Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giai cấp công nhân thành phố hồ chí minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát ...

Tài liệu Giai cấp công nhân thành phố hồ chí minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển

.DOC
85
298
82

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HOÀN GIAI CẤP CÔNG NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, năm 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HOÀN GIAI CẤP CÔNG NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN Ngành: Triết học Mã số: 8 22 90 01 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ THỊ MAI OANH HÀ NỘI, năm 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Vũ Thị Mai Oanh. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với bất kỳ công trình nghiên cứu nào đã được công bố. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng 8 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Thị Hoàn MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1 Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN...........................7 1.1.Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân..............................7 1.2.Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp công nhân................................................................................................................ 14 1.3. Giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh................................................... 20 Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY........................................................................................ 28 2.1. Tình hình giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay..................28 2.2. Nguyên nhân hạn chế và những vấn đề đang đặt ra để phát triển giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.................................................................. 50 Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN GIAI CẤP CÔNG NHÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH...................59 3.1. Phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay 59 3.2. Những giải pháp cơ bản phát triển giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay................................................................................................................... 62 3.3. Kiến nghị.......................................................................................................... 68 KẾT LUẬN...............................................................................................................................................71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân thành phố Hồ Chí Minh 2015 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Khi bàn về quy luật thịnh suy của một quốc gia, ngay từ thế kỷ XVIII, bảng nhãn Lê Quý Đôn đã đưa ra nhận định sâu sắc: “phi công bất phú”. Điều này, có nghĩa, phát triển kinh tế công nghiệp là con đường tất yếu của mọi quốc gia. Đồng thời với kinh tế công nghiệp, là sự phát triển toàn diện của giai cấp công nhân, với tư cách là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Quy luật này đã được chứng minh trong suốt chiều dài lịch sử nhân loại cũng như lịch sử dân tộc từ khi xuất hiện hoạt động sản xuất công nghiệp, xuất hiện giai cấp công nhân đến nay. Nhìn lại chặng đường 88 năm, kể từ ngày Đảng ta ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, trưởng thành, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Giai cấp công nhân đã chứng tỏ là lực lượng sản xuất cơ bản, nắm giữ những lĩnh vực then chốt và các phương tiện hiện đại của nền sản xuất, là lực lượng đi đầu trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay cả nước có khoảng 14 triệu công nhân, tạo ra khoảng 60% tổng sản phẩm xã hội, hơn 70% ngân sách của cả nước. Giai cấp công nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ mới, giai cấp công nhân nước ta là lực lượng nòng cốt trong khối liên minh với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng, kiên trì sự nghiệp đổi mới, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Nhận thức điều này, nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thế nhưng, để có nền công nghiệp phát triển hiệu quả, có thể đưa đất nước đạt đến sự giàu có, cường thịnh, trở thành “con rồng”, “con hổ” thì điều cốt yếu là phải làm thế nào xây dựng được đội ngũ công nhân lớn về số lượng và mạnh về chất lượng, có trình độ chuyên môn – kỹ thuật cao, năng động, sáng tạo, có lương tâm nghề nghiệp, ý thức chính trị vững vàng… Để xây dựng đội ngũ công nhân như vậy, không phải là việc đơn giản, dễ 1 dàng, có thể thực hiện trong một sớm một chiều mà là quá trình lâu dài, phức tạp với nhiều lộ trình, bước đi phù hợp. Xuất phát từ nhận thức như vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo, quản lý đất nước, Đảng và Nhà nước ta không ngừng xây dựng và hoàn thiện các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách phát triển giai cấp công nhân. Nhờ vậy, đến nay giai cấp công nhân nước ta đã có bước phát triển đáng kể cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá của đất nước. Ở nước ta hiện nay, dưới sự lãnh đạo của của Đảng và quản lý của Nhà nước thông qua hệ thống các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách, các địa phương tiếp thu và tuỳ vào điều kiện kinh tế - xã hội của mình mà chủ động, sáng tạo đưa ra các giải pháp, bước đi phù hợp. Điển hình là Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn có vị trí chiến lược quan trọng khu vực Nam Bộ và là trung tâm kinh tế công nghiệp – dịch vụ lớn nhất, nơi tập trung đông lực lượng công nhân của nước ta. Hàng năm, đóng góp hơn 20% GDP của cả nước. Vị thế ấy được xác lập nhờ vào vai trò quan trọng và đóng góp to lớn của đội ngũ công nhân của Thành phố. Các Nghị quyết, chính sách của Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh luôn khẳng định công nhân là lực lượng sản xuất chủ yếu trong tất cả các lĩnh vực và các thành phần kinh tế; là những chủ nhân đang cùng cả Thành phố đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, đô thị hoá và hội nhập quốc tế… Công nhân Thành phố Hồ Chí Minh đang hoạt động trong môi trường kinh tế - xã hội điển hình của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, với sự phát triển mạnh mẽ của các loại máy móc tiên tiến, công nghệ tự động hoá. Đây là cơ hội để giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, chất lượng cuộc sống. Đồng thời cũng là thách thức lớn, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và toàn giai cấp công nhân phải nỗ lực không ngừng mới có thể đáp ứng yêu cầu đặt ra. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cũng như thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là phải xây 2 dựng giai cấp công nhân phát triển toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển công nghiệp trong điều kiện cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Qua nghiên cứu giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh, chúng tôi ghi nhận một số thực trạng sau: đó là thiếu hụt công nhân có trình độ tương ứng phục vụ cho các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố; tình trạng phân hoá về trình độ học vấn, chuyên môn – kỹ thuật, chất lượng cuộc sống, chất lượng việc làm giữa các bộ phận của giai cấp công nhân; đời sống và điều kiện làm việc của bộ phận lớn công nhân còn nhiều khó khăn; trình độ lý luận, tính tích cực chính trị, ý thức pháp luật còn nhiều hạn chế; vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp chưa phát huy hiệu quả; quan hệ lao động còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, tiềm ẩn xung đột chủ thợ…. Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài “giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, thực trạng và giải pháp phát triển” để làm luận văn tốt nghiệp. Công trình nghiên cứu này không chỉ cần thiết cho Thành phố Hồ Chí Minh, mà còn cung cấp những luận cứ cần thiết có thể giúp cho việc xây dựng và hoàn thiện những quan điểm, chủ trương, chính sách xây dựng và phát triển giai cấp công nhân cả nước trong bối cảnh mới. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Từ khi giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, đội ngũ công nhân Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Mỗi công trình tuỳ theo mục đích nghiên cứu tập trung vào những góc độ khác nhau. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như: Thứ nhất, dưới góc độ nghiên cứu giai cấp công nhân Việt Nam có các công trình: “Một số vấn đề về giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay” của tác giả Bùi Đình Bôn, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1997: đây là tác phẩm nghiên cứu hầu như gần hết các vấn đề lý luận về giai cấp công nhân Việt Nam; tác phẩm “Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế” của trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên Lý luận chính trị, Nxb. CTQG, Hà Nội, 3 2010: đây tập hợp rất nhiều nghiên cứu của các tác giả thuộc Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị thuộc đại học quốc gia Hà Nội. Tác phẩm này tập trung nghiên cứu những vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta hiện nay và mối quan hệ giữa giai cấp công nhân với sự nghiệp công nghiệp, hiện đại hoá nước ta. Tác phẩm “Một số vấn đề về giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam” tác giả Văn Tạo, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997: tác phẩm này tác giả tập trung phân tích mối quan hệ giữa giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn trong suốt quá trình phát triển của giai cấp công nhân nước ta; tác phẩm“Một số vấn đề xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của Viện Công nhân và công đoàn. Nxb. Lao động, Hà Nội, 2004; đây là những nghiên cứu của tập thể Viện Công nhân và công đoàn về thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay; tác phẩm “Xu hướng vận động của giai cấp công nhân Việt nam trong quá trình đổi mới” của tác giả Phạm Văn Giang, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2012; trên cơ sở phân tích các đặc trưng của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay, tác đưa ra nhận định về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân trong quá trình đổi mới…. Thứ hai, dưới góc độ nghiên cứu giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh có các công trình: “Góp phần xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam từ thực trạng công nhân Thành phố Hồ Chí Minh”, công trình của PGS,TS.Nguyễn Đăng Thành, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008: đây là công trình nghiên cứu toàn diện thực trạng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1986 – 2008. Từ dó, tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; tác phẩm“Xu hướng biến đổi giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Khánh Vân: trên cơ sở nghiên cứu thực trạng giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả dự báo xu hướng biến đổi của giai cấp này trong thời gian tới. Từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản để phát triển giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh. Nhìn chung các công trình nêu trên nghiên cứu rất nhiều vấn đề về giai cấp công nhân Việt Nam cũng như đội ngũ công nhân Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ 4 sở tiếp thu, kế thừa những quan điểm phù hợp kết hợp với chọn lọc, thống kê, phân tích, tổng hợp các số liệu thực tế về giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh, bản thân muốn đánh giá tổng thể thực trạng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ khi đất nước bắt đầu đổi mới (1986) cho đến nay. Từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp, khả thi để có thể phát triển đội ngũ công nhân Thành phố nói riêng, cả nước nói chung giai đoạn hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Với đề tài này, Tác giả muốn làm rõ thực trạng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Từ đó đưa ra các nhóm giải pháp phù hợp để phát triển giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những vấn đề sau đây: - Thứ nhất, hệ thống lại lý luận chung về giai cấp công nhân; - Thứ hai, đánh giá thực trạng đội ngũ công nhân và quá trình xây dựng giai cấp giai cấp công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh; - Thứ ba, trên cơ sở nội dung đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp cơ bản để phát triển giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng luận văn tập trung nghiên cứu là giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu giai cấp công nhân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận 5 Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp công nhân; các công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân của các học giả trong nước. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Tác giả sử dụng các quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh… để thực hiện mục đích của luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Từ kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm cơ sở lý luận và thực tiễn, nhằm phát triển giai cấp công nhân, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn ngoài phần đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo còn bao gồm 3 chương 8 tiết. Chương 1: Lý luận chung về giai cấp công nhân Chương 2: Thực trạng giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Chương 3: Phương hướng và những giải pháp cơ bản phát triển giai cấp công nhân Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. 6 Chƣơng 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân 1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân Về khái niệm giai cấp công nhân, trong Những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản, Ph.Ăngghen coi “giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ kiếm sống bằng việc bán lao động của mình, chứ không phải sống bằng lợi nhuận của bất cứ số tư bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào số cầu về lao động, tức là vào tình hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những sự biến động của cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai cấp những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX”, là “giai cấp những người hoàn toàn không có của” [38, tr456]. Như vậy, đặc trưng chủ yếu của giai cấp vô sản, hay giai cấp công nhân thế kỷ XIX, theo Ph.Ăngghen, đó là những người lao động không có tư liệu sản xuất, không có của cải, không có tài sản gì khác ngoài tài sản sức lao động của bản thân; phải bán sức lao động, đi làm thuê trong các lĩnh vực lao động sản xuất vật chất nặng nhọc để được nhận một khoản giá trị sức lao động gọi là tiền lương nhằm tái sản xuất sức lao động của mình. Đến thư Gửi Đại hội quốc tế các sinh viên xã hội chủ nghĩa, Ph.Ăngghen đã nêu ra một quan điểm mới khi ông hy vọng các sinh viên “hãy cố gắng làm cho thanh niên ý thức được rằng giai cấp vô sản lao động trí óc phải được hình thành từ hàng ngũ sinh viên, giai cấp đó có sứ mệnh phải kề vai sát cánh và cùng đứng trong một đội ngũ với những người anh em của họ, những người công nhân lao động chân tay”, bởi vì, trong “sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân còn cần phải có những bác sỹ, kỹ sư, nhà hoá học, nông học và các chuyên gia khác, vì vấn đề là phải nắm lấy việc quản lý không phải chỉ bộ máy chính trị, mà còn cả toàn bộ nền sản xuất xã hội nữa”[40, tr613]. Điều đó có nghĩa rằng, trong giai cấp công nhân tương lai sẽ có những công nhân tri thức, sẽ có tầng lớp lao động trí óc. 7 Điều này cũng phù hợp với quan niệm của C.Mác. Bởi vì, từ nửa sau thế kỷ XIX, do nhận thấy sự tăng lên không ngừng của đội ngũ những người lao động trí óc nhằm đáp ứng các nhu cầu của các ngành sản xuất khác nhau của chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã nói đến những khái niệm “người công nhân tổng thể”, “giai cấp vô sản trí óc”, “giai cấp đông đảo những người giám đốc công nghiệp và thương nghiệp”... Quan niệm mới của C.Mác và Ph.Ăngghen về các bộ phận khác nhau họp thành giai cấp công nhân được xem như cơ sở để chúng ta nghiên cứu về giai cấp công nhân trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá theo hướng hiện đại và hội nhập ngày càng sâu hơn với quốc tế. Với V.I.Lênin, trước khi đưa ra quan niệm về giai cấp công nhân, ông đã xây dựng định nghĩa giai cấp, làm tiêu chuẩn để phân chia cơ cấu giai cấp – xã hội. Từ đó nhận thức đúng về giai cấp công nhân. V.I.Lênin cũng đã chỉ ra đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân là lao động bằng phương thức công nghiệp, với đặc trưng: công cụ lao động là máy móc, có năng suất lao động cao, quá trình lao động mang tính xã hội hoá. V.I.Lênin viết: “… đại công nghiệp cơ khí khác với các hình thức công nghiệp trước đây, có thể tóm tắt như sau: xã hội hoá lao động … sản xuất ở trong nước ngày càng được xã hội hoá, và do đấy, làm cho người tham gia sản xuất cũng càng được xã hội hoá” [30, tr693]. V.I.Lênin còn nhấn mạnh: công nhân chỉ bao gồm những ai do điều kiện sinh sống của bản thân mà thực sự có đầy đủ tâm lý vô sản; song muốn có đầy đủ tâm lý đó thì phải làm việc nhiều năm trong công xưởng, do những điều kiện chung về sinh hoạt kinh tế và xã hội bắt buộc. Như vậy, quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đều cho rằng giai cấp vô sản (giai cấp công nhân) là do nền đại công nghiệp sinh ra, là những người trực tiếp vận hành các công cụ sản xuất công nghiệp, tồn tại, phát triển cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Bên cạnh đó, về mặt lịch sử, giai cấp công nhân là sản phẩm xã hội của quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, một xã hội có “điều kiện tồn tại dựa trên cơ sở chế độ làm thuê”. 1.1.2. Những đặc điểm cơ bản của giai cấp công nhân Là con đẻ của nền đại công nghiệp, được rèn luyện trong môi trường lao động công nghiệp, nên giai cấp công nhân có những đặc điểm tiến bộ so với các giai 8 tầng khác trong xã hội, dù ở thế kỷ XIX với nền công nghiệp cơ khí hoá hay nền công nghiệp tự động hoá, kinh tế tri thức hiện nay. Đó là: Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất hiện đại, có trình độ xã hội hoá ngày càng cao và sản xuất ra tuyệt đại bộ phận của cải vật chất cho xã hội, nên giai cấp công nhân là giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến cao hơn phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền sản xuất công nghiệp phát triển cũng luôn đặt yêu cầu ngày càng cao đối với công nhân. Đồng thời thu hút mọi giới tinh hoa trong xã hội phục vụ cho guồng máy công nghiệp, đặc biệt là đội ngũ trí thức. Trong giai cấp công nhân xuất hiện những công nhân kỹ thuật, kỹ sư, nhà quản lý, bản thân người công nhân cũng dần được trí thức hoá. Nền đại công nghiệp hiện đại không chỉ tạo ra giai cấp công nhân, mà còn tạo ra môi trường để giai cấp công nhân không ngừng rèn luyện, nâng cao vị trí, vai trò trong nền sản xuất và trong đời sống xã hội. C.Mác và Ph.Ănghghen từng chỉ rõ: các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, giai cấp vô sản trái lại là sản phẩm của nền đại công nghiệp đó. Từ khi giai cấp công nhân bước lên vũ đài chính trị, có Đảng tiên phong lãnh đạo, được vũ trang bằng lý luận Mác-Lênin thì tính tiên tiến càng được củng cố và không ngừng được nâng cao. Do giữ vai trò chủ yếu trong nền sản xuất lớn, có lợi ích phù hợp với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động, giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có thể lãnh đạo nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội. Như vậy, nền đại công nghiệp là môi trường ươm mầm, nuôi dưỡng những phẩm chất tiên tiến cho giai cấp công nhân. Trình độ học vấn, tay nghề ngày càng cao làm cho công nhân tiến tới sự giác ngộ chính trị và ý thức vai trò của mình trước xã hội ngày càng mạnh mẽ. Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để Trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân ở vị thế bị áp bức, bóc lột. Giai cấp tư sản chiếm giữ quyền lực kinh tế và chính trị, trở thành giai 9 cấp thống trị. Về kinh tế, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu toàn bộ tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, do đó, chi phối quyền tổ chức, quyền quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm. Về chính trị, giai cấp tư sản nắm quyền lực nhà nước, dùng nó làm công cụ bảo vệ cho quyền hữu sản của mình. Là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất, nhưng giai cấp công nhân bị gạt ra khỏi quyền lực nhà nước, ở địa vị xã hội bị lệ thuộc, bị áp bức. Thực tế đó đẩy giai cấp công nhân vào vị thế đối lập với toàn bộ thế giới tư bản, công nhân không có gì là của mình để bảo vệ cả. Điều đó, quy định tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. Bàn về vấn đề này, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích: trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân không mất gì, nếu mất chỉ mất xiềng xích và sự áp bức, nếu được, giai cấp công nhân được cả thế giới. Vì vậy, giai cấp công nhân chỉ có thể được hoàn toàn giải phóng khi xoá bỏ chủ nghĩa tư bản – chế độ cuối cùng xây dựng trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp công nhân không những giải phóng cho mình mà giải phóng cho toàn xã hội. Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ luật cao. Trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại, lao động công nghiệp với kỷ luật khắc nghiệt, buộc người công nhân phải tuân thủ để, thứ nhất, bảo đảm an toàn trong quá trình vận hành hệ thống máy móc hiện đại; thứ hai, bảo đảm chất lượng sản phẩm sản xuất ra theo đúng quy cách và yêu cầu; thứ ba, bảo đảm quá trình sản xuất diễn ra đồng bộ, có sự liên kết chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các bộ phận, dây chuyền sản xuất. Kỷ luật lao động là thuộc tính của người công nhân, được nền sản xuất công nghiệp trang bị cho. Theo Lênin, công nhân trong nền đại công nghiệp có sự phát triển nhiều hơn hết về ý thức tổ chức kỷ luật và phẩm chất cách mạng. Như vậy, kỷ luật khắc nghiệt trong lao động công nghiệp đã tôi luyện cho giai cấp công nhân ý thức tổ chức, kỷ luật cao. Trong thời đại ngày nay, ý thức tổ chức kỷ luật của giai cấp công nhân tiếp tục được giữ gìn và phát huy đang góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 10 Thứ tư, giai cấp công nhân có sự đoàn kết chặt chẽ Trong quá trình sản xuất, tính chất xã hội hoá của nền sản xuất công nghiệp đã làm cho giai cấp công nhân thống nhất về đội ngũ. Những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân không diễn ra lẻ tẻ, mà là những phong trào chính trị rộng lớn, lôi cuốn triệu triệu người tham gia. Kết quả của chúng là sự đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ của người lao động hơn là những thành công tức thời mà họ giành được. Bản thân giai cấp công nhân cũng ý thức được sức mạnh của sự đoàn kết và việc giữ gìn sự đoàn kết thống nhất đó. Cùng với ý thức tổ chức kỷ luật, sự đoàn kết đội ngũ, giai cấp công nhân có khả năng tự thành lập tổ chức của mình. Khi có tổ chức, sức mạnh của họ được nâng lên gấp bội, đó là sức mạnh của giai cấp lao động ngày càng có tri thức khoa học để làm chủ quá trình sản xuất; làm chủ xã hội. Sức mạnh của một giai cấp có kỷ luật, có tổ chức và đoàn kết đội ngũ rộng lớn, chặt chẽ, mà tổ chức cao nhất là Đảng Cộng sản. Thứ năm, giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế Do giai cấp công nhân tất cả các nước đều có địa vị kinh tế - xã hội và lợi ích giống nhau, nên mục tiêu đấu tranh là thống nhất. Xoá bỏ chủ nghĩa tư bản, giải phóng cho giai cấp mình và giải phóng cho toàn thể xã hội khỏi mọi áp bức, bất công đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Mặt khác, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, giai cấp tư sản các nước liên minh với nhau trên phạm vi thế giới, tăng cường áp bức bóc lột và chống phá quyết liệt phong trào cách mạng của giai cấp công nhân. Vì vậy sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, phối hợp đấu tranh trên phạm vi thế giới là tất yếu trong sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân. Cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản về thực chất là cuộc đấu tranh quốc tế. Tình đoàn kết quốc tế của giai cấp công nhân được thể hiện trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và được củng cố, phát triển sau khi giai cấp công nhân đã giành được chính quyền, bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. 11 Từ những đặc điểm trên cho thấy, giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại và mang tính quốc tế hoá. Vì vậy, giai cấp công nhân vừa là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong mỗi nước cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Tóm lại, giai cấp công nhân gắn liền với phương thức sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, mang tính xã hội hoá cao. Phương thức sản xuất quy định phương thức tư tưởng. Vì vậy, giai cấp công nhân có được những đặc điểm của một giai cấp cách mạng như: tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần cách mạng triệt để; tính đoàn kết quốc tế… những phẩm chất này khách quan xác định giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và thông qua đội tiền phong của mình là Đảng Cộng sản có năng lực lãnh đạo các giai cấp khác trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. 1.1.3. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới là sự nghiệp của một giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, đại diện cho tiến bộ xã hội để xác lập một hình thái kinh tế - xã hội mới thay thế cho hình thái kinh tế - xã hội đã lỗi thời. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là toàn bộ những nhiệm vụ cơ bản, tất yếu mà địa vị kinh tế - xã hội của nó trong chủ nghĩa tư bản đã đòi hỏi, tạo điều kiện cho nó cần phải và có thể thực hiện nhằm thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, xây dựng và xác lập xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh này được thể hiện ở ba nội dung cơ bản: Thứ nhất, nội dung kinh tế Giai cấp công nhân dù ở chế độ chính trị nào, cũng là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức sản xuất công nghiệp mang tính chất xã hội hoá cao, sản xuất ngày càng nhiều của cải vật chất, đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của con người. Qua đó, họ tạo ra tiền đề vật chất – kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới. Ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, từ vị thế của mình, giai cấp công nhân đang thực hiện nội dung kinh tế này thông qua cách mạng khoa học và công nghệ 12 hiện đại, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội hoá mạnh mẽ. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, thông qua quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, giai cấp công nhân thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất lao động và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Nội dung kinh tế này là yếu tố quan trọng nhất khẳng định sự cần thiết và quy mô phạm vi toàn thế giới về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với quá trình phát triển văn minh nhân loại. Thực hiện đầy đủ và thành công nội dung này cũng là điều kiện vật chất để chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản. Thứ hai, nội dung chính trị - xã hội Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa với tư cách là một chế độ chính trị còn áp bức, bất công, để xác lập, bảo vệ và phát triển chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu tối thượng là giải phóng con người khỏi mọi sự áp bức, bóc lột và được tạo điều kiện phát triển toàn diện. Nhà nước pháp quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động được xác lập và trở thành công cụ có hiệu lực để lãnh đạo chính trị, quản lý kinh tế và xã hội trong quá trình cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, đây là vấn đề cơ bản của tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch sử này. Ngoài ra, nội dung này con bao gồm việc giai cấp công nhân giải quyết đúng đắn các vấn đề chính trị - xã hội đặt ra trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa như liên minh với các giai cấp, tầng lớp, đoàn kết các dân tộc, xây dựng xã hội mới, con người mới,… thông qua đó, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và phát huy tính chủ động, tự giác của nhân dân trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kinh nghiệm thực tiễn chỉ ra rằng, nếu không giải quyết tốt những vấn đề này thì quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử có thể gặp khó khăn, thậm chí đổ vỡ và phải làm lại từ đâu. Nội dung to lớn, phong phú của cách mạng chính trị cho thấy đây là một quá trình lâu dài và phức tạp. Chủ nghĩa xã hội hiện thực chỉ có thể ra đời thông qua thắng lợi của cuộc cách mạng chính trị của giai cấp công nhân. 13 Thứ ba, nội dung văn hoá, tư tưởng Nhiệm vụ lịch sử trao cho giai cấp công nhân trong tiến trình cách mạng của mình là xác lập hệ giá trị, tư tưởng của giai cấp công nhân để thay thế cho hệ giá trị, tư tưởng của giai cấp tư sản và “những hệ tư tưởng cổ truyền” lạc hậu khác. Thực chất đó là một cuộc cách mạng về văn hoá, tư tưởng bao gồm cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới trong sự kế thừa những tinh hoa của thời đại và giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc. Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa và con người được phát triển tự do và toàn diện trong xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là những mục tiêu hàng đầu của cuộc cách mạng này. 1.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về giai cấp công nhân 1.2.1. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, từ những năm còn bôn ba ở nước ngoài để tìm đường cứu nước đến khi về nước và cả lúc sắp đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều dành sự quan tâm thường xuyên, sâu sắc đối với giai cấp công nhân Việt Nam. Quan điểm về giai cấp công nhân Việt Nam được Người nhận thức đúng đắn, khoa học, là giai cấp có sứ mệnh lịch sử đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi cuối cùng. Những quan điểm của Người về giai cấp công nhân là cơ sở khoa học cho những quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng ta về xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong bối cảnh mới. Có thể nêu ra những quan điểm cơ bản sau: Thứ nhất, quan niệm về giai cấp công nhân. Theo Người, “Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống là công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kỳ họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân. Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm mỏ, xe lửa, vân vân... Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở các cửa hàng, những cố nông, vân vân…, cũng thuộc về giai cấp công nhân. Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp công nhân” [46, tr211]. 14 Với quan niệm như vậy, Người đã chỉ ra giai cấp công nhân gồm những ai và những đặc tính cách mạng của họ. Người viết: “Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới” [46, tr212]. Như vậy, mặc dù chưa đưa ra được một khái niệm hoàn chỉnh về giai cấp công nhân Việt Nam, nhưng những quan niệm trên của Hồ Chí Minh về cơ bản là phù hợp với lý luận về giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác – Lênin, đồng thời phản ánh thực tiễn giai cấp công nhân nước ta trong thời đại cách mạng vô sản. Thứ hai, về sứ mệnh lịch của giai cấp công nhân Việt Nam Nghiên cứu xã hội Việt Nam, Người khẳng định: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân. Hồ Chí Minh lưu ý, “có người nói: giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được cách mạng”. “Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số người nhiều ít của giai cấp” [46, tr212]. Người khẳng định: “Để giành lấy thắng lợi, cách mạng nhất định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo. Vì nó là giai cấp tiên tiến nhất, giác ngộ nhất, kiên quyết nhất, có kỷ luật nhất và tổ chức chặt chẽ nhất” [46, tr213]. Và, sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo Tổng Công đoàn Việt Nam, Người đặt ra câu hỏi: Ai xây dựng chủ nghĩa xã hội?, rồi Người tự trả lời: “Nói chung là những người lao động trong xã hội gồm công nhân, nông dân, trí thức cách mạng,… nhưng lực lượng chủ chốt xây dựng chủ nghĩa xã hội là công nhân” [50, tr565]. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (18/12/1959), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Để xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, chúng ta cần phải tăng cường không ngừng sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với nhà nước dân chủ nhân dân” [48, tr587]. Nhận rõ vai trò của giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh rất quan tâm tới việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân theo tinh thần “trí 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan