LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay trên thế giới, hoạt động thương mại quốc tế diễn ra
hết sức sôi nổi, mạnh mẽ. Tuy là một nước nông – công nghiệp
nhưng Việt Nam cũng góp một phần vào nền thương mại thế
giới qua các hoạt động xuất khẩu nông sản mà gạo là sản phẩm
khá nổi bật.
Tự hào là nước xuất khẩu gạo thứ 2 trên thế giới. Nguồn
ngoại tệ thu được từ hoạt động này là nguồn vốn không nhỏ cho
quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, nâng cao thu
nhập cho người nông dân. Nhìn chung, thị trường gạo ở Việt
Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn về vốn, kỹ thuật công nghệ,…
Do đó, từ những năm 2007, 2008 đến nay, các nhà xuất khẩu
gạo nước ta đã tập trung thực hiện nhiều chiến lược, giải pháp
nhằm đầy mạnh xuất khẩu gạo, giữ vững và nâng cao sản lượng
gạo xuất ra thế giới.
Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 – doanh
nghiệp Nhà nước giữ vai trò vị trí quan trọng trong ngành lương
thực, đặc biệt là xuất khẩu gạo. Để khẳng định vai trò của xuất
khẩu gạo đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đồng
thời đưa ra định hướng và một số giải pháp chiến lược nhằm
đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam nói chung và công ty nói
riêng. Nhóm chúng tôi đưa ra “GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC
1
ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO CỦA TỔNG CÔNG TY
LƯƠNG THỰC MIỀN NAM VINAFOOD 2”.
I.
TỔNG QUAN VỀ NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO VIỆT
NAM.
1) Giới thiệu ngành xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Năm 2009, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2
trên thế giới sau Thái Lan. Nếu trong năm 2009, Thái
Lan xuất khẩu 8,57 triệu tấn gạo, trị giá 5 tỉ USD thì khối
lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam là 5,950 triệu tấn,
chiếm 15% tổng mậu dịch gạo của toàn cầu.
Tên nước
2008/2009
2009/2010
1
Thailand (Thái Lan)
8.570
10.000
2
Vietnam (Việt Nam )
5.950
5.500
3
United State (Hoa
3.100
3.150
3.000
3.800
Kỳ)
4
Pakistan
2
5
India (Ấn Độ)
2.000
2.000
6
Myanma
1.052
800
7
Uruguay
926
750
8
Cambodia
800
800
(Campuchia)
9
China (Trung Quốc)
760
1.500
10
Brazil (Braxin)
650
300
29.029
30.845
Thế giới
Thống kê-dự báo của Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ về 10 nước
xuất khẩu gạo
(Nguồn: Vinanet thuộc Bộ Công Thương Việt Nam)
Hiện nay Việt Nam có trên 200 nhà xuất khẩu gạo. Trong
đó, chiếm thị phần nhiều nhất là Tổng công ty Lương
thực Miền Bắc và Tổng công ty Lương thực Miền Nam
(61%).
2) Thị trường xuất khẩu gạo chính của Việt Nam.
Gạo Việt Nam xuất khẩu đi gần 80 quốc gia và vùng lãnh
thổ trên thế giới như Hoa Kỳ, Trung Quốc, Mali, Hong
Kong, Campuchia,…
Hiện nay, có thể khẳng định châu Á là thị trường truyền
thống của gạo Việt Nam (chiếm đến 61,68% tổng kim
ngạch xuất khẩu gạo). Trong đó, Philippines, Malaysia là
hai thị trường mà Việt Nam xuất khẩu gạo nhiều nhất.
3
Xuất khẩu gạo sang thị trường Philippines đóng góp
hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á (chiếm
tới 35% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam
năm 2009). Năm 2009, Việt Nam xuất khẩu sang đây
gần 1,7 triệu tấn gạo, trị giá hơn 912 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu lớn tiếp theo của hạt gạo Việt
Nam phải kể đến là Malaysia, từ vị trí thứ ba trong
năm 2008 đã vươn lên thứ hai với hơn 611.000 tấn, trị
giá khoảng 271 triệu USD.
Các quốc gia và lãnh thổ châu Á nằm trong nhóm 10
thị trường xuất khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm
2009 còn có
o Singapore (329.000 tấn và 134 triệu USD).
o Đông Timo (242.000 tấn và 97 triệu USD).
o Đài Loan (203.000 tấn và 81 triệu USD).
o Iraq (168.000 tấn và 68 triệu USD).
II.
TỒNG CÔNG TY LƯƠNG THỰC MIỀN NAM
VINAFOOD 2
1) Giới thiệu về công ty.
a) Lịch sử hình thành.
Năm 1975, Tổng công ty được thành lập với tên gọi
Tổng công ty lúa gạo miền Nam.
4
Tháng 7/1978: Tổng công ty được đổi tên thành Tổng
công ty lương thực miền Nam.
Tháng 9/1986: Tổng công ty được đổi tên thành Tổng
công ty lương thực khu vực II.
Tháng 11/1987: Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)
quyết định thành lập Tổng công ty lương thực Trung
ương (Vinafood). Lúc này, Tổng công ty trở thành Cơ
quan đại diện Tổng công ty lương thực trung ương đặt tại
Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 01/1990: thành lập lại Tổng công ty lương thực
Trung ương II (Vinafood II).
Tháng 5/1995: Tổng công ty lương thực miền Nam được
thành lập trên cơ sở tổ chức lại Tổng công ty lương thực
Trung ương II, Công ty lương thực Trung ương III và các
đơn vị kinh doanh lương thực từ Quảng Nam – Đà Nẵng
trở vào. Tổng công ty lúc này còn được gọi là Tổng công
ty 91 (hạng đặc biệt).
Tháng 7/2003: Tổng công ty bắt đầu thực hiện lộ trình
sắp xếp, chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước và thí điểm
chuyển sang tổ chức hoạt động theo mô hình công ty mẹcông ty con.
Tháng 12/2005: Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số
333/2005/QĐ-TTg ngày 14/12/2005 về việc thành lập
Công ty mẹ - Tổng công ty lương thực miền Nam; Sau
5
đó, ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng
công ty theo mô hình công ty mẹ – công ty con.
01/3/2007: sau khi thực hiện xong các trình tự thủ tục
pháp lý cần thiết, Tổng công ty lương thực miền Nam đã
chính thực chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty
mẹ – công ty con.
Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 kinh
doanh các ngành nghề như: mua bán, chế biến, bảo quản
lương thực, thực phẩm, kinh doanh bất động sản, chăn
nuôi, chế biến thủy sản, quảng cáo thương mại, tiếp thị,
… nhưng hoạt động chủ yếu và nổi bật nhất là hoạt động
xuất khẩu gạo.
b) Các loại gạo chủ yếu công ty xuất khẩu.
Gạo 25% tấm chủ yếu xuất khẩu vào thị trường châu Phi.
Gạo 5% tấm chủ yếu xuất khẩu vào thị trường châu Á
như Malaysia, Philippines,….
2) Vị thế và vai trò.
Tổng công ty lương thực miền Nam Vinafood 2 là doanh
nghiệp Nhà nước 100%, giữ vai trò vị trí đặc biệt quan
trọng trong ngành lương thực ở Việt Nam, đặc biệt là
xuất khẩu gạo, thời gian gần đây luôn là đơn vị xuất khẩu
gạo chính của cả nước, cùng với Tổng công ty lương
6
thực miền Bắc Vinafood 1 chiếm 61% thị phần xuất khẩu
gạo của cả nước.
Vinafood 2 được ủy quyền đại diện cho các doanh
nghiệp trong nước tham gia dự thầu và thắng thầu các
hợp đồng cấp Chính phủ trong thời gian qua.
3) Hoạt động xuất khẩu gạo của Vinafood 2 trong
những năm gần đây
Vào những tháng cuối năm 2007, ngành xuất khẩu gạo
của Việt Nam đối mặt với nhiều khó khăn. Việc thu mua
gạo gặp trở ngại do giá gạo trong nước tăng cao cùng với
nguồn cung bị hạn chế bởi nhiều yếu tố.
Trước diễn
biến phức tạp đó, việc thu mua gạo của công ty Vinafood
2 cũng gặp khó khăn đáng kể. Nhìn chung lượng gạo
xuất khẩu giảm đi 1 triệu tấn so với năm 2006 (4 triệu
tấn).
Tuy nhiên, với sự thay đổi kịp thời trong việc điều hành
và lên kế hoạch cân đối giữa lượng gạo xuất khẩu cũng
như giá thu mua. Tình hình xuất khẩu gạo của công ty
năm 2008 có những chuyển biến rõ nét, tiêu biểu là đã
xuất được 100.000 tấn gạo loại 5% tấm sang Malaysia.
Đây là hợp đồng có sản lượng lớn nhất được ký trong
vòng 02 tháng trong năm. Điều này có tác động tích cực
7
tới tình hình mua bán lúa gạo trong nước khi thị trường
trầm lắng và giá cả đi xuống.
Cũng trong năm này, công ty được ngân hàng Đầu tư và
phát triển Việt Nam BIDV cung ứng vốn và các dịch vụ
tài chính để đảm bảo sản xuất kinh doanh hiệu quả, ổn
định nguồn thu mua, xuất khẩu lúa gạo và các nông sản
khác, nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo Việt Nam.
Nhưng cuối năm 2008, quyết định tạm ngừng xuất khẩu
gạo của Chính phủ (vì an ninh lương thực) càng làm cho
thị trường lúa gạo trong nước trở nên phức tạp khi trước
đó tình hình xuất khẩu khá căng thẳng, giá gạo tăng
mạnh.
Trong năm 2008, Vinafood 2 đã xuất khẩu 2,2 triệu tấn
gạo, chiếm 47% tổng số gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Năm 2009, thị trường mua bán gạo trên thế giới trầm
lắng trước ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế
giới, giá cả giảm mạnh trong khi lượng tồn kho ở các
nước xuất khẩu là rất lớn. Là nước xuất khẩu gạo lớn thứ
2 thế giới, tình hình ở Việt Nam cũng “ảm đạm” không
kém. Tuy nhiên, dù tồn kho nhiều các doanh nghiệp kinh
doanh lương thực vẫn phải mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo
nhằm hạn chế sức ép giảm giá, giữ được giá lúa gạo theo
sàn của Chính phủ quy định.
8
Trong thời gian này, Vinafood 2 tham dự và trúng thầu
bán 1,6 tiệu tấn gạo cho Philippines. Bên cạnh đó, công
ty cũng có thêm những hợp đồng riêng lẻ xuất vào thị
trường này.
Đầu năm 2010, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tham gia đấu thầu các hợp đồng xuất khẩu gạo tập trung
cấp Chính phủ vào Philippines, Vinafood 2 đẩy mạnh
xây dựng kho ngoại quan ở nước này. Ngoài ra, để phục
vụ cho việc mở rộng thị trường tiềm năng, giao thương
được dễ dàng, công ty đã đầu tư các chi nhánh như công
ty lương thực Sài Gòn tại Singapore (100% vốn Việt
Nam) và công ty cổ phần lượng thực thực phẩm
Campuchia-Việt Nam.
Như vậy, những tháng đầu năm 2010, Vinafood 2 trúng
thầu xuất khẩu gần 1,286 triệu tấn gạo, chiếm tới 70,6%
trong tổng khối lượng trúng thầu của Việt Nam (gần
1,821 triệu tấn). Bên cạnh đó, giá trúng thầu bình quân
cả khối lượng khổng lồ này của Vinafood 2 không chỉ
cao ngất ngưởng là 633,51 USD/tấn, mà còn cao hơn
16,14 USD/tấn và 2,61% so với giá trúng thầu bình quân
của tất cả các đối thủ cạnh tranh còn lại (617,38
USD/tấn). Những con số này cho thấy ngành xuất khẩu
gạo của Vinafood 2 trong năm nay có bước mở đầu khá
thuận lợi.
9
Đến thời điểm hiện nay, Việt Nam tham dự và
đã trúng thầu được ba lô xuất khẩu gạo. Trong
đó, công ty Vinafood 2 đã tham dự và trúng thầu
với giá cao:
o
o
o
Lô 1 là 598 USD/tấn (CIF);
Lô 2 là 630 USD/tấn (CIF);
Lô 3 là 648 USD/tấn (CIF).
4) Đánh giá các hoạt động.
Kim ngạch xuất khẩu gạo của Tổng công ty lương thực
miền Nam Vinafood 2 tăng lên qua các năm.
(Nguồn: Tổng Cục thống kê)
Giá trị của các gói xuất khẩu của công ty cao, tăng lên
từng năm nhưng so với giá thu mua của nông dân trong
10
nước thì lại có sự chênh lệch rất lớn. Vì vậy, nông dân
trong nước vẫn là người chịu thiệt hại.
Ở Việt Nam hiện nay chưa có nơi nào áp dụng quy trình
thực hành nông nghiệp tốt (GAP) cho sản xuất lúa gạo.
Cùng với việc gạo Việt Nam chưa tạo được thế mạnh về
uy tín, thương hiệu (nhãn sinh thái). Vì thế, các loại gạo
cùng chất lượng với Thái Lan nhưng giá luôn thấp hơn từ
7-20 USD/tấn và thấp hơn giá gạo của Mỹ đến 220 USD.
Là công ty 100% vốn Nhà nước nên Tổng công ty lương
thực miền Nam Vinafood 2 rất thuận lợi trong việc thu
mua, xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, có những khoảng thời
gian chính sự chi phối của Chính phủ lại kìm hãm khả
năng nâng cao sản lượng gạo xuất khẩu của công ty
(đảm bảo an ninh lương thực). Mặc dù vậy, công ty cũng
đã chủ động tìm kiếm khách hàng mới, thị trường mới
(với những hợp đồng riêng lẻ với Philippines dù giá và
số lượng xuất khẩu còn thấp).
III.
GIẢI PHÁP CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU
GẠO.
1) Chiến lược sản phẩm.
11
Chất lượng cây trồng: Tại Việt Nam hiện nay tuy một số
giống lúa đã được cải tiến nhưng năng suất chưa cao như
các nước trên thế giới. Vì vậy công ty nên:
Phối hợp với người nông dân.
o Hổ trợ về mặt chuyên môn chăm sóc cây và công
cụ lao động phù hợp với yêu cầu.
o Các doanh nghiệp cần xây dựng vùng nguyên liệu
chuyên canh, tập trung hóa cây trồng để bảo đảm
việc quản lý, khai thác, chăm sóc đạt hiệu quả cao,
sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng
thương hiệu, nâng cao giá trị sản phẩm.
o Cần giáo dục ý thức cho mỗi người nông dân rằng
họ phải làm ra những sản phẩm đạt chất lượng cao
theo tiêu chuẩn quốc tế.
Phối hợp với các nhà nhiên cứu:
o Cần nghiên cứu hoặc nhập những giống mới phù
hợp để cho ra chất lượng lúa tốt nhất và tạo ra một
lợi thế cạnh tranh mới.
o Cần đi sâu vào nghiên cứu chi tiết việc chăm bón
cây sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
Công tác thu gom và tiêu thụ:
Khi gặt và xây xát còn dựa vào những công cụ thô,
ảnh hưởng đến chất lượng gạo và gây thất thoát, lãng
phí. Cần đưa cơ giới hóa vào sản xuất, đặc biệt là
trong quá trình gặt và xây xát lúa.
12
Để công tác tiêu thụ lúa cho nông dân được thuận lợi,
việc thu mua lúa phải đảm bảo được các yếu tố: tiêu
thụ hết lúa trong dân, người trồng lúa có lãi trên 30%,
doanh nghiệp thu mua có lãi và bình ổn được thị
trường.
Nguồn nhân lực:
Hệ thống, sàn lọc nguồn nhân lực tránh lãng phí và sử
dụng không hiệu quả. Ngoài ra còn thường xuyên có
chế độ kiểm tra, khen thưởng thích đáng, tránh làm
việc chạy theo thành tích ở tất cả các khâu. Đây là
việc đáng quan tâm vì đa số các công ty lương thực
lớn đều là doanh nghiệp Nhà nước.
Công nghệ
Công nghệ phải được đổi mới một cách đồng bộ tất cả
các khâu. Phải cung cấp những sản phẩm mà thị
trường cần.
Một số thị trường có những yêu cầu cao đối với nhãn
sinh thái về gạo như: EU, Mỹ, Australia, Đài Loan,
Singapore… vì vậy cần đưa chuẩn sinh thái vào sản
xuất để thâm nhập các thị trường trên dễ dàng, định vị
được thương hiệu Việt. Muốn chương trình nhãn sinh
thái này có hiệu quả, Tổng công ty lương thực miền
Nam cần đưa ra những kiến nghị phù hợp với Chính
phủ để được hổ trợ.
13
Hạt gạo Việt Nam để tăng khả năng cạnh tranh với các
nước khác, cần phải cải thiện bao bì, giữ vững chất
lượng đồng nhất của hạt gạo, công nghệ chế biến sau
thu hoạch.
2) Chiến lược thị trường.
Duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường đẩy
mạnh quan hệ với các khách hàng truyền thống và thiết
lập khách hàng mới.
Tìm hiểu từng thị trường một cách sâu rộng để đưa ra
sản phẩm phù hợp. Một số thị trường mà ta cần quan
tâm.
Thị trường Châu Á:
o Nhật Bản thích loại gạo hạt ngắn, tròn.
o Thái Lan có xu hướng tăng tiêu dùng gạo hạt dài.
o Ấn Độ, Pakitan các loại gạo có mùi hương đặc
trưng vẫn được ưa chuộng.
o Đa số các nước khác tiêu thụ chính gạo trắng hạt
dài, ít bạc bụng, độ tấm thấp và xay xát kĩ giống lúa
hạt dài như IRR64 của Việt Nam có thể đáp ứng
nhu cầu này.
Thị trường Châu Âu: Cũng có yêu cầu như châu Á
nhưng đòi hỏi độ thuần chủng cao hơn. các nước Nam
Âu loại hạt tròn là loại được ưa chuộng trong khi đó ở
Bắc Âu là loại hạt dài.
14
Thị trường Trung Đông: loại hạt dài ít tấm khá phân
biệt, gạo thơm được coi là gạo cao cấp.
Thị trường Châu Mỹ: ưa chuộng loại gạo hạt trắng
dài, xây xát kĩ, có mùi vị tự nhiên, khắc khe về chất
lượng.
Thị trường Châu Phi: nhìn chung thị trường này tập
trung là gạo hạt trắng dài, thu nhập thấp nên đây chủ
yếu là thị trường gạo cấp thấp.
Nghiên cứu sản phẩm của đối thủ cạnh tranh để thích
ứng với các chiến lược mà đối thủ đang và sẽ thực hiện.
Ngoài ra thu thập thêm các thông tin về sự biến động trên
thị trường xuất khẩu gạo thế giới.
Thu thập thông tin từ các phương tiện thông tin đại
chúng, thông qua báo chí chuyên ngành.
Lấy ý kiến khách hàng thông qua các cuộc khảo sát
hay kênh bán hàng trực tiếp.
Tổ chức các hội nghị khách hàng nhằm gắn kết thâm
giao và thông qua đó tìm kiếm thêm đối tác tiềm năng.
Nghiên cứu giá cả, dung lượng thị trường, các thông số
về môi trường kinh doanh để sau đó đưa ra chiến lược
phù hợp, mặt hàng kinh doanh, đối tượng về kinh doanh
gạo mà ta sẽ giao dịch. Công tác nghiên cứu này phải
thực hiện trong và ngoài nước nhằm đưa ra cái nhìn tổng
thể về thị trường.
Khi thâm nhập thị trường phải chủ động và có kế hoạch
Chọn cách thích ứng và phản ứng lại với thị trường.
15
Có sự kết hợp giữa những doanh nghiệp lại với nhau để
tạo sự liên kết trong ngành và các ngành phụ trợ khác để
có một sự liện kết bền vững.
3) Chiến lược giá.
Có thể xem xét xây dựng những kho bãi và hỗ trợ những
kĩ thuật bảo quản phòng trừ khi bị ép giá hay thị trường
không khả quan công ty sẽ trữ lại chờ giá cao hơn.
Tiết kiệm chi phí, nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu từng thị
trường cụ thể, và chính sách giá của đối thủ, độ co giãn
cầu theo giá như thế nào để đưa ra những chiến lược giá
cho từng giai đoạn cụ thể và sản phẩm cụ thể.
4) Xúc tiến thương mại.
Xúc tiến các hoạt động quảng cáo truyền thông, thông
qua các hội chợ lương thực – thực phẩm trên thế giới
Tạo một hình ảnh, thương hiệu gạo của Việt Nam nói
chung và của công ty nói riêng.
Kết hợp chặt chẽ để có sự giúp đỡ của các đại sứ quán tại
nước mà ta đang và sẽ xuất khẩu vào.
Phát triển tốt dịch vụ hậu mãi.
Xác định quy mô đối tác, quy mô lượng hàng xuất khẩu,
quy mô chi nhánh để xây dựng mạng lưới phân bổ và
tuyển chọn nhân sự phù hợp.
16
Phát triển thương mại điện tử. Giao dịch với khách hàng
thông qua hệ thống điện tử hay các doanh nghiệp xuất
khẩu gạo có thể lập những trang web chung mà ở đó có
những thông tin về thị trường và để hỗ trợ lẫn nhau.
Ngoài sử dụng nguồn nhân lực hiệu quả, công ty còn xét
tới các yếu tố khác như vốn, tài sản, chính sách tài chính
phù hợp, khoa học công nghệ.
Giữ vững và phát triển việc đầu tư sang Campuchia
nhằm xuất khẩu vào thị trường châu Âu vì tại đây tính
thuế 0% gạo xuất từ Campuchia.
Tiếp tục phát triển công ty đầu tư tại Singapore là Saigon
Food (Pte. Ltd), không chỉ để xuất khẩu gạo, mua bán
bột mì, nguyên liệu chế biến thức ăn thủy sản mà có cả
việc bán gạo cho Thái Lan.
Cơ chế điều hành xuất khẩu gạo trong những
năm qua vẫn còn những hạn chế cần được khắc
phục. Để tạo sự đồng thuận cao trong hoạt động
xuất khẩu, cần xác định đúng vai trò của Hiệp
hội lương thực trong xuất gạo, nhằm tiêu thụ kịp
thời lúa gạo, bảo đảm lợi ích cho nông dân.
Để công tác xuất khẩu gạo đạt hiệu quả cao hơn,
Hiệp hội lương thực Việt Nam VFA cần phát
huy hơn nữa vai trò đại diện cho doanh nghiệp
xuất khẩu gạo Việt Nam tham vấn cho Chính
17
phủ chỉ đạo, điều hành công tác xuất khẩu gạo
đạt được hiệu quả.
Kết luận.
Qua việc phân tích các hoạt động của Tổng công ty lương
thực miền Nam như trên, chúng ta thấy được thực tế là công ty
đã góp phần thay đổi tích cực tình hình xuất khẩu gạo của Việt
Nam hiện nay. Năm 1989, sản lượng gạo cả nước mới đạt 18,9
triệu tấn thì 14 năm sau, năm 2000 con số đó đã lên tới 32,7
triệu tấn, đạt tốc độ tăng 5%/năm. Kim ngạch xuất khẩu gạo
đều tăng lên mỗi năm tuy còn nhiều vấn đề cần giải quyết như:
công nghệ sau thu hoạch còn lạc hậu, thị trường chưa thực sự ổn
định, giá gạo xuất khẩu còn thấp so với giá quốc tế, chất lượng
gạo chưa cao, các chính sách quản lý còn có nhiều bất cập.
Vì vậy, cùng với sự hỗ trợ của Chính phủ, Tổng công ty
lương thực miền Nam Vinafood 2 cần đề ra và thực hiện những
chiến lược kinh doanh phù hợp để đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu
gạo của công ty nói chung và của cả Việt Nam nói riêng.
18
- Xem thêm -