Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Giá trị quyền con người trong luật tục của người thái ở tây bắc việt nam....

Tài liệu Giá trị quyền con người trong luật tục của người thái ở tây bắc việt nam.

.PDF
182
236
115

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LỪ VĂN TUYÊN GIÁ TRỊ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG LUẬT TỤC CỦA NGƢỜI THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LỪ VĂN TUYÊN GIÁ TRỊ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG LUẬT TỤC CỦA NGƢỜI THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 9 38 01 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƢƠNG HÀ NỘI - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Lừ Văn Tuyên MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................... 9 1.1. Những công trình đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài .................... 9 1.2. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu ........................................................................................... 26 Chƣơng 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ GIÁ TRỊ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG LUẬT TỤC CỦA NGƢỜI THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM.................................................................................. 35 2.1. Quan niệm về quyền con người và giá trị quyền con người .............. 35 2.2. Khái niệm, đặc điểm luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam và vị trí, vai trò của luật tục của người Thái ở Tây Bắc trong đời sống cộng đồng tộc người.................................................................................. 40 2.3. Mối quan hệ giữa luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam và giá trị quyền con người ............................................................................. 49 2.4. Mối quan hệ giữa pháp luật và giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam .................................................. 50 2.5. Vận dụng những giá trị quyền con người trong luật tục, tập quán trong việc thực hiện các quyền con người trên thế giới và Việt Nam ...... 62 Chƣơng 3: TÁC ĐỘNG CỦA GIÁ TRỊ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG LUẬT TỤC CỦA NGƢỜI THÁI ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN QUYỀN CON NGƢỜI TRONG CỘNG ĐỒNG NGƢỜI THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM HIỆN NAY............................................................. 72 3.1. Một số giá trị quyền con người trong luật tục Thái ở Tây Bắc Việt Nam .. 72 3.2. Tác động của những quy định về quyền con người trong luật tục Thái đến việc thực hiện các quyền con người trong cộng đồng người Thái ở Tây Bắc Việt Nam hiện nay ........................................................ 109 Chƣơng 4: KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ QUYỀN CON NGƢỜI TRONG LUẬT TỤC CỦA NGƢỜI THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ....................................... 127 4.1. Quan điểm kế thừa các giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam giai đoạn hiện nay .............................. 127 4.2. Giải pháp phát huy các giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay..................... 134 KẾT LUẬN .................................................................................................. 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ......... 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 153 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quyền con người là một phạm trù đa diện, kết tinh những giá trị cao đẹp trong nền văn hóa của các dân tộc. Đây không chỉ là “ngôn ngữ chung” mà còn là “sản phẩm chung” , “mục tiêu chung” và “phương diện chung” của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người, mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, cả trong pháp luật và thực tiễn, là nghĩa vụ và cần sự đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp và cá nhân, chứ không phải chỉ riêng một quốc gia, dân tộc, giai cấp hay nhóm người nào. Để đạt được những mục tiêu trong lĩnh vực này, nhân loại đang hướng tới xây dựng một “nền văn hóa nhân quyền” ở mọi cấp độ, trong đó việc kết hợp hài hòa những đặc thù và giá trị truyền thống tốt đẹp của các dân tộc với các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế được thừa nhận chung về nhân phẩm và giá trị của con người cũng là một giải pháp thúc đẩy thực hiện quyền con người một cách hiệu quả. Việt Nam là một quốc gia có 54 dân tộc. Trên 10 triệu dân trong tổng số trên 80 triệu dân, có 53 dân tộc ít người, trong đó dân tộc Thái là một trong những dân tộc ít người ở Việt Nam. Theo số liệu từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009, dân tộc Thái ở nước tacó 1.550.423 người, chiếm 1,6% dân số cả nước, chiếm 12,2% tổng dân số các dân tộc thiểu số, đứng thứ ba sau người Kinh và người Tày. Trong xã hội xưa, đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc đã có những tư tưởng tiến bộ mang giá trị nhân đạo, nhân quyền sâu sắc, những tư tưởng đó được biểu đạt bằng nhiều phương thức khác nhau trong đó, luật tục là một sản phẩm tinh túy nhất trong quá trình phát triển nhận thức của cộng đồng, và có một vị trí nhất định trong việc điều chỉnh các mối quan hệ trong đời sống của đồng bào. Luật tục của Thái với tên gọi chung là “hít khoòng”, dịch ra tiếng Việt có nghĩa là “phong tục tập quán”, “lệ tục”, hoặc “lệ”. Luật tục được các thành viên trong cộng đồng nghiêm chỉnh tuân theo một cách tự giác. 1 Từ khi Đảng, Nhà nước thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang dần dần tác động và thay thế nền kinh tế nông nghiệp nương rẫy tự nhiên tại vùng đồng bào dân tộc Thái. Việc giao lưu văn hóa có ảnh hưởng nhất định đến lối sống, phong tục tập quán, tạo nên những biến đổi trong đời sống. Tuy nhiên, với những tác động đó, giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Thái vẫn luôn tồn tại, luật tục của dân tộc Thái vẫn luôn có sức sống mãnh liệt, ở một góc độ nhất định vẫn luôn điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong cộng đồng các bản - mường người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, thực thi, bảo đảm các quyền con người đang được thực hiện, trong đó việc phát huy các giá trị văn hóa truyền thống được đặc biệt chú ý trong xây dựng chính sách, pháp luật về bảo đảm quyền con người. Điều 5, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ 1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam; 2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc; 3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hoá tốt đẹp của mình; 4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước. Điều 14 Hiến pháp năm 2013 : Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp. Những quy định của Hiến pháp đã thể hiện quan điểm Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, thực thi các quyền con người, chính sách dân tộc, bảo đảm quyền bình đẳng giữa các dân tộc, coi đó là một trong những nhân tố quyết định cho sự phát triển bền vững của đất nước. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu sinh đã quyết định chọn đề tài giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam để triển khai nghiên cứu trong quy mô luận án tiến sĩ luật học với mong muốn góp 2 phần giải mã toàn diện và có hệ thống các nội dung liên quan đến chủ đề được lựa chọn. Từ những lý do và nhận thức trên đây, tôi chọn đề tài “giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam ” để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ Luật học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích tổng quát của luận án là luận chứng khoa học cho một hệ thống giải pháp bảo đảm, thực thi quyền con người, quyền của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam xuất phát từ hệ thống giá trị truyền thống luôn tồn tại trong lịch sử đến hiện tại. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Hệ thống hóa nhận thức lý luận về giá trị quyền con người và giá trị quyền con người trong lịch sử truyền thống. Trên cơ sở đó, tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, nội dung về giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. - Tìm hiểu và đưa ra những ý kiến đánh giá về thực trạng việc thực hiện các quyền con người ở vùng đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Xác định rõ những thành công, hạn chế còn tồn tại và chỉ ra những nguyên nhân của thành công, hạn chế đó. Đồng thời, xác định việc vận dụng những giá trị quyền con người trong luật tục với ý nghĩa bảo đảm thực thi quyền con người. - Đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm phát huy những giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam để bảo đảm thực hiện quyền con người trong cộng đồng người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. 3. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam và giá trị quyền con người có trong luật tục của người Thái, khả năng kế thừa và phát huy những giá trị đó trong xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật về thực thi quyền con người đối với cộng đồng người Thái ở Tây Bắc Việt Nam; các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật có ảnh hương đến vận dụng 3 giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái trong việc bảo đảm, thực thi quyền con người đối với cộng đồng người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. 4. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của luật tục tiếp cận dưới góc độ khái niệm, đặc điểm luật tục của người Thái; đánh giá giá trị của luật tục người Thái trong cộng đồng; tìm hiểu những kinh nghiệm phát huy những giá trị quyền con người trong lịch sử truyền thống trên thế giới và Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu về giải pháp kế thừa, phát huy các giá trị quyền con người trong luật tục để xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, thực thi các quyền con người đối với cộng đồng người Thái các tỉnh Tây Bắc Việt Nam. Đặc biệt tập trung khảo sát đánh giá thực trạng kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị; khảo sát về việc hưởng thụ các quyền con người của đồng bào người dân tộc Thái ở Tây Bắc; khảo sát kết quả thực hiện các giải pháp kế thừa và phát huy các giá trị quyền con người trong luật tục của người Thái của một số xã có người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Yên Bái. Từ đó đề xuất quan điểm kế thừa, phát huy giải pháp bảo đảm thực thi pháp luật về quyền con người dựa trên giá trị của luật tục Thái. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước và pháp luật; các học thuyết, quan điểm của các nhà tư tưởng tiến bộ khác về nhà nước và pháp luật hiện đại, đặc biệt là về nhà nước pháp quyền, về tập quán pháp và về cơ chế tự quản của cộng đồng... 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng phương pháp luận Mác Lênin và các phương pháp chủ yếu sau đây: 5.2.1 Cách tiếp cận Đề tài được tiếp cận với góc độ khoa học pháp lý nhằm làm sáng tỏ phạm trù quyền con người trong đời sống, qua quy định trong luật tục điều 4 chỉnh các mối quan hệ xã hội, giữa người dân với với cộng đồng, giữa các thành viên trong cộng đồng với nhau trong bối cảnh thời kỳ các Châu – mường người Thái ở Tây Bắc trước năm 1945 và bối cảnh bản mường vùng đồng bào dân tộc Thái ở Tây Bắc hiện nay. Phạm vi nghiên cứu của đề tài đòi hỏi cách tiếp cận liên ngành và đa ngành khoa học xã hội. Tiếp cận toàn diện và hệ thống Nghiên cứu về quyền con người thông qua luật tục đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện và hệ thống các yếu tố tác động đến cuộc sống của người dân trong các bản – mường, đến các nội dung mang tính quyền con người trong luật tục. Sự thay đổi của một yếu tố cấu thành sẽ tác động đến các yếu tố khác. Ngoài ra, phải xem xét đến tính phổ quát của luật tục bên cạnh đó là tính đặc thù của từng địa phương, của từng giai đoạn lịch sử. Tiếp cận toàn diện và hệ thống cho phép đề tài có thể đánh giá các sự kiện, hiện tượng trong tương quan với chỉnh thể rộng hơn đồng thời xem xét tính đặc thù của luật tục của người Thái ở Tây Bắc. Tiếp cận liên ngành khoa học xã hội Trong khi tiếp cận toàn diện và hệ thống cho phép đề tài có cái nhìn vừa bao quát vừa đặc thù, thì việc vận dụng một tiếp cận liên ngành trong nghiên cứu giúp tác giả nhìn nhận, đánh giá các sự kiện từ nhiều chiều cạnh khác nhau. Trước hết là tiếp cận Luật học trong việc xây dựng hương ước, quy ước ở cơ sở dựa trên những giá trị của luật tục và thực thi hương ước điều chỉnh hoạt động tự trị, tự quản của bản mường, chi phối cuộc sống mọi mặt của người dân. Tiếp cận ở khía cạnh lịch sử để thấy sự thay đổi của quyền con người qua các giai đoạn, các thời kỳ, phản ánh trong luật tục. Các yếu tố của bối cảnh lịch sử tác động đến nội dung của luật tục. Tiếp cận ở khía cạnh dân tộc học, nghiên cứu bản mường của người Thái là một thực thể chứa đựng nhiều thành tố như kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục, tập quán, điều kiện tự nhiên... 5 Việc xem xét đối tượng nghiên cứu từ tiếp cận liên ngành giúp đưa ra những phân tích thấu đáo dựa trên đặc thù riêng của mỗi ngành khoa học. Nhìn đối tượng dưới lăng kính đa chiều cũng cho phép tiến dần tới hiện thực khách quan, hạn chế được những sai số đặc trưng cho mỗi ngành khoa học. Trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa các công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề luận án, luận án sẽ kế thừa có chọn lọc, phát triển các luận điểm nghiên cứu, đồng thời phát hiện vấn đề nghiên cứu mới, xây dựng các luận điểm khoa học thuộc nội dung nghiên cứu luận án. Tiếp cận liên ngành luật học Tiếp cận ở khía cạnh luật học, luận án nghiên cứu pháp luật về quyền con người, quyền của các dân tộc thiểu số và thực tiễn bảo đảm thực thi pháp luật về quyền con người trong đời sống. Góc độ nghiên cứu ứng dụng được luận án đặc biệt chú ý. 5.2.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể Để làm sáng tỏ đối tượng nghiên cứu, Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành và đa ngành trong nghiên cứu khoa học pháp lý về quyền con người. - Phương pháp phân tích tài liệu: Phương pháp này được áp dụng để phân tích các tài liệu về giá trị quyền con người trong lịch sử nhà nước, pháp luật trong luật tục dân tộc thiểu số trên thê giới, luật tục dân tộc Thái ở Việt Nam, bao gồm các công trình nghiên cứu, bài báo, tạp chí về luật tục Thái (bằng cả tiếng Việt và tiếng nước ngoài), các tài liệu về luật tục được dịch sang tiếng Việt. - Phương pháp hỏi chuyên gia: Phương pháp này được sử dụng để thu thập thông tin và ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học Việt Nam và nước ngoài chuyên về luật tục Thái. Phương pháp này được thực hiện thông qua việc liên lạc trao đổi trực tiếp, qua thư điện tử (e-mail) và qua các cuộc hội thảo khoa học về luật tục Thái mà tác giả tham dự. - Phương pháp luật học so sánh: Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn vận dụng giá trị quyền con người 6 có trong luật tục ở một số quốc gia (tiêu biểu) trên thế giới; qua đó rút ra được những nhận thức chung và giá trị tham khảo có thể áp dụng đối với Việt Nam. - Phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử: với tính đồng đại, lịch đại... để xem xét vấn đề quyền con người trong mối liên hệ hữu cơ với điều kiện lịch sử cụ thể. - Phương pháp tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng để tổng hợp các tri thức về giá trị quyền con người có được từ hoạt động phân tích, hỏi chuyên gia, so sánh, và các phương pháp được sử dụng khác. Sự tổng hợp này nhằm mục đích đưa ra những luận giải, nhận xét và đề xuất của chính tác giả luận án nhằm vận dụng giá trị quyền con người có trong luật tục Thái ở Việt Nam. - Phương pháp thống kê: được sử dụng trong chương 1 của luận án nhằm tập hợp, đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và thực trạng nghiên cứu lịch sử về quyền con người, giá trị quyền con người, luật tục của dân tộc Thái ở Việt Nam. - Phương pháp điều tra xã hội học: được sử dụng trong chương 3 của luận án để đánh giá những tác động của giá trị quyền con người có trong luật tục tới cộng đồng ở một số bản – mường người Thái ở Tây Bắc Việt Nam. Cụ thể tại một số xã có đông đồng bào người dân tộc Thái sinh sống tại 05 tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hòa Bình, Yên Bái. 6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận án Từ mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã xác định trên đây, Luận án có những kết quả nghiên cứu mới sau đây: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống, toàn diện, chuyên sâu cả ở phương diện lý luận và thực tiễn về giá trị quyền con người trong luật tục Thái và tác động luật tục Thái đối với thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Thái ở Tây Bắc hiện nay. Luận án phân tích làm rõ thêm những vấn đề về luật tục Thái trong xã hội truyền thống và hiện nay; làm rõ các yếu tố và thực trạng ảnh hưởng của luật tục đến thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Thái. Bên cạnh đó, Luận án đánh giá những nguyên nhân chủ yếu và đưa ra được những quan điểm, giải pháp thiết thực, hiệu quả nhằm từng bước phát 7 huy những giá trị quyền con người trong luật tục đến thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Thái ở Tây Bắc hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 7.1. Ý nghĩa lý luận Trên cơ sở giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án góp phần chỉ rõ những đặc điểm cơ bản của luật tục, luật tục Thái và vị trí, vai trò của nó trong điều chỉnh quan hệ cộng đồng; chỉ ra những giá trị về quyền con người có trong luật tục để góp phần ứng dụng trong thực tế. Kết quả nghiên cứu của Luận án đưa ra cách nhìn đầy đủ về giá trị quyền con người có trong luật tục của người Thái ở Tây Bắc có vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng; bổ sung cơ sở lý luận về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc Thái ở nước ta hiện nay. 7.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án góp phần đánh giá thực trạng, rút ra những giá trị tích cực, những mặt hạn chế về những giá trị về quyền con người có trong luật tục Thái trong quản lý xã hội trên địa bàn nghiên cứu; tìm ra những giá trị của luật tục cùng những giải pháp khả thi để có thể sử dụng luật tục hỗ trợ cùng pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội vùng nông thôn - cơ sở, vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Bắc; làm cơ sở cho rà soát, hệ thống hóa, phát huy những quy phạm luật tục phù hợp, đưa vào các hương ước, quy ước khu dân cư, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật và loại bỏ những quy phạm mang tính hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan đang tồn tại trong luật tục, nâng cao ý thức thực hiện pháp luật trong cộng đồng người Thái nói riêng và các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc nói chung. Luận án có thể làm tài liệu nghiên cứu, tham khảo trong việc giảng dạy, đào tạo, tập huấn chuyên sâu cho cán bộ; trong xây dựng chính sách về dân tộc của Đảng và Nhà nước; trong quản lý xã hội, đảm bảo an ninh nông thôn, đưa pháp luật vào cuộc sống... vùng dân tộc thiểu số ở các tỉnh Tây Bắc hiện nay và trong những năm tới. 8. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận án gồm 4 chương, 11 tiết. 8 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Những công trình đã nghiên cứu có liên quan đến đề tài 1.1.1. Những công trình nghiên cứu về luật tục, luật tục của người Thái ở Tây Bắc Việt Nam 1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu về luật tục Trên thế giới, vấn đề luật tục sớm được nghiên cứu tại các nước châu Âu và một số quốc gia châu Á. Ở châu Âu, luật tục được nghiên cứu từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX bởi các nhà luật học và các nhà cai trị địa phương. Các nhà nghiên cứu lịch sử, pháp luật đã kết hợp giữa luật La Mã và tập quán pháp, cụ thể các tập quán được luật hóa trong luật La Mã, khởi đầu là Bộ luật 12 bảng - vào khoảng năm 450 trước Công Nguyên (Đây là một trong những văn bản luật ra đời sớm nhất và mãi cho đến thế kỷ XIX vẫn được xem là nguồn luật pháp quan trọng trong phần lớn các quốc gia châu Âu - ngay các Bộ luật Dân sự hiện đại, như Bộ luật Dân sự Đức và Bộ luật Dân sự Áo cũng hình thành trước tiên từ Luật La Mã) [55, tr75]. A. Wantson trong bài viết "An approoach to costomary" in trong cuốn "Folk law" (1994) cho rằng tập quán pháp trở thành luật khi và chỉ khi nó được đạo luật hay quyết định của tòa án công nhận, khi nó được biết như là luật, chấp nhận như là luật và thi hành như là luật [48, tr56]. Trong việc thiết lập việc cai trị một số quốc gia thuộc địa ở châu Á, châu Phi, Nam Mỹ, các nhà luật học, quản lý của các nước có nhiều thuộc địa như Anh, Pháp, Tây Ban Nha rất quan tâm nghiên cứu lĩnh vực này. Những năm đầu của thế kỷ XX, Bronislaw Malinowski - người trường phái chức năng (Functionnalism) cho rằng, tất cả những hiện tượng văn hóa đều cần thiết và mang chức năng nhất định trong một xã hội nhất định, từ đó rút ra kết luận: "không thể dùng một thể chế xã hội này áp đặt cho một xã hội khác, mà cần sử dụng bản thân thể chế xã hội vốn có để quản lý xã hội đó", quan điểm này đã được các nhà cai trị thực dân vận dụng trong việc cai trị các xã hội thuộc địa lúc bấy giờ [48, tr57]. 9 Công trình của Kayleen M.Hazle Hurht dân đã đề cập tới tình trạng đa dạng pháp luật của cư dân bản địa của các nước Canada, Australia, New Zealand vốn là nơi sinh sống của cư dân bản địa, còn ở trình độ phát triển thấp và tình trạng phụ thuộc vào chủ nghĩa thực dân [48, tr56]. Ở châu Á, vốn có nhiều quốc gia chịu sự đô hộ bởi nhà nước thực dân, vấn đề nghiên cứu luật tục được người Anh, người Pháp quan tâm từ rất sớm ở Ấn Độ, Inđônêxia, Malayxia... và nhất là ở Việt Nam. Giáo sư Ngô Đức Thịnh cho rằng, công trình nghiên cứu: “Asian indigenous law in Interaction with Received law” (Luật bản địa châu Á trong mối quan hệ tương hỗ với luật thành văn) của Masaji Chiba [78], bao gồm nhiều chương viết về luật tục của nhiều dân tộc và quốc gia khác nhau, như người Ai Cập Hồi giáo, Iran Hồi giáo, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Nhật Bản [50], đã đưa ra sự phân loại luật ở các nước châu Á thành ba hình thức: Luật (Received law), Luật bản địa (Indigenous law) và dạng hỗn hợp giữa hai hình thức trên. Tại Ấn Độ, có công trình: “Luật tục bộ lạc ở Đông Bắc Ấn Độ” của Shinbani Roy và S. H. M. Rizvi; hay “Đất đai công cộng và luật tục” của Minoti Charcravarty-Kaul, đề cập đến vấn đề sở hữu đất đai theo luật tục ở Bắc Ấn Độ [49, tr18]. Gần đây xuất hiện một số công trình nghiên cứu về giá trị luật tục của các dân tộc châu Phi và châu Á như công trình của Woodman, Gordon R và A.O.Obilade viết về luật châu Phi và lý thuyết luật pháp, bởi châu Á và châu Phi là đối tượng tập trung sự chú ý của các nhà nghiên cứu lịch sử luật pháp, chủ yếu là người phương Tây, để tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề nảy sinh giữa pháp luật và luật tục. Khi thực dân Đức, Pháp và Anh sang cai trị và đặt ách đô hộ ở một số nước ở hai châu lục này, một trong những vấn đề mâu thuẫn căng thẳng là mâu thuẫn giữa luật bản địa và luật pháp phương Tây. Nhìn chung, trên thế giới trong thế kỷ XIX và thế kỷ XX có một khối lượng đồ sộ các công trình nghiên cứu về luật tục từ các góc độ khác nhau dưới góc độ lý luận, phương pháp và nghiên cứu các trường hợp cụ thể. Các công trình nghiên cứu này cung cấp những hiểu biết căn bản về luật tục được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh và tạo ra những nền tảng cần thiết cho các 10 nghiên cứu về luật tục. Ở Việt Nam, từ đầu thế kỷ XX, các học giả người Pháp đã có một số công trình nghiên cứu về luật tục Tây Nguyên, hơn một thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu của các ngành khoa học xã hội khác nhau ở Việt Nam đã bắt đầu sưu tầm luật tục của dân tộc Êđê, M'nông, Thái, Jrai… Đây mới là sự khởi đầu của việc sưu tầm và nghiên cứu về luật tục của các dân tộc ở Việt Nam nên chưa có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu về thực tế các dân tộc áp dụng luật tục như thế nào, đặc biệt ở những tộc người đa sắc thái với nhiều cụm điểm dân cư từ nơi khác đến sinh sống mang theo phong tục tấp quán riêng của họ. Để thúc đẩy việc sưu tầm, dịch và công bố luật tục Tây Nguyên phải kể đến Chỉ thị của Pierre Pasquier (có thời gian làm toàn quyền Đông Dương), năm 1923, Pasquier yêu cầu ghi chép và thu thập luật tục của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tại Thông tri 578 -CA ngày 30/7/1923, Ông yêu cầu các nhóm dân tộc đông người như Jrai, Xơ đăng, Bana, M'nông; quy tắc hóa các luật tục như đã làm ở Đắc Lắc với người Ê đê. Thông tri 578- CA chỉ rõ rằng người Pháp cần biết luật tục của các dân tộc Tây Nguyên để tiến hành việc cai trị. Sưu tầm luật tục Tây nguyên vì lợi ích của chính quyền đô hộ Pháp cho nên có thể "cải biên" và "thu xếp" một cách có lợi; có thể ủng hộ cả những việc thử tội có tính chất Trung cổ và biện hộ cho cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc. Thông tri 578 - CA đã thúc đẩy việc ra đời của nhiều tài liệu khác về luật tục. Năm 1913, Leopold Sbatier đã sưu tầm, hệ thống và cho công bố bộ luật tục Ê đê: Ruôn Hra Duc Key bhiam dum in trong Imprimeie d' Extremi Orient, 1927 bằng tiếng Ê đê. Năm 1940, L.Sabatier cho xuất bản cuốn Sưu tầm luật tục người Ê đê ở Đắc Lắc do D.Antomarchi dịch và chú thích (Hà Nội, IDEO). Cuốn sách là công trình sưu tầm, hệ thống và ứng dụng đầu tiên về luật tục. Tuy nhiên, cuốn sách không chỉ sưu tầm và văn bản luật tục Ê đê, mà bên cạnh luật tục thực tế, Ông còn thêm những quy định của mình vào nhằm mục đích thực thi việc cai trị. Tiếp theo, lần lượt 5 cuốn sách về luật tục được ra đời gồm: 11 Jacques Dournes: Nri, sưu tầm luật tục của người Sre ở Thượng Đồng Nai, Sài Gòn, France - Asie, 1951. Cuốn sách đã phản ánh được những nét cơ bản của luật tục Sre, gồm hai phần, phần đầu là những điều chung về hình phạt, trách nhiệm, làm chứng, thú tội, các giao kèo…và phần chính là các điều luật cụ thể. Cuốn sách trình bày 92 điều luật bằng song ngữ tiếng Sre và tiếng Pháp, đề cập đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như tội chống cấp trên, tù trưởng sai phạm, làm hại người khác, hôn nhân, tội ác, gia súc, đất đai… Theophile Gerber: Luật tục Stiêng, Tạp chí Trường Viễn đông bác cổ, 1951. Cuốn sách là những ghi chép về luật tục Stiêng ở Bù lơ theo chế độ phụ hệ (khác với người Stiêng ở Bù đéc theo chế độ mẫu hệ). Cuốn sách gồm 5 chương: chương I là một số khái niệm về tập quán pháp, chương II là việc tổ chức xét xử, hình phạt, chứng cứ, trách nhiêm và liên đới trách nhiệm, chương III về người đứng đầu làng và các thành viên trong làng, chương IV về hôn nhân và gia đình, chương V về sở hữu tài sản và thừa kế. Tuy nhiên, cuốn sách chỉ ghi chép bằng tiếng Pháp mà không có phần ghi bằng chứ Stiêng. Bên cạnh đó, một số "tiền lệ pháp" trong chương II quy định hành chính trong xét xử, bản thân luật tục Stiêng không có. Paul Guilleminet: Luật tục của bộ lạc Bana, Xedang và Jrai ở tỉnh Kon Tum, Paris, Trường Viễn đông bác cổ, 1952. Cuốn sách gồm hai tập, mặc dù tên gọi là Luật tục của bộ lạc Bana, Xedang và Jrai ở tỉnh Kon Tum, song lại tập trung đề cập đến luật Bana. Cuốn sách không giới thiệu toàn văn hoặc từng phần của luật tục Bana mà chủ yếu là dẫn ra và bình luận về những luật lệ mà chính quyền thực dân Pháp sử dụng. Dournes đã nhận xét: "Ở đây không hề có luật tục truyền thống của nhân dân"[20, tr9]. Jean Boulbet: Vài khía cạnh của luật tục (N'ri) người Cau Ma, Tạp chí xã hội và nghiên cứu Đông Dương, Sài Gòn 1957. Cuốn sách gồm bốn chương: chương 1 về xử sở Mạ, chương 2 sắc thái đùa cợt của người Mạ một thú vui trong nói chuyện, chương 3, luật tục Mạ, chương 4, về thơ ca của người Mạ. Đối với luật tục của người Mạ, tác giả dẫn ra 68 điều liên quan đến các lĩnh vực như xử kiện, chiến tranh, thủ lĩnh, nói dối, quan hệ trai gái, cưới 12 xin và hôn nhân, gia đình, ngoại tính, không ly dị, loạn luân,…bao gồm tiếng Mạ và phần dịch sang tiếng Pháp. Cuốn sách là thể hiện sự nghiêm túc, thận trọng và am hiểu của tác giả về cách nói, cách suy nghĩ của tộc người Mạ: trong tác phẩm này, luật tục được vận dụng với mong muốn hòa giải các tranh chấp. Pierre Bernard Lafont: Tơ lơi djuat, luật tục của bộ lạ Jrai, Paris, Trường Viễn đông bắc cổ, 1963. J.Dournes cho rằng đối với luật tục Jrai: "mục đích của tất cả quá trình luật tục Jrai là để đạt đến sự thỏa thuận chung, thông qua một sự dàn xếp chấp nhận được. Và do vậy mà giải quyết sự căng thẳng trong một bộ phận nhỏ của cộng đồng", và Ông đánh giá rất thấp cuốn sách nói trên "cuốn sách này có lẽ là đáng chê cười nhất trong số các tác phẩm về luật tục của người bản xứ [76, tr10]. Ngoài ra, có thể kế tới một số công trình: Cuốn sách "Một số luật tục và luật cổ ở Đông Nam Á" của Vũ Quang Thiện, Tô Nguyễn [43] (sưu tầm, biên dịch và giới thiệu: Luật tục của người Chin (ở Myanma và một phần đất tiếp giáp ở Ấn Độ) Ka-chin (ở Myanma và một phần đất tiếp giáp ở Trung Quốc); Bộ luật Lào cổ; Bộ luật Luông Phabăng của người Lào; Bộ luật hôn nhân và thừa kế của người Gia-va Hồi giáo ở Malayxia và Inđônêxia). Cuốn sách "Luật tục và phát triển nông thôn hiện nay ở Việt Nam" cuả Viện nghiên cứu khoa học dân gian [58] với nhiều bài viết như: "Một số nhận xét về việc nghiên cứu luật tục" của GS. G.Condomianas (Pháp), đã nhận xét về luật tục dưới góc độ liên quan đến tính chất của luật tục đó là tính truyền miệng, đức tin và thực hành tín ngưỡng; "Luật tục của người Minangkabuau" của tác giả H.Idus Hakimi Datuak Rajo Panghulu (Indonexia) đã miêu tả sự đóng góp của adat istiadat (các tập tục) của Minangkabuau trong sự phát triển của miền Tây tỉnh Sumatra thuộc Indonexia, bài viết dưới góc độ để nghiên cứu, so sánh với luật tục ở Việt Nam; "Nguồn gốc và bản chất của luật tục Tây Nguyên" của tác giả Phan Đăng Nhật đã khái quát quá trình nghiên cứu luật tục Tây Nguyên của người Pháp và người Việt Nam, qua đó nêu lên bản chất của luật tục một số dân tộc Tây Nguyên.v.v… Cuốn "Luật tục với đồi sống" của tác giả Phan Đăng Nhật đã luận giải luật 13 tục của các dân tộc Việt Nam và giới thiệu, minh chứng nội dung luật tục Jrai trên một số lĩnh vực liên quan của đời sống xã hội [30]. Cuốn "Tìm hiểu luật tục các tộc người ở Việt Nam" của tác giả Ngô Đức Thịnh gồm 11 chương đã khảo sát các khía cạnh khác nhau của luật tục (như góc độ tiếp cận, bản chất, hình thức phát triển của luật tục…và giới thiệu luật tục của một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam [49]. Cuốn sách "Văn hóa chính trị và tộc người" của tác giả Toh Goda (Chủ biên) là tập hợp những bài viết mới của các nhà nghiên cứu Nhật Bản, Philippines được đúc kết qua thời gian theo dõi và tiếp cận trực tiếp đời sống sinh hoạt của một số tộc người nhỏ ở Philipines, Indonexia, Malayxia và Đài Loan. Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu và mô tả nhiều khía cạnh của nội dung văn hóa chính trị của các tộc người này [46]. Ngoài ra có nhiều bài viết về luật tục của các dân tộc đăng trên tạp chí nghiên cứu khoa học, nhưng chủ yếu các tác giả mới nêu những khái niệm cơ bản, giới thiệu nội dung, giá trị cơ bản của luật tục và yêu cầu bảo vệ phát triển luật tục, ít có công trình khai thác các khía cạnh cụ thể của luật tục để đề xuất giải pháp kết hợp với pháp luật để thực hiện các quy định của pháp luật. 1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu về luật tục của người Thái Nghiên cứu, giới thiệu, sưu tầm luật tục của người Thái ở Việt Nam đã được các nhà khoa học khá quan tâm. Nhiều học giả trong nước thời gian gần đây đã nghiên cứu tích cực, đặc biệt là việc tập hợp luật tục, giới thiệu đặc điểm, ưu, khuyết điểm của luật tục, và gợi mở một số nét cơ bản về vận dụng. Một số công trình nổi bật đó là: Cuốn sách “Luật tục và phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay" [56], tập hợp nhiều bài viết của nhiều tác giả nghiên cứu về vận dụng luật tục, cụ thể như: “Luật tục và chiến lược phát triển nông thôn ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy Quí; “Vai trò của luật tục vùng cao trong công tác giao đất khoán rừng và quản lý tài nguyên thiên nhiên”, của tác giả Hoàng Xuân Tý; “Vai trò của phong tục tập quán và việc kế thừa phong tục tập quán trong xây dựng pháp luật”; “Luật tục và vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên: những gợi ý nhằm hoà hợp luật thành văn và luật tục ở Châu Á”, của tác giả John 14 Ambler; “Luật truyền thống của người Thái: Khái quát chung về luật hiít khoòng ở Lào” của tác giả Oliver Raendchen, tại đây, tác giả đã dẫn chứng về luật tục truyền thống, đó là luật hiit khoòng hiện đang có hiệu lực ở các bộ tộc người Lào, Thái Phuan, Thái Lue, Thái Yuan, Thái Dam. Một số bài viết về luật tục người Thái, điển hình như: “Luật tục Thái với việc bảo vệ môi trường” của tác giả Cầm Trọng; “Phong tục trong hôn nhân và gia đình của người Thái Mường Tấc (Phù Yên - Sơn La)” của tác giả Hoàng Lương. Tác giả cho rằng, đây là hội thảo khoa học lớn nhất bàn về vận dụng luật tục vào phát triển nông thôn ở Việt Nam. Cuốn sách là kỷ yếu của hội thảo lớn, nghiên cứu hệ thống luật tục của nhiều dân tộc khác nhau trong cả nước, do đó luật tục người Thái vẫn chưa được nghiên cứu theo chiều sâu, nhất là nghiên cứu những giá trị của luật tục người Thái và sự vận dụng những giá trị đó trong thực tiễn đời sống thì chưa có công trình nào. Nhóm tác giả Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng có cuốn “Luật tục Thái ở Việt Nam” [50]. Công trình được trình bày bằng hai ngôn ngữ: chữ Thái và bản dịch tiếng Việt. Nội dung chủ yếu của cuốn sách trình bày khái quát một số khái niệm về luật tục, luật tục người Thái; những nội dung cơ bản của luật tục người Thái Đen ở Thuận Châu, Sơn La và một số nội dung luật tục người Thái ở Tây Bắc do đồng tác giả Cầm Trọng sưu tầm. Cuốn “Tư liệu về Lịch sử và xã hội dân tộc Thái” của nhóm tác giả Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng, Khà Văn Tiến, Tòng Kim Ân [65]. Công trình tập hợp và giới thiệu các nội dung chủ yếu sau: Truyện kể bản mường; Lai lịch dòng họ Hà Công; Lệ mường; Luật mường; Tục lệ người Thái Đen ở Thuận Châu - Sơn La. Cuốn “Tục ngữ Thái giải nghĩa” của tác giả Quán Vi Miên [26], tác giả đã sưu tầm và giới thiệu một số tục ngữ của người Thái, được thực hiện dưới hai ngôn ngữ: Phiên âm tiếng Thái (La Tinh) và dịch nghĩa tiếng Việt, gồm giới thiệu những nội dung tác giả sưu tầm được ở tỉnh Nghệ An. Cuốn sách có tiêu đề “Tìm hiểu luật tục các dân tộc ở Việt Nam” của tác giả Ngô Đức Thịnh [50] . Trong đó có phần giới thiệu luật tục người Thái, tác giả đã nêu khái quát vai trò của luật tục trong phát triển nông thôn Việt Nam. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan