập cùng với những kiến
thức, lý luận đã học được ở trên trường, để tìm hiểu về: “Giải pháp đẩy mạnh hoạt
động tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam”
Nội dung đề án gồm 3 chương
Chương 1 : Lý thuyết chung về hoạt động tiêu thụ
Chương 2: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp
dệt may Việt Nam
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ
1.1. Khái niệm về quản trị tiêu thụ
Quản trị kinh doanh truyền thống quan niệm
Tiêu thụ sản phẩm là hoạt động đi sau sản xuất chỉ được thực hiện khi đã sản
xuất được sản phẩm:” Doanh ngiệp bán cái mình có”.Mọi hoạt động của doanh
nghiệp đều phải dựa vào khả năng tiêu thụ,nhịp độ tiêu thụ quy định nhịp độ của
sản xuất người sản xuất chỉ có thể và phải bán cái thị trường cần chứ không thể bán
cái mình có. Vì vậy,Quản trị kinh doanh hiện đại luôn phải đặt công tác điều tra
nghiên cứu khả năng tiêu thụ trước khi tiến hành sản xuất thực tế.
*Quản trị tiêu thụ sản phẩm là tổng hợp các hoạt động xây dựng kế hoạch
,các chính sách và giải pháp tiêu thụ và tổ chức thực hiện các kế hoạch,chính sách
và giải pháp ấy nhằm đảm bảo luôn được tiêu thụ hết các sản phẩm với lợi ích lớn
nhất cho cả doanh nghiệp và khách hàng.
Quản trị tiêu thụ làm cho công tác sản phẩm không phải là hoạt động thụ
động mà chủ động từ việc nghiên cứu thị trường,xác định đúng đắn cầu thị trường
và cầu của bản thân doanh nghiệp đang và sẽ có khả năng sản xuất để quyết định
đầu tư tối ưu,thiết kế hệ thống kênh phân phối phù hợp,chủ động tiến hành các hoạt
động quảng cáo cần thiết nhằm giới thiệu và thu hút khách hàng.
Nội dung chủ yếu của quản trị tiêu thụ
Quản trị tiêu thụ thường bao gồm các hoạt động chủ yếu là tổ chức chuẩn bị bao
gồm nghiên cứu thị trường,QT hệ thống kênh phân phối,quảng cáo ,xúc tiến và thúc
đẩy hoạt động bán hàng,tổ chức hoạt động bán hàng và tổ chức dịch vụ sau bán
hàng.
1.2.1.Nghiên cứu thị trường
Thị trường là tổng hợp các mối quan hệ kinh tế phát sinh liên quan đến hoạt
động mua bán hàng hóa.
Nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập ,xử lý và phân tích số liệu về thị
trường một cách hệ thống làm cơ sở cho các quyết định quản trị.
Nội dung chủ yếu của nghiên cứu thị trường gồm có
-Nghiên cứu cầu
-Nghiên cứu cung
-Nghiên cứu mạng lưới tiêu thụ
Để nghiên cứu thị trường cần có các phương pháp
3
-Phương pháp nghiên cứu chung(nghiên cứu chi tiết thị trường và nghiên cứu
tổng hợp thị trường
-Phương pháp nghiên cứu cụ thể( nghiên cứu trực tiếp và nghiên cứu gián
tiếp)
Xây dựng và quản trị hệ thống kênh phân phối
Kênh phân phối là tổng thể các thành viên tham gia vào quá trình phân phối
sản phẩm của doanh nghiệp
-Kênh phân phối trực tiếp nếu người sản xuất bán hàng trực tiếp cho người
tiêu dùng
-Kênh phân phối gián tiếp nếu người sản xuất không bán hàng trực tiếp cho
người tiêu dùng,giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng có các trung gian khác nhau.
Để xây dựng hệ thống kênh phân phối phải tuân thủ các qui trình xây dựng
1,Phân tức các căn cứ
2,Xác định mục tiêu
3,Xác định các yêu cầu chủ yếu
4,Xây dựng các điểm bán hàng
1.2.2.Xây dựng chính sách tiêu thụ
2.1 Chính sách sản phẩm đề cập đến nguyên tắc chỉ đạo,quy tắc ,thủ tục được thiết
lập gắn với việc thiết kế,sản xuất và cung cấp sản phẩm.
-Thứ nhất ,chính sách đưa một sản phẩm mới vào thị trường hoặc loại bỏ một
sản phẩm cũ ra khỏi thị trường gắn với chu kỳ sống của sản phẩm
-Thứ hai, chính sách hình thành sản phẩm mới và khác biệt hóa sản phẩm
-Thứ ba,chính sách bao gói
2.2 Chính sách giá cả đề cập đến tổng thể các nguyên tắc,phương pháp và giải
pháp tác động vào giá cả nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động tiêu thụ,đem lại lợi ích
cho cả DN và khách hàng
-Thứ nhất,cơ sở của chính sách giá – giới hạn dưới của giá bán sản phẩm
là:
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung,giá cả được xây dựng từu giá thành,tức
P= Z +% π
4
-Thứ hai,tùy chiến lược và tình hình KD cụ thể ở từng thị trường bộ phận
với từng sản phẩm cụ thể mà mọi doanh nghiệp đều có thể đưa ra các chính sách về
giá.
2.3 Chính sách xúc tiến đề cập đến tổng thể các nguyên tắc cơ bản,các phương
pháp thủ tục,giải pháp xúc tiến bán hàng nhằm hỗ trợ và thúc đẩy hoạt động tiêu thụ
sản phẩm.
-Thứ nhất, chính sách quảng cáo
-Thứ hai,chính sách khuyến mại
2.4 Chính sách phân phối đề cập đến tổng thể các nguyên tắc cơ bản,các
phương pháp thủ tục và giải pháp ở kĩnh vực phân phối nhằm hỗ trợ và thúc đẩy
hoạt động tiêu thụ sản phẩm,đảm bảo thực hiện các mục tieeutieeu thụ với hiệu quả
cao nhất cho DN và lợi ích lớn nhất cho khách hàng trong từng thời kỳ cụ thể
2.5 Chính sách thanh toán đề cập đến tổng thể các nguyên tắc cơ bản,các
phương pháp thủ tục và các phương pháp thanh toán nhằm tạo ra điều kiện thuận lợi
nhất cho khách hàng khi mua sản phẩm của doanh ngiệp
-Chính sách thanh toán đề cập nguyên tắc như: hình thức thanh toán nào? ở
thị trường nao? Đối với khách hàng nào? Sử dụng linh hoạt các phương pháp như
thế nào?
2.6 Chính sách phục vụ khách hàng đề cập đến tổng thể các nguyên tắc cơ
bản,các phương tiện phương pháp phục vụ khách hàng tốt nhất khi họ dùng sản
phẩm của doanh nghiệp.
-Chính sách phục vụ khách hàng đề cập đến các nguyên tắc ,kết hợp để quyết
định sử dụng các kỹ thuật phục vụ khách hàng nào? ở thị trường nào…DN cần có
các điều kiện và giải pháp nào nhằm thực hiện có hiệu quả cá hình thức và kĩ thuật
phục vụ khách hàng đã xác định
5
3. Xây dựng kế hoạch tiêu thụ
-Kế hoạch bán hàng
-Kế hoạch marketing
-Kế hoạch chi phí kinh doanh tiêu thụ
Để xây dựng kế hoạch tiêu thụ cần dựa trên những căn cứ cụ thể,doanh thu bán
hàng ở các thời kỳ trước,kết quả nghiên cứu thị trường cụ thể ,năng lực sản xuất và
chi phí kinh doanh tiêu thụ của DN.Khi kế hoạch hóa tiêu thụ phải tính toán,cân
nhắc kỹ đến kế hoạch sản xuất đưa ra nhiều phương án kết hợp khác nhau nhằm tìm
ra được phương án thỏa mãn nhất các mục tiêu và chỉ ra các chính sách cũng như
giải pháp tiêu thụ sản phẩm thíc hợp
Phân tích và đưa ra các dự báo liên quan đến tình hình thị trường ,mạnh yếu của
DN,các mục tiêu kế hoạch tiêu thụ sản phẩm,ngân quỹ có thể dành cho hoạt động
Marketing…Nội dung chủ yếu của kế hoạch marketing gắn với lập kế hoạch sản
phẩm nhằm xác định các sản phẩm mới được bổ sung,sản phẩm cũ nào phảo chấm
dứt,sản phẩm nào cần được đổi mới.
Để kế hoạch hóa quảng cáo phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kế hoạch
quảng cáo , mục tiêu cụ thể phải đạt cảu kỳ kế hoạch,tác dụng của quảng cáo,thời
gian và không gian.Nội dung chủ yếu là xác định các hình thức quảng cáo ,quy mô
của mỗi hình thức quảng cáo và xác định các phương tiện sử dụng cũng như xác
định ngân quỹ quảng cáo tối ưu cho kỳ kế hoạch.
Để xác định chi phí KD tiêu thụ cho từng sản phẩm một cách chính xác sẽ phải tìm
cách tập hợp và phân bổ chi phí KD tiêu thụ gián tiếp cho từng điểm chi phí.Có thể
hình thành các điểm chi phí theo nhiệm vụ như lưu kho,quảng cáo,bán hàng vận
chuyển…
4. Tổ chức bán hàng và dịch vụ sau bán hàng
Mục tiêu của thiết kế và trang thiết bị nơi bán hàng không chỉ đảm bảo cho quá
trình bán hàng thuận lợi,bảo quản hàng hóa mà còn phải thu hút khách hàng.
Nhằm thu hút khách hàng phải chú ý đến khâu thiết kế và trang thiết bị nơi bán
hàng. Phải tính toán ,tuyển chọn đầy đủ lực lượng nhân viên bán hàng cần thiết.
Trên cơ sở trang thiết bị sẵn có việc bố trí,sắp đặt ,trình bày hàng hóa là một công
việc không phải chỉ đòi hỏi phải có trình độ kỹ thuật mà phải có tinh nghệ thuật
cao.Chính sach giá cả hợp lý cũng là một chất xúc tác quan trọng,là một công cụ
hữu hiệu nhằm giành thắng lợi trong cạnh tranh
6
Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ sau bán hàng là điều kiện không thể thiếu nhằm
duy trì,củng cố và mở rộng hoạt động tiêu thụ sản phẩm cũng như thị trường.Yêu
cầu chung đối với mọi hoạt động dịch vụ sau bán hàng và đảm bảo nhanh
chóng,thuận tiện,không được gây khó khăn cho khách hàng.Yêu cầu tổ chức hoạt
động dịch vụ sau bán hàng là đảm bảo chất lượng cung cấp dịch vụ và tính hiệu
quả.Các hoạt động dịch vụ sau bán hàng quan trọng nhất là hướng dẫn và bảo hành,
cung cấp phụ tùng và dịch vụ sửa chữa.
1.3 Nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ của các DN dệt may VIệt Nam
1.3.1Môi trường vĩ mô
-
* Môi trường quốc tế :
Việt Nam gia nhập WTO, một thuận lợi lớn cho ngành Dệt May Việt Nam khi chế
độ hạn ngạch với dệt may chính thức được bãi bỏ kể từ ngày 1/1/2005, theo quy
định của Hiệp định Dệt may ATC đã ký kết giữa các thành viên WTO. Việt Nam là
thành viên WTO nên được hưởng quyền lợi trong hiệp định này.
Liên minh Châu âu và Canada tuyên bố bãi bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may Việt
Nam kể từ ngày 1/1/2005. Đây cũng là những thị trường quan trọng của các doanh
nghiệp, điều này mang lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là mở rộng hơn
nữa kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU- một thị trường nhiều tiềm năng,
Mỹ, một thị trường tiêu thụ lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam,. Khi các nước
thành viên WTO không còn bị ràng buộc bởi hạn ngạch thì giá sản phẩm của các
nước này giảm từ 20-40%.
Thị trường nhập khẩu (phi hạn ngạch) đầy tiềm năng - Nhật Bản: hiện việc sản xuất
quần áo nội địa của nước này đã giảm sút mạnh cả về số lượng và giá trị. Trong khi
đó, hàng may mặc nhập khẩu Việt Nam, Indonesia và các nước ASEAN khác hiện
chiếm thị phần khá nhỏ ở Nhật Bản. Đây cũng là một cơ hội cho các doanh nghiệp
mở rộng thị trường tiêu thụ của mình ở Nhật.
Thổ Nhĩ Kì kiểm soát nhập khẩu dệt may Việt Nam: theo quy chế mới, một số mặt
hàng dệt may của Việt Nam muốn nhập khẩu vào Thổ Nhĩ Kỳ phải có giấy kiểm
soát do Ban Thư ký Ngoại thương nước sở tại cấp. Thổ Nhĩ Kỳ là một thị trường
xuất khẩu mới của các doanh nghiệp , quy định này sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến tiến
độ xuất khẩu hàng sang nước này khi mà chúng ta chưa có nhiều kinh nghiệm thực
hiện các loại thủ tục hành chính.
Việt Nam gia nhập CEPT/AFTA - hệ thống ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA).Theo đó hàng hoá nước ta
xuất sang các nước ASEAN sẽ được hưởng mức thuế thấp hơn các nước khác, đây
sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng thêm thị trường ở các nước trong khu
vực.
*Môi trường trong nước
7
-
Chính phủ đồng ý về mặt nguyên tắc với đề nghị cho phép chuyển nhượng hạn
ngạch dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ giữa các doanh nghiệp. Điều này tạo
ra nhiều cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm đơn hàng, tận
dụng tối ưu hạn ngạch, chủ động hơn trong các cuộc đàm phán ký kết hợp đồng.
-Cơ chế cấp Visa tự động đối với 12 chủng loại hàng dệt may xuất sang Mỹ được
Bộ thương mại áp dụng từ ngày 1/2/2005. Tất cả các DN dệt may có thành tích xuất
khẩu 2004 và có thực lực sản xuất đều được hưởng quy chế này.
Bộ Tài Chính ban hành quyết định xoá lệ phí hạn ngạch sang 2 thị trường EU,
Canada vào đầu tháng 2/2005. Theo đó, nó tạo ra thế cạnh tranh giá cả cân bằng
giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các nước khác, đặc biệt là các thành viên
WTO.
Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Bộ Công nghiệp đã mở cuộc vận động các nhà đầu
tư nước ngoài đưa máy móc thiết bị sản xuất vải, nhuộm vào làm ăn tại Việt Nam,
góp phần tăng nguồn cung cấp nguyên phụ liệu dệt may trong nước.
-
1.3.2 Môi trường vi mô
* Khách hàng: gồm người tiêu dùng các nhân và khách hàng công nghiệp. Khách
hàng quốc tế chính hiện nay là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan... đây là
những khách hàng đầy tiềm năng nhưng khó tính, đòi hỏi sản phẩm chất lượng cao,
mẫu mã hình thức phong phú, đa dạng, phù hợp với văn hoá quốc gia. Khách hàng
công nghiệp trong nước gồm một số công ty may; người tiêu dùng Việt Nam hiện
cũng có nhu cầu và đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm và kế hoạch marketing hợp
lý.
* Đối thủ cạnh tranh : thách thức lớn nhất đối với các doanh nghiệp Việt Nam là có
rất nhiều doanh nghiệp dệt may trong nước và quốc tế không ngừng cạnh tranh
nhau trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu.
-Đối thủ cạnh tranh quốc tế nặng ký hiện nay của doanh nghiệp dệt may Việt Nam
nói chung và của Hanosimex là Trung Quốc, ấn Độ...những nước có khả năng sản
xuất nhiều loại sản phẩm dệt may có giá cạnh tranh và có nguồn lao động lành
nghề, giá tương đối thấp, không khác mấy Việt Nam. Bangladesh và Pakistan cũng
là đối thủ cạnh tranh mới về một số mặt hàng như áo dệt kim, sơ mi vải bông, quần
áo vải bông nam... có giá thành tương đối thấp
Đối thủ cạnh tranh trong nước: hai dòng sản phẩm đang thịnh hành trên thị
trường nội địa là hàng thời trang nữ của Trung Quốc và hàng thời trang cao cấp của
một số nước xung quanh như Thái Lan. Các đối thủ dệt may trong nước đã có chỗ
đứng trong tâm trí người tiêu dùng Việt Nam chủ yếu là Việt Tiến, Việt Thắng, Nhà
Bè, May 10, Dệt 8/3, Dệt Huế, Dệt Nha Trang, Thăng Long... bên cạnh đó phải kể
đến các cửa hàng thiết kế, may mẫu thời trang bán sẵn trong nước hiện rất được
người tiêu dùng trong nước ưa chuộng do tính độc đáo của sản phẩm.
8
9
Chương 2: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của các doanh
nghiệp dệt may Việt Nam
2.1
Khái quát về các doanh nghiệp dệt may Việt Nam giai đoạn 2007_2010
Ngành may Việt Nam có lịch sử phát triển lâu đời. Dệt may là ngành hàng mũi
nhọn của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Từ nhiều năm qua,
sản phẩm dệt may Việt Nam không ngừng phát triển về số lượng, cơ cấu chủng loại
và giá trị kim ngạch, trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và chiếm giữ vị trí quan
trọng trong nền kinh tế quốc dân. Những thành công của sản phẩm may mặc trên thị
trường quốc tế đã đánh dấu bước khởi đầu tốt đẹp trong sự nghiệp đổi mới và phát
triển kinh tế ở Việt Nam. Trong toàn ngành Dệt may, may mặc là ngành có nhiều
tiềm năng phát triển, có lợi thế cạnh tranh lớn trên trường quốc tế.Theo thống kê
của hiệp hội dệt may Việt Nam đến tháng 10 năm 2011 thì Việt Nam có 3710 doanh
nghiệp dệt may trên cả nước.
2.1.1. Tình hình sản xuất và cung ứng trong nước
Dệt may được coi là một trong những ngành trọng điểm của nền công nghiệp
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngành dệt may
Việt Nam hiện nay đang được xem là ngành sản xuất mũi nhọn và có tiềm lực phát
triển khá mạnh.
Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn
nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường trong và
ngoài nước với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tuy vậy, trong
xu thế hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, ngành dệt may đang phải đối mặt với
nhiều thách thức lớn, phải cạnh tranh ngang bằng với các cường quốc xuất khẩu lớn
như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia, Pakixtan, Hàn Quốc....
Việt Nam hiện có hơn 1000 nhà máy dệt may, thu hút trên 50 vạn lao động,
chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất
hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo
sợi và dệt vải lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những
năm qua, tuy đã nhập bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng
cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10.500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng
khoảng 15% công suất dệt. Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi
mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền
may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa
đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao cũng như nhu cầu hàng dệt may
trong nước.
Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, với hơn 86 triệu dân hiện nay, thị trường
tiêu thụ nội địa rất lớn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may. Tốc độ tăng
10
trưởng trong tiêu thụ hàng nội địa đạt khoảng 15%/năm, nhưng thực tế chỉ chiếm
1/4 năng lực sản xuất. Phần lớn doanh nghiệp dệt may trong nước chỉ chú trọng
xuất khẩu, chưa quan tâm phát triển xây dựng thương hiệu tại thị trường nội địa.
Những doanh nghiệp đã xây dựng thành công hệ thống phân phối của riêng mình
như Việt Tiến, Nhà Bè, Thành Công, NinoMaxx,… vẫn còn đếm trên đầu ngón tay
và chiếm tỷ lệ thị phần còn khá khiêm tốn so với tổng dung lượng của cả thị trường.
Trong khi đó những thương hiệu thời trang lớn trên thế giới như Levi’s, D&G,
Lolita, Valentino, … đều đã có mặt tại thị trường VN và đang dần dần mở rộng hoạt
động kinh doanh của mình.
Thực tế chỉ trong 6 tháng đầu năm 2010, tổng doanh thu từ thị trường trong
nước đạt 6.000 tỷ đồng, tăng 28% so với cùng kỳ. Sau một thời gian dài bị bỏ ngỏ,
đến nay, thị trường nội địa đang dần khẳng định vai trò là hậu phương vững chắc
cho ngành dệt may phát triển bền vững và toàn diện. Sự phát triển nhanh chóng của
nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng ngày một tăng, tuy không đồng
đều giữa các tầng lớp xã hội, nhưng chính điều đó lại tạo nên sự đa dạng trong phân
khúc thị trường. Cũng đồng nghĩa với việc, các DN dệt may có đa dạng hơn đối
tượng phục vụ... Bên cạnh đó, cuộc vận động “người Việt dùng hàng Việt” ngày
càng nhận được sự ủng hộ, tâm lý tin dùng hàng nội địa ngày càng định hình rõ nét,
đã tạo cơ hội rất thuận lợi cho các DN dệt may mở rộng thị phần. Đây thực sự là
tiềm năng lớn mà các DN trong ngành dệt may không nên bỏ qua.
Trên thị trường nội địa, các sản phẩm Dệt may Việt Nam được phân phối
thông qua khoảng 15.000 đại lý và cửa hàng bán lẻ. Trong thời gian gần đây, nhằm
giảm bớt sự phụ thuộc vào xuất khẩu do mức độ cạnh tranh trên thị trường thế giới
ngày càng trở nên gay gắt, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đang thúc đẩy bán
hàng trên thị trường trong nước. Một xu hướng đang diễn ra giữa các doanh nghiệp
Dệt May Việt Nam là cùng hợp tác để mở các cửa hàng bán lẻ mới nhằm thu hút
nhiều đối tượng khách hàng bằng những địa chỉ mua sắm có nhiều mặt hàng và mẫu
mã đa dạng hơn. Nếu như trước đây, hệ thống cửa hàng, đại lý của các doanh
nghiệp dệt may chỉ có mặt ở các trung tâm thương mại hay các vị trí đắc địa tại các
thành phố lớn, thì nay, người tiêu dùng đã dễ dàng tìm thấy hệ thống bán lẻ hàng
may mặc Việt Nam ở khắp các tỉnh thành trên cả nước. Tập đoàn Dệt may Việt
Nam còn có riêng một hệ thống siêu thị Vinatex Mart của công ty kinh doanh hàng
thời trang với 58 điểm bán hàng ở 24 tỉnh thành trong cả nước, mỗi năm tiêu thụ
32.000 mã hàng và 11 triệu sản phẩm. Điều này đã góp phần không nhỏ trong việc
hỗ trợ các đơn vị dệt may trong nước tăng trưởng doanh thu nội địa. Bên cạnh việc
đẩy mạnh kênh phân phối, mạng lưới bán lẻ, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
còn đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng
sản phẩm. Ngoài những thương hiệu thời trang cao cấp, đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dùng có thu nhập cao, nhiều dòng sản phẩm dành cho người lao động có thu
11
nhập trung bình thấp với chất lượng tốt, giá thành hợp lý đã thỏa mãn được nhu cầu
mặc đẹp của tầng lớp bình dân.
2.1.2. Thực trạnh xuất khẩu của ngành dệt may ra nước ngoài
Ngành dệt may hiện là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam và có tốc
độ tăng trưởng cao qua các năm. Sản phẩm Dệt may của Việt Nam đã thiết lập được
vị thế trên các thị trường khó tính như Mỹ, EU và Nhật Bản.
Theo số liệu của Trung tâm thương mại thế giới, Việt Nam đứng trong danh
sách TOP 10 các nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới về hàng Dệt may
trong giai đoạn 2007-2009 và đứng ở vị trí thứ 7 trong năm 2010 với thị phần xuất
khẩu gần 3%, sau Trung Quốc (thị phần 36.6%), Bangladesh (4,32%), Đức (5,03%),
Italy (5%), Ấn Độ (3,9%) và Thổ Nhĩ Kỳ (3,7%).
Bình quân giai đoạn 2006-10/2011, ngành Dệt may đóng góp trên 15% vào
tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm 2006-2008, Dệt may là
ngành hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô. Tuy
nhiên, từ năm 2009 tính đến hết 10 tháng đầu năm 2011, Dệt may đã vươn lên vị trí
hàng đầu mặc dù tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu có giảm nhẹ.
Bảng 1 - Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may (2007-10/2011)
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
2010
10/2011
Kim ngạch xuất khẩu dệt 7 750
may(tr USD)
9 120
9 066
11
175
11 693
% tổng kim ngạch XK của Việt 16,02
Nam
14,50
16,02
15,60
14,98
Tăng trưởng so với cùng kì
năm trước theo giá hiện thời
17,68
-0,59
23,26
29,40
Tính theo giá hiện thời, kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may Việt Nam tăng
trưởng mạnh trong năm 2008 (gần 18%). Tuy nhiên, đến năm 2009, dưới ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu Dệt may của Việt
Nam giảm nhẹ (gần 0,6%) so với năm 2008 xuống còn 9.066 triệu USD. Sự sụt
giảm này có thể do các nhà sản xuất giảm giá hàng bán để khuyến khích người mua
trong điều kiện nhu cầu tiêu thụ sụt giảm và do người mua chuyển sang sử dụng các
sản phẩm rẻ tiền hơn để cắt giảm chi tiêu trong tình hình kinh tế khó khăn. Trong
năm 2010, giá trị xuất khẩu Dệt may của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ trở lại với
12
tốc độ tăng trên 20% (năm 2010) do các đơn hàng gia công được chuyển dần từ
Trung Quốc sang Việt Nam, đồng thời, Việt Nam đã mở rộng thị trường xuất khẩu
sang các thị trường mới như Đài Loan, Hàn Quốc, các nước ASEAN. và gần 30%
(10 tháng năm 2011) so với cùng kỳ năm trước.Trong 10 tháng đầu năm 2011, kim
ngạch xuất khẩu ngành Dệt may tiếp tục tăng trưởng cao (gần 30% so với cùng kỳ
năm 2010). Theo Bộ Công Thương, giá xuất khẩu Dệt may của Việt Nam, tăng liên
tục trong những tháng đầu năm 2011 kể từ tháng 3/2011. Riêng trong tháng 9/2011,
giá các mặt hàng dệt may xuất khẩu tăng 0,4% so với tháng 8/2011 và tăng 11,8%
so với cùng kỳ năm trước.
Việt Nam xuất khẩu hàng Dệt may đi 54 thị trường trên toàn thế giới. Trong
đó, các khách hàng lớn nhất của Việt Nam là Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Canada và Đài Loan. 9 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may
đến các thị trường này chiếm gần 89,5% tổng kim ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt giá trị tăng trưởng cao năm 2011 là
do các doanh nghiệp trong nước đã thực hiện tốt công tác dự báo, tổ chức hoạt động
đầu tư và sản xuất hiệu quả, tạo dựng được niềm tin và mối quan hệ thân thiết với
các đối tác, khách hàng.
2.1.3. Năng lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam
Ngành dệt may Việt Nam còn có khá nhiều tiềm năng cho xuất khẩu. Tiềm
năng này trước hết là do nguồn lao động còn lớn, đặc biệt là nhờ cấu trúc dân số trẻ,
nên chi phí cho lao động không tăng nhanh như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của
hàng dệt may. Bên cạnh đó, Việt Nam có môi trường đầu tư ổn định, với tiềm năng
tăng trưởng cao, nên có sức hấp dẫn với nhà đầu tư và bạn hàng nước ngoài. Hơn
nữa, Việt Nam cũng đang tham gia ngày một sâu rộng vào quá trình hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới. Cùng với việc cải thiện hình ảnh của Việt Nam, quá trình
này còn giúp gia tăng tiếp cận thị trường cho hàng hóa của Việt Nam nói chung và
hàng dệt may của Việt Nam nói riêng.
Một số đánh giá về triển vọng của ngành dệt may Việt Nam được trình bày
trong bảng dưới đây.
Bảng: Số liệu và dự báo tình hình sản xuất và xuất nhập khẩu dệt may
của Việt Nam giai đoạn 2006-2013
2009
Sản xuất
2006 2007
2008
2011
2012
2013
2010
Giá trị gia tăng, 3.205,
3.899,6 5.136,8 4.789,3 4.764,5 5.721,1 6.847,6 7.759,3
triệu đô la Mỹ
5
Giá trị gia tăng, % 5,3
5,5
5,7
5,2
4,9
5,0
5,0
5,1
13
trong GDP
Tốc độ tăng trưởng
13,2 13,5
9,2
-3,0
-0,9
9,8
9,2
9,0
giá trị gia tăng, %
Giá trị gia tăng
ngành dệt, triệu đô 325,0 368,9 402,8 390,7 387,2 423,2 460,0 499,2
la Mỹ
Thương mại quốc tế
Kim ngạch XK
1.058 1.352,0 1.690,0 1.318,2 1.453,5 1.598,8 1.742,7 1.912,7
hàng dệt, triệu USD
4.940,0
Kim ngạch NK
3.988
4.699,8 5.056,9 5.166,8 4.990,7 5.096,5
hàng dệt, triệu USD
5.874,8
Cán cân thương
mại ngành dệt, triệu -2.930 -3.588,0 -4.184,8 -3.381,6 -3.603,4 -3.568,0 -3.247,9 -3.183,8
USD
Kim ngạch XK
hàng may mặc, 5.579 7.186,0 9.054,4 7.424,6 8.335,4 8.898,6 8.929,0 9.505,3
triệu USD
Kim ngạch NK
hàng may mặc, 271,0 426,0 449,8 337,3 379,8 414,0 451,3 497,3
triệu USD
Cán cân thương
mại ngành may 5.308 6.760,0 8.604,6 7.087,2 7.955,6 8.484,6 8.477,7 9.008,0
mặc, triệu USD
Nguồn: BMI (tháng 7/2009)
Giá trị gia tăng của ngành hàng may mặc được dự báo sẽ tăng liên tục trong
giai đoạn 2011-2013, mặc dù có giảm lần lượt 3,0% và 0,9% vào các năm 2009 và
2010. Đây là triển vọng khá tích cực, ngay cả khi tốc độ tăng trưởng trong giai đoạn
2011-2013 còn thấp hơn so với mức trung bình trong các năm 2003-2008 (11,9%).
Cũng do tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với GDP mà tỷ trọng giá trị gia tăng của
ngành may mặc trong GDP trong giai đoạn 2009-2013 sẽ thấp hơn so với mức trong
giai đoạn 2006-2008.
Tương tự, giá trị gia tăng của ngành dệt cũng giảm nhẹ từ mức gần 403 triệu
USD vào năm 2008 xuống còn xấp xỉ 391 triệu USD và hơn 387 triệu USD lần lượt
vào các năm 2009-2010, trước khi tăng liên tục lên khoảng 500 triệu USD vào năm
2013.
Tuy giá trị gia tăng có giảm, nhưng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may
chỉ giảm trong năm 2009, và sẽ tăng liên tục trong giai đoạn 2010-2013. Theo BMI
(2009), kim ngạch xuất khẩu hàng dệt tăng liên tục từ mức hơn 1,3 tỷ USD vào năm
2009 lên hơn 1,9 tỷ USD vào năm 2013, với tốc độ tăng trung bình khoảng
14
9,8%/năm trong 2010-2013. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc
cũng tăng từ mức hơn 7,4 tỷ USD lên hơn 9,5 tỷ USD trong giai đoạn 2009-2013.
Tư cách thành viên của ASEAN, APEC và WTO, vv và các hiệp định
thương mại tự do, song phương và đa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng
Dệt may Việt Nam có mặt nhiều hơn và rộng hơn trên thị trường quốc tế. Hàng Dệt
may Việt Nam đã được xuất khẩu sang hầu hết thị trường quan trọng trên thế giới
như Mỹ, EU, Nhật Bản, vv. Kim ngạch nhập khẩu hàng Dệt may thế giới đã đạt
trên 450 tỷ USD/năm cho thấy tiềm năng tiêu dùng của ngành này còn rất lớn. Mặc
dù đứng trong Top 10 nước xuất khẩu thế giới, thị phần của Việt Nam năm 2010
chỉ chiếm gần 3% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn cầu, tuy đã cải thiện đáng kể so
với tỷ lệ 1,65% của năm 2009 nhưng vẫn là một tỷ lệ rất khiêm tốn và có một
khoảng cách quá xa với nước đứng đầu danh sách là Trung Quốc với thị phần gần
36,7%
2.1.4. Mục tiêu, phương hướng của ngành trong tương lai
Trong bối cảnh kinh tế vĩ mô hiện tại, toàn ngành phải nỗ lực tập trung vào
các dự án sinh lời, cắt giảm hoặc tạm dừng các dự án có tỉ suất lợi nhuận trên vốn
thấp (dưới 20%). Trong ngắn hạn cần phát triển nguồn nhân lực, một kế hoạch đào
tạo 3 vạn lao động đã được triển khai. Lâu dài, phải phát triển vùng nguyên liệu
trong nước, đa dạng hóa các loại nguyên liệu từ chỗ phụ thuộc vào cây bông sang
dùng nguyên liệu đay, cây lanh...
Từng bước dịch chuyển vùng sản xuất cho phù hợp, hiện tại cơ cấu chưa
hợp lý khi ngành dệt may chủ yếu tập trung ở Hà Nội (hơn 20%) và thành phố
HCM (58%). Cơ cấu này sẽ không phát huy được sức mạnh của nguồn lao động tại
chỗ. Bởi lẽ, qua khảo sát cho thấy, nếu người lao động làm việc ở chính quê hương
họ với thu nhập khoảng 2 đến 2,5 triệu đồng/người/tháng là đã có thể yên tâm gắn
bó công việc lâu dài. Nhưng với thu nhập 3,6 triệu đồng (là mức thu nhập bình quân
của lao động dệt may hiện nay) thì sống ở đô thị, người lao động vẫn phải đối diện
với nhiều khó khăn.
Tập đoàn Dệt may Việt Nam cũng đã chính thức triển khai chiến lược phát
triển từ nay đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Trong đó, tập trung vào
phát triển dệt may trong nước theo hướng không chỉ nâng cao sản lượng mà còn
tăng giá trị thông qua chất lượng.
Mục tiêu chung đến năm 2020 là phát triển ngành dệt may trở thành một
trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội;
nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập .
15
Bảng: Các mục tiêu cụ thể trong Chiến lược phát triển ngành công
nghiệp dệt may đến năm 2015, với tầm nhìn đến năm 2020
Chỉ tiêu
1. Kim ngạch XK
2. Sử dụng lao động
3. Sản phẩm chủ
yếu
- Bông xơ
- Xơ, sợi tổng hợp
- Sợi các loại
- Vải các loại
- Sản phẩm may
4. Tỷ lệ nội địa hoá
Đơn vị
Triệu USD
1000 người
Năm 2010
12.000
2.500
1000 Tấn
20
1000 Tấn
120
1000 Tấn
350
Triệu m2
1.000
Triệu
sản
1.800
phẩm
%
50
Năm 2015
18.000
2.750
Năm 2020
25.000
3.000
40
210
500
1.500
60
300
650
2.000
2.850
4.000
60
70
Nguồn: Bộ Công Thương.
Trong giai đoạn 2011 – 2020 tăng trưởng bình quân 12 – 14%, xuất khẩu
tăng 15%. Đến năm 2020, sản lượng sợi đạt 650 ngàn tấn/năm; sản lượng vải dệt
đạt 2 tỷ m2 vải; sản lượng may đạt 4 tỷ sản phẩm; kim ngạch xuất khẩu đạt 25 tỷ
USD, tạo việc làm cho 3 triệu lao động.
Trong đó, mục tiêu của tập đoàn dệt may là đạt 300 ngàn tấn sợi/năm, sản
lượng vải dệt đạt 675 triệu m2 vải, sản lượng may 706 triệu sản phẩm, kinh ngạch
xuất khẩu đạt trên 5 tỷ USD, tạo việc làm cho 290 ngàn lao động. Tổng vốn đầu tư
phát triển doanh nghiệp là 42.950 tỷ đồng, gồm nguồn vốn tự có của doanh nghiệp,
vốn từ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp (2012) và kêu gọi đầu tư trong nước và
quốc tế, vốn vay thương mại.
Trong thời gian tới, các mặt hàng chủ lực của ngành dệt may vẫn là các sản
phẩm truyền thống như nguyên liệu bông, tơ sợi tổng hợp, sợi các loại, vải dệt thoi,
vải dệt kim và các sản phẩm may mặc. Tuy nhiên, thứ tự và mức độ ưu tiên của các
sản phẩm chủ lực là khác nhau.
Trước hết, trong phát triển của ngành giai đoạn này sẽ tập trung tăng cường
cho ngành may xuất khẩu để tận dụng cơ hội thị trường; đa dạng hoá và nâng cao
đẳng cấp mặt hàng. Hiện tỉ trọng đơn hàng xuất khẩu theo phương thức gia công là
chủ yếu sẽ được tích cực thay đổi sang phương thức FOB (sử dụng một phần
nguyên liệu trong nước thay vì sản xuất theo đơn đặt hàng) và sang hình thức bán
sản phẩm gồm cả thiết kế(ODM).
16
Tỉ trọng sản phẩm ODM trong các đơn hàng dự kiến sẽ khoảng 5% ngay trong
năm 2011, tăng lên15% vào năm 2015 và 20% năm 2020; đẩy mạnh các hoạt động
hỗ trợ cho ngành may trong các hoạt động thiết kế thời trang, hỗ trợ nguồn cung
ứng nguyên phụ liệu cho sản xuất kinh doanh. Ưu tiên thứ hai cho giai đoạn này là
phát triển cây nguyên liệu; thứ ba là sản xuất vải và phụ liệu phục vụ may xuất
khẩu.
Hàng dệt may, thêu đan, may mặc của Việt Nam hiện đứng thứ 5 của thế giới và
phấn đấu tiến lên hàng top 3 trong những năm tới. Trong năm 2011, hàng dệt may
xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ thu về gần 7 tỷ đô la, bán sang EU thu hơn 2
tỷ đô la và xuất qua Nhật Bản chiếm một tỷ rưỡi đô la, kim ngạch trên một tỷ đô la
còn lại là tại các thi trường khác khắp các châu lục.
2.2 Thực trạng quản trị hoạt động tiêu thụ của các doanh nghiệp dệt may Việt
Nam
2.2.1 Công tác thu thập và xử lý thông tin thị trường
Các doanh nghiệp chủ yếu lấy thông tin từ báo, tạp chí, ấn phẩm, báo cáo,
phương pháp này thường áp dụng để nghiên cứu khái quátvề thị trường lập danh
sách những thị trường có triển vọng mà công ty cần tập trung khai thác.
* Nhược điểm của phương pháp này là khó khăn trong việc lựa chọn thông
tin từ cáo nguồn khác nhau. Thông tin có thể bị cũ, thông tin không chính xác,
không đầy đủ, độ tin cậy không cao.
* Ưu điểm: Dễ thực hiện tiết kiệm chi phí, thông tin sơ cấp thu được khi sử
dụng một phương pháp như: Quan sát, thực nghiệm thăm dò, phỏng vấn, sau khi thu
thập các thông tin cần thiết, công ty cần phải tiến hành xử lý thông tin để loại bỏ
những thông tin không quan trọng, chưa chính xác, không thuyết phục, trên cơ sở
đó xây dựng phương án đưa ra doanh nghiệp tiến hành đánh giá lựa chọn và quyết
định phương án có hiệu quả nhất.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu thị trường
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường công ty nâng cao khả năng thích ứng với thị
trường của các sản phẩm do mình sản xuất ra và tiến hành tổ chức tiêu thụ sản phẩm
hàng hoá mà thị trường đòi hỏi.
+ Doanh nghiệp có thể dự đoán hàng hoá tiêu thụ trên thị trường.
+Thông qua nghiên cứu thị trường doanh nghiệp xác định được đối thủ cạnh tranh,
điểm mạnh, điểm yếu của họ.
Ví dụ như mấy năm gần đây, một số đơn vị của Vinatex đã chủ động đưa
thương hiệu của dệt may Việt Nam ra thị trường thế giới. Trường hợp đặc biệt là
Việt Tiến đã có tổng đại lý tại Lào và Campuchia, tháng 4 tới đây sẽ có tổng đại lý
17
ở Myanmar và Trung Quốc. Khi am hiểu về văn hóa của các thị trường mà họ đưa
sản phẩm sang như khi Việt Tiến đưa sản phẩm của mình sang thị trường EU thì
cần phải đề cao chất lượng của sản phẩm,kiểu dáng đẹp
2.2.2 Phương pháp xây dựng và quản lý kênh phân phối
* Chính sách phân phối là toàn bộ các công việc để đưa ra một sản phẩm hoặc dịch
vụ từ nơi sản xuất đến người tiêu dùng có nhu cầu đảm bảo về chất lượng ,thời
gian,số lượng chung loại mà người tiêu dùng mong muốn .
Kênh phân phối là con đường mà hàng hóa được lưu thông từ nhà sản xuất đến
người tiêu dùng .Nhờ nó mà khắc phục được ngăn cách về thời gian địa điểm và
quyền sở hữu giữa người sản xuất.
18
SƠ ĐỒ KÊNH PHÂN PHỐI
Nhà sản xuất --------------------------------------------------------Người tiêu dùng
Nhà sản xuất-------------người bán lẻ-------------------------Người tiêu dùng
Nhà sản xuất------đại lý------------ người bán lẻ-------- Người tiêu dùng
Người bán buôn
Người bán lẻ
Người bán buôn
Đại lý
Người bán lẻ
Công ty Dệt
May Hà Nội
Quầy QTSP
Người tiêu dùng
cuối cùng
Đại lý
Xuất khẩu
( Nguồn: Công ty dệt may hà nội)
Kênh không cấp (kênh tiêu thụ trực tiếp) Gồm các nhà sản xuất bán hàng trực
tiếp cho người tiêu dùng. Phương thức bán là bán tại công ty, bán lưu động.
Kênh một cấp: Bao gồm người trung gian trên các thị trường người tiêu dùng,
người trung gian này thường là người bán lẻ cần tren thị trường hàng tư liệu sản
xuất thì người trung gian là đại lý tiêu thụ hay người môi giới.
Kênh hai cấp bao gồm hai người trung gian. Trên thị trường thì những người
này thường là người bán sỉ và người bán lẻ.
Kênh ba cấp: Gồm ba người trung gian.
Đối với kênh tiêu thụ sản phẩm trực tiếp do trực tiếp quan hệ với người tiêu thụ và
thị trường nên dễ nắm bắt thị hiếu, tình hình tiêu thụ hàng hoá từ đó dễ tạo uy tín
với khách hàng, phương thức phân phối trực tiếp diễn ra chậm công tác thanh toán
phức tạp, doanh nghiệp là người chịu rủi ro.
19
Trên thực tế doanh nghiệp thường sử dụng các kênh tiêu thụ trực tiếp và kênh tiêu
thụ gián tiếp.
Khi xây dựng kênh phân phối doanh nghiệp cần tính đến:
+ Đặc điểm thị trường, sản phẩm. :
+ Đặc tính kỹ thuật của sản phẩm.
+ Đặc điểm của đối thủ cạnh tranh.
Như công ty Việt Tiến đang thực hiện chiến lược phát triển thị trường trong nước
với mức tăng trưởng lên 40%, đưa ra thị trường hàng loạt sản phẩm mới, nhất là các
mặt hàng thời trang cao cấp như Viettien, Vee Sendy, T-Tup, Sciaro, Manhattan,
Ngoài 17 cửa hàng và gần 600 đại lý bán sản phẩm của Việt Tiến, doanh nghiệp
đang tiếp tục mở rộng, phát triển kênh phân phối, đưa sản phẩm vào 48 trung tâm
thương mại.
Tổng công ty cổ phần May Nhà Bè có kế hoạch tăng trưởng thị trường nội địa cho
năm nay dự kiến là 200%. Đây là một tỷ lệ ấn tượng trong bối cảnh sức mua của
nhiều mặt hàng đều suy giảm.
Đây là những dấu hiệu tốt cho thấy ngành may mặc đang phát triển rất mạnh trên thị
trường nội địa.Và các doanh nghiệp cũng chú trọng phát triên kênh phân phối trong
nước. Theo FineIntel, trên thị trường nội địa, các sản phẩm Dệt may Việt Nam được
phân phối thông qua khoảng 15.000 đại lý và cửa hàng bán lẻ. Trong thời gian gần
đây, nhằm giảm bớt sự phụ thuộc vào xuất khẩu do mức độ cạnh tranh trên thị
trường thế giới ngày càng trở nên gay gắt, các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam
đang thúc đẩy bán hàng trên thị trường trong nước
2.2.3 Tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ
Theo số liệu của Trung tâm thương mại thế giới, Việt Nam đứng trong danh sách
TOP 10 các nước có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất thế giới về hàng Dệt may trong
giai đoạn 2007-2009 và đứng ở vị trí thứ 7 trong năm 2010 với thị phần xuất khẩu
gần 3%, sau Trung Quốc (thị phần 36.6%), Bangladesh (4,32%), Đức (5,03%),Italy
(5%), Ấn Độ (3,9%) và Thổ Nhĩ Kỳ (3,7%).
Bình quân giai đoạn 2006-10/2011, ngành Dệt may đóng góp trên 15% vào tổng
kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm 2006-2008, Dệt may là ngành
hàng có giá trị xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam, chỉ đứng sau dầu thô. Tuy nhiên,
từ năm 2009 tính đến hết 10 tháng đầu năm 2011, Dệt may đã vươn lên vị trí hàng
đầu mặc dù tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu có giảm nhẹ.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các Công ty Dệt May Việt Nam khá rộng lớn bao
gồm thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Trong đó doanh thu tiêu thụ ở
20
thị trường xuất khẩu chiếm 65% tổng doanh thu của công ty còn tiêu thụ tại thị
trường nội địa chỉ đem lại 35% tổng doanh thu. Trong cơ cấu mặt hàng tiêu thụ thì
mặt hàng sợi chiếm 51,4%, mặt hàng dệt kim chiếm 34,5% còn lại mặt hàng khăn
chiếm 14,1%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
Chỉ tiêu
2007
( Nguồồn : GSO,HBBS)
2008
2009
2010
Kim ngạch xuất khẩu dệt 7,750
may( tr USD)
9,120
9,066
11,175
% tổng kim ngạch xuất khẩu 16,02%
của VN
14,50%
16,02%
15,60%
Tăng trưởng so với cùng kỳ
năm trước với giá hiện thời
17,68%
-0,59%
23,26%
Thị trường xuất khẩu chủ yếu của các công ty là thị trường Châu Âu, Nhật, Mỹ và
một số thị trường khác. Cơ cấu thị trường xuất khẩu của các công ty được thể hiện
qua bảng sau:
Biểu 8: Cơ cấu thị trường xuất khẩu:
(Tỷ USD)
Thị trường
2007
2008
2009
Hoa kỳ
103.98
100.51
86.74
Đức
42.33
45.27
45.34
Nhật Bản
29.36
31.66
31.07
Anh
32.60
31.54
27.31
Pháp
28.80
30.95
26.95
Hồng Kông
31,99
30.09
24.85
Italia
26.71
27.55
23.01
Trung Quốc
25.37
25.00
21.78
Bỉ
13.83
14.91
12.38
Canada
11.55
11,93
10.55
( Nguồn : TTTTCN&TM,HBBS)
- Xem thêm -