TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NIÊN KHÓA 2016 – 2017
ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ
CHO TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
Lớp
: D13NV02
Khoá
: 2013-2017
Hệ
: Chính quy
---o0o--Bình Dương, 5 /2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NIÊN KHOÁ: 2013 - 2017
ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ
CHO TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
Ngƣời hƣớng dẫn : Th.S NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN THỊ HỒNG VÂN
Lớp
: D13NV02
Khóa
: 2013 - 2017
Hệ
: Chính quy
---o0o--Bình Dương, 5 /2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu
trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong các công trình khác.
Sinh viên
Nguyễn Thị Hồng vân
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận này, chúng tôi đã
nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của Quý thầy cô. Với lòng kính trọng
và biết ơn sâu sắc tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn:
Tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc tới cô giáo Nguyễn Thị Thanh Xuân,
người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu khoa học
và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới giáo viên phản biện cùng các
thầy cô giáo trong hội đồng và các thầy giáo, cô giáo khoa Ngữ văn trường Đại học
Thủ Dầu Một đã ân cần dạy bảo cho tôi trong suốt những năm học vừa qua. Qua
đây tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã quan tâm động viên, khích lệ,
giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Thủ Dầu Một, tháng 5 năm 2017
Nguyễn Thị Hồng Vân
7
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ...................................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .......................................................................................................... 2
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu: ............................................................................. 6
4. Phạm vi nghiên cứu: ................................................................................................ 7
5. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................................ 7
6. Cấu trúc khóa luận: .................................................................................................. 8
NỘI DUNG ..................................................................................................................... 9
Chƣơng 1
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ TRONG BỐI CẢNH ......................... 9
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI .............................................................. 9
1.1. Khái lược về truyện ngắn Việt Nam đương đại ................................................. 9
1.2. Đôi nét về tiểu sử và quá trình sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ ................. 12
1.2.1. Tiểu sử .................................................................................................... 12
1.2.2. Quá trình sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ ......................................... 13
1.3. Truyện ngắn và những thành công cơ bản của Nguyễn Thị Thu Huệ ............. 16
Chƣơng 2
ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ CHO TRUYỆN NGẮN VIỆT
NAM ĐƢƠNG ĐẠI TRÊN CÁC PHƢƠNG DIỆN NỘI DUNG............................. 22
2.1. Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ với đề tài tình yêu, gia đình và hiện thực
đời sống thành thị thời đương đại............................................................................ 22
2.1.1. Quan tâm những vấn đề của tình yêu, gia đình thời đương đại ............. 23
2.1.2. Phản ánh hiện thực đời sống thành thị thời kinh tế thị trường ............... 41
2.2. Phơi bày những mặt trái của đạo đức xã hội, phát hiện và biểu dương
những ước mơ, khát vọng tốt đẹp của con người .................................................... 49
2.2.1. Cảm hứng phơi bày những mặt trái của đạo đức xã hội ......................... 49
2.2.2. Phát hiện và biểu dương những ước mơ, khát vọng tốt đẹp của con
người ................................................................................................................. 52
2.3. Những nét mới trong quan niệm về con người của truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ ................................................................................................................... 55
Chƣơng 3
ĐÓNG GÓP CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ CHOTRUYỆN NGẮN VIỆT
NAM ĐƢƠNG ĐẠI TRÊN MỘT SỐ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT............... 59
3.1. Nghệ thuật xây dựng truyện và tạo tình huống truyện .................................... 59
3.1.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện ............................................................. 59
3.1.2. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện ................................................. 65
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .......................................................................... 69
3.2.1. Xây dựng nhân vật qua khắc họa ngoại hình, hành động....................... 70
3.2.2. Xây dựng nhân vật qua khắc họa tâm lí nhân vật................................... 73
3.3. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu.................................................... 76
3.3.1. Ngôn ngữ ................................................................................................ 76
3.3.2. Giọng điệu .............................................................................................. 81
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 90
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sau đại thắng Mùa Xuân năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, xã hội
Việt Nam đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ. Đặc biệt từ sau Đại hội Đảng
lần thứ VI năm 1986, cả nước hướng tới mục tiêu đổi mới toàn diện. Cùng với
nhiều lĩnh vực khác, văn học Việt Nam cũng có những chuyển biến tích cực. Văn
học đã đạt được những thành công trên nhiều thể loại trong đó có truyện ngắn. Tiếp
bước của thế hệ đi trước kì cựu như: Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn
Kháng, Nguyễn Huy Thiệp… là đội ngũ những nhà văn trẻ với quyết tâm, nhiệt
huyết cống hiến cho nền văn học nước nhà. Sự xuất hiện của họ đã mang đến một
luồng gió mới làm cho nền văn học tràn trề nhựa sống, đặc biệt là sự bứt phá của
đội ngũ các nhà văn nữ với những tên tuổi đầy tài năng như: Phạm Thị Hoài, Phan
Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Võ Thị Xuân Hà, Y Ban, Nguyễn Ngọc Tư, … Cùng
góp phần vào công cuộc đổi mới này là nữ nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ với những
tập truyện ngắn đặc sắc và cách viết mới lạ, chị đã gửi đến người đọc những thông
điệp ý nghĩa về cuộc sống và con người trong xã hội hiện đại, góp phần đổi mới nền
văn xuôi đương đại.
1.2. Nguyễn Thị Thu Huệ là một gương mặt khá tiêu biểu của văn xuôi nữ
Việt Nam đương đại. Bắt tay vào sáng tác từ những truyện ngắn đầu tiên Nguyễn
Thị Thu Huệ đã thu hút được độc giả và tạo được cho mình một chỗ đứng vững
chắc trên văn đàn. Đối với các tác phẩm của mình, chị luôn đặt niềm tin vào từng
câu chuyện, từng nhân vật, từng nỗi trăn trở của riêng mình đối với cuộc sống.
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có cách nhìn mới mẻ về những vấn đề của hiện
thực, đời sống tinh thần và đời sống bản năng con người, những điều mà ở thời kì
trước văn học vẫn còn rất dè dặt. Nhà văn phản ánh các vấn đề nóng hổi, gay gắt
của xã hội hiện đại; khai thác các chiều sâu, những mặt trái, những góc khuất “thế
giới bên trong” của con người. Để làm được điều này, nhà văn phải là người rất
nhạy cảm với thực tế cuộc sống, phải có cái nhìn và quan niệm mới mẻ về hiện thực
1
đời sống và con người, sự táo bạo trong cách nghĩ, cách viết, cách xử lí vấn đề. Đó
là những yếu tố quyết định làm nên sự thành công của Nguyễn Thị Thu Huệ.
1.3. Nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ từ trước đến nay đã có
một số công trình, các chuyên luận, các bài báo, một số đề tài luận văn thạc sĩ,
nhưng đi sâu tìm hiểu về những đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ thì
vẫn còn những khía cạnh chưa khai thác hết. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài Đóng góp
của Nguyễn Thị Thu Huệ cho truyện ngắn Việt Nam đương đại làm đề tài nghiên
cứu nhằm muốn góp phần khẳng định tài năng của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và
khẳng định những đóng góp của chị trong đời sống văn học đương đại Việt Nam.
2. Lịch sử vấn đề
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ mang màu sắc mới lạ nhưng không xa rời
đời sống, thể hiện trong cách nghĩ, cách viết táo bạo và sự dạn dĩ, sắc sảo của chị.
Qua hai mươi năm cầm bút, đến nay chị đã là tác giả của bảy tập truyện ngắn đặc
sắc: Cát đợi (1992), Hậu thiên đường (1994), Phù thủy (1997), 21 truyện ngắn
(2001), Nào ta cùng lãng quên (2003), 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (2010)
và gần đây nhất là Thành phố đi vắng (2012). Chị cũng là nữ nhà văn đạt được
nhiều thành công và nhận rất nhiều giải thưởng có uy tín: đạt giải Nhì cuộc thi
truyện ngắn của Hội văn học nghệ thuật Hà Nội (1986), giải Nhì cuộc thi truyện
ngắn Tác phẩm tuổi xanh báo Tiền phong (1993), giải Nhất cuộc thi Truyện ngắn
Nxb Hà Nội (1994), giải Nhất cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ Quân đội
tổ chức và nhận tặng thưởng của Hội nhà văn với tác phẩm Hậu thiên đường. Năm
2012, chị nhận được giải thưởng của Hội Nhà văn với tập truyện ngắn Thành phố đi
vắng.
Đến nay đã có nhiều ý kiến đánh giá, thẩm định văn chương Nguyễn Thị Thu
Huệ với sự tiếp cận bản chất văn học một cách khoa học, nghiêm túc, khách quan.
Đây quả là những tư liệu đáng quý, bổ ích để chúng tôi khám phá sâu sắc hơn về tác
phẩm của chị.
Nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu trong Luận chiến văn chương cho rằng:
“Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ có một chất gì đó vỡ ra ào ạt, khuấy đảo sôi sục
2
cảm xúc trong người đọc” [28,24]. Còn tác giả Hồ Phương thì nhận xét: “Trong các
tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết sức sắc sảo. Đọc Thu Huệ tôi ngạc nhiên lắm, sao
còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi đến thế. Nó như mụ phù thủy lão luyện. Nó đi guốc
trong bụng mình. Ruột gan mình có gì hình như nó cũng biết cả” [33]. Kim Dung
thì cho rằng: “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai mặt- vừa “bụi bặm”
trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, văn của chị vừa táo bạo vừa thanh khiết. Một
cái gì đó thuần khiết. Một cái gì đó thuần nhất không đơn giản thậm chí có khi còn
đối chọi nhau trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ” [38,325].
Trong bài viết Báo cáo giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 2012 nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều đã ghi nhận: “Thành phố đi vắng đã thực sự làm đầy thêm hồ
sơ sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và đặt chị vào vị trí
những nhà văn Việt Nam đương đại viết truyện ngắn tiêu biểu” [50]. Mộc Nguyên
trong bài viết Thành phố đi vắng- tập truyện Nguyễn Thị Thu Huệ đã nhận xét rằng:
“Với giọng điệu vô âm sắc, tiết chế tối đa cảm xúc, mỗi truyện ngắn của Nguyễn
Thị Thu Huệ hiện diện như một bản tường thuật về đời sống. Giống một nhà quay
phim, nhà văn hướng ống kính vào những mảng đời sống khác nhau, cặm cụi, tỉ mỉ
ghi hình. Không tham dự, không phán quyết, không dự đoán, mỗi truyện ngắn đưa
độc giả tiếp cận gần nhất với đời sống đô thị đương đại cùng những vấn đề của nó”
[49].
Trong Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ (Tạp chí Văn nghệ Quân
đội, số 2, 1994) Bùi Việt Thắng đã nhận xét: “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn rộng
rãi người đọc trước hết vì giàu chất đời” và “những truyện hay của Thu Huệ là nhờ
người viết “bứt” lên được trên cái có thực đến tận cùng, để tìm tới cái gì đó cao hơn
của con người, đó là đời sống tâm hồn vốn rất không rõ ràng mạch lạc, vốn bí ẩn
khó giải thích rạch ròi bằng lí trí” [38,322]. Ông cho rằng, “chao chát và dịu dàng,
thơ ngây và từng trải, đớn đau và tin tưởng cứ trộn lẫn trong văn Thu Huệ tạo nên
tính đa cực của ngòi bút nữ có duyên trong niềm vui và nỗi buồn bất tận. Đời sống
hiện lên trên từng trang sách của chị bề bộn, ngổn ngang, ấy vậy mà ngẫm kĩ nó đâu
vào đấy. Nhà văn viết về con người trong khối mâu thuẫn vừa cố kết dính với gia
3
đình như “một hang ổ cuối cùng, lại bị nhiều ngoại lực dằng xé, lôi kéo” [38,324].
Ngoài ra ông còn nhận xét tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ theo nhiều phương
diện khác nhau của đề tài: “Thu Huệ quan tâm đến gia đình trong xã hội hiện đại
đang tồn tại và tan rã như thế nào, bởi nguyên nhân nào”; tình huống “tuy eo hẹp
nhưng đặc sắc”; lối kể chuyện “hồn nhiên, bất ngờ và khó đoán định”; ngôn ngữ
“lúc bạo liệt, lúc thật thà, lúc thâm trầm triết lý, có lúc đỏng đảnh, lại có lúc dịu
dàng đến bất ngờ” [38,326]
Tác giả Triệu Thị Hiệp với Luận văn Thạc sĩ Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ, trường Đại học Thái Nguyên (2014) đã khái quát được những đặc
điểm về truyện ngắn trong các tác phẩm của Nguyễn Thị Thu Huệ và đồng thời cho
thấy được chị là một con người luôn “thật”: “Nguyễn Thị Thu Huệ không lẩn tránh
những vấn đề gai góc khi phải mổ xẻ phân tích tâm lý con người cùng thời với
mình, những thân phận cuộc đời với bao tâm trạng vui buồn, yêu ghét, giận hơn.
Phát hiện và miêu tả đời sống đương đại, Thu Huệ đã chỉ ra một khúc quanh ghê
gớm đã xuất hiện, nó đang xô đẩy bằng một sức mạnh ma mị đối với con ngườivốn là một cá thể sinh động và riêng biệt- nay có nguy cơ rơi vào cách sống xa lạ
của đám đông, nhiễm tâm lý đám đông, dồn tụ cả một khối lớn những người là
người nhưng lại vô cảm ngay chính với đồng loại” [15,96].
Với đề tài Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn viết về đề
tài tình yêu của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Ngô Thị
Kim Nguyên đã nhận xét sâu sắc về đề tài và cách sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của
Nguyễn Thị Thu Huệ: “Truyện ngắn Thu Huệ gợi mở nhiều nghịch cảnh tình yêu
khó giải thích, khó nói bằng lời. Những điều khó giải thích, khó nói ấy được Thu
Huệ bày trên trang văn bằng ngôn từ giàu cảm xúc và niềm chân thành ở người viết
khiến tác phẩm đậm đà hơi hướng nhân sinh” [31,38]. Trong Luận văn Thạc sĩ Thế
giới nhân vật nữ trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ của Nguyễn Thị Thủy
trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Nguyễn Thị Thủy đã nhận xét về giọng
điệu kể chuyện của Nguyễn Thị Thu Huệ như sau: “Trên các trang truyện của mình,
Thu Huệ đã tỏ ra là một cây bút linh hoạt trong giọng điệu kể truyện, khi thì chao
4
chát, táo tợn, lúc lại thật thà, thâm trầm triết lí. Có thể thấy một giọng điệu kể
dường như không đồng nhất, không đơn giản thậm chí đối chọi nhau trong giọng
điệu của Thu Huệ” [41,69]. Phạm Thị Vân trong Luận văn Nhân vật và cốt truyện
trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, trường Đại học sư phạm Hà Nội đã nêu
cảm nhận của mình về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Thị Thu Huệ: “Thu Huệ
chỉ chú ý hình ảnh nhân vật trong một thời điểm nhất định, song là thời điểm quyết
định trong cuộc sống của họ, vì thế ý nghĩ phản ánh của truyện được rõ ràng. Tính
cách, tâm lí nhân vật khá nhất quán, số phận nhân vật thường đặt trong mối quan hệ
nhân quả, có thể đoán biết trước” [43,62].
Ngoài ra, về truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ đã có một số đề tài nghiên
cứu như:
Luận văn Thạc sĩ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu
Huệ của Tống Thị Minh, trường Đại học Quốc gia Hà Nội (2014).
Luận văn Thạc sĩ Người phụ nữ hiện đại qua cái nhìn của một số nhà văn nữ
của Trần Thúy An, Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh(2007).
Luận văn Thạc sĩ Nhân vật nữ trong truyện ngắn của các nhà văn nữ đương
đại Việt Nam (qua sáng tác của Dạ Ngân, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn
Ngọc Tư) của Bùi Thị Duyên, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn (2014).
Luận văn Thạc sĩ Nhân vật nữ trong truyện ngắn của các nhà văn nữ đương
đại Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư của tác giả Nguyễn Thị
Nhuận, trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2012),…
Các luận văn đã đi sâu vào khai thác và làm nổi bật thành công từng phương
diện cụ thể về truyện ngắn của nữ tác giả. Những bài viết, công trình nghiên cứu
cùng những ý kiến, nhận định đánh giá của các tác giả trên đây sẽ là những tư liệu
tham khảo quý giá và bổ ích giúp chúng tôi tìm hiểu về những thành tựu mà
Nguyễn Thị Thu Huệ đã đóng góp cho văn xuôi Việt Nam đương đại.
Nguyễn Minh Châu đã từng cho rằng “văn học và đời sống là hai vòng tròn
đồng tâm mà tâm điểm là con người”, Nguyễn Thị Thu Huệ cũng vậy chị cũng trăn
trở cho những tác phẩm của mình. Đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ cảm
5
nhận cuộc sống không đơn giản chỉ là nhìn nhận từ trên câu chữ mà còn chứa đựng
biết bao nỗi niềm ẩn đằng sau đó, chứa đựng bao nhiêu khó nhọc, vui, buồn của một
con người luôn nhạy cảm với đời với người. Chị từng phát biểu: “Tôi luôn thấy
những niềm vui, sự hạnh phúc của con người không dài lâu. Đã hiếm lại còn ngắn
và mong manh bởi những biến cố, bất trắc rình rập, chờ đón ngoài cửa, chờ thời cơ
đổ ập xuống đầu con người. Cuộc sống là vô giá và kỳ diệu vô cùng. Nhưng để có
một cuộc sống với những hạnh phúc con con, giản dị thật khó nếu con người không
mỗi ngày ném những que diêm vào ngọn lửa hạnh phúc để nó luôn cháy mãi”[52].
Các đề tài mà chị đề cập đến thật phong phú và gần gũi với cuộc sống thường ngày
nhưng cách tiếp cận đến sự việc thì không giống một ai cả. Với phong cách độc đáo,
cách dùng từ ngữ và xây dựng bối cảnh đặc trưng cho nhân vật của mình đã tạo nên
một sự thu hút rất riêng trong các sáng tác Nguyễn Thị Thu Huệ.
Trong bài nghiên cứu này, người viết muốn nghiên cứu về Đóng góp của
Nguyễn Thị Thu Huệ cho truyện ngắn Việt Nam đương đại để thêm lần nữa khẳng
định tài năng độc đáo của nữ nhà văn trong những tác phẩm của chị. Đồng thời
khẳng định những giá trị mà Nguyễn Thị Thu Huệ đã đóng góp vào nền văn học
đương đại Việt Nam.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu:
3.1.Mục đích:
Đề tài tập trung nghiên cứu hệ thống về những đóng góp của truyện ngắn
Nguyễn Thị Thu Huệ trên một số phương diện nội dung và nghệ thuật. Từ đó giúp
chúng tôi cảm thụ, khám phá truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ một cách sâu
sắc, thấy được giá trị nhân văn và chiều sâu tư tưởng mà tác giả muốn gửi gắm
thông qua tác phẩm của mình. Đồng thời giúp cho người đọc có cái nhìn toàn diện
hơn về những giá trị và đóng góp riêng qua truyện ngắn của nhà văn, thấy được
phong cách riêng trong cách thể hiện đề tài, chủ đề cũng như cách xây dựng hình
tượng nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Qua việc nghiên cứu
cũng góp phần khẳng định tài năng của Nguyễn Thị Thu Huệ và những đóng góp
của chị cho tiến trình văn xuôi Việt Nam đương đại.
6
3.2.Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ cho truyện ngắn Việt Nam đương đại.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn khảo sát trên các tập truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Thị Thu Huệ:
+ Cát đợi (Nhà xuất bản Hà Nội, 1992)
+ Hậu Thiên Đường (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1993)
+ Nào, ta cùng lãng quên (Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2003)
+ 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ (Nhà xuất bản Văn học, 2006)
+ Thành phố đi vắng (Nhà xuất bản Trẻ, 2012)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện khóa luận này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp tiểu sử: Tìm hiểu tiểu sử của nhà văn, trình bày quá trình sáng
tác, những ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến tâm hồn nghệ sĩ của nữ nhà
văn Nguyễn Thị Thu Huệ.
- Phương pháp thi pháp học: Dựa vào các đặc điểm thi pháp để triển khai và
phân tích các khái niệm liên quan đến thể loại truyện ngắn, truyện ngắn đương đại,
cốt truyện, nhân vật, tình huống, ngôn ngữ, giọng điệu,…
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Qua phân tích để làm rõ vấn đề nhằm khẳng
định những đóng góp nổi bật về nội dung và nghệ thuật, những điểm đổi mới của
nhà văn trên con đường sáng tác truyện ngắn.
- Phương pháp thống kê phân loại: Thống kê phân loại tác phẩm có nội dung,
nghệ thuật phù hợp với từng vấn đề cần khai thác của cấu trúc khóa luận.
- Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Đây là phương pháp giúp người viết đi sâu
tìm hiểu những đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trên phương diện
nội dung và nghệ thuật.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: nhằm so sánh những điểm khác nhau: quan
niệm lí thuyết sự đổi mới trong khuynh hướng sáng tác của thời kì văn học đương
7
đại và các thời kì trước, trong phong cách sáng tác của nhà văn Nguyễn Thị Thu
Huệ và các nhà văn khác, tính cách của nhân vật trong tác phẩm này và nhân vật
khác trong các tác phẩm với nhau.
6. Cấu trúc khóa luận:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của khóa luận được triển
khai trong ba chương như sau:
Chương 1: Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ trong bối cảnh của truyện ngắn Việt
Nam đương đại
Chương 2: Đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ cho truyện ngắn Việt
Nam đương đại trên các phương diện nội dung
Chương 3: Đóng góp của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ cho truyện ngắn Việt
Nam đương đại trên một số phương diện nghệ thuật
8
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN THỊ THU HUỆ TRONG BỐI CẢNH
TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Khái lược về truyện ngắn Việt Nam đương đại
Đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước
thống nhất, cả dân tộc bước vào thời kì xây dựng lại đất nước và đi lên chủ nghĩa xã
hội, đất nước ta chuyển sang một thời kì phát triển mới. Đại hội lần thứ VI của
Đảng (1986) đã xác định đường lối đổi mới toàn diện, mở ra một thời kì mới cho
đất nước phát triển thoát khỏi khủng hoảng và từng bước nâng cao đời sống nhân
dân. Không chỉ là đổi mới đất nước trong đời sống xã hội, kinh tế mà còn đổi mới
cả đời sống văn học nghệ thuật, mở ra chặng đường phát triển sôi nổi của văn học
Việt Nam trên tinh thần “cởi trói”, “đổi mới tư duy” và “nhìn thẳng vào sự thật”
theo lời kêu gọi của Chủ tịch nước Phạm Văn Đồng và Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh.
Văn học Việt Nam trong ba mươi năm, từ 1945 đến 1975 đã làm tròn sứ
mệnh cao cả phục vụ Cách mạng, cổ vũ chiến đấu, tất cả hướng về cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc. Để phù hợp với những tiêu chí trên, văn học phải mang khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, đó là hình ảnh người lính kiên cường, hiên
ngang trước mũi súng của quân thù, là vẻ đẹp bất diệt đầy hăng hái của người lính
hành quân hay hình ảnh hậu phương cùng nhau tăng gia sản xuất,… Sau 1975, đất
nước đã thống nhất, con người quay về với cuộc sống đời thường, cảm hứng sử thi
không còn phù hợp nữa mà nó đặt ra yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ trong đời sống
tư tưởng, quan niệm nghệ thuật và con người cũng như là sự đổi mới về thi pháp thể
loại.
Trong khoảng thời gian mười năm đầu sau đổi mới 1975, văn học vẫn còn
mang hơi hướng sử thi nhưng các nhà văn đã hướng ngòi bút nhiều hơn vào trạng
thái tinh thần của xã hội. Đó có thể là sự vui mừng vì sự trở về của người thân sau
9
chiến tranh nhưng cũng có thể nỗi buồn nghiệt ngã cho số phận người lính. Các nhà
văn đã cố gắng loại bỏ đi cái nhìn sử thi của thời kì trước để dũng cảm đối mặt,
nhìn thẳng vào sự thật, không e dè, né tránh, phản ánh cuộc sống một cách chân thật
nhất. Trong thời kì này, đề tài đời sống thường ngày được đưa vào trang văn nhiều
hơn cả và được mọi người đặt cho cái tên mĩ miều “văn học thế sự”. Từ đó mà các
tác phẩm tiểu thuyết, truyện ngắn bắt đầu ra đời và phát triển như Người Đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành, Phiên chợ Giát, Cỏ lau,… của Nguyễn Minh Châu, Mảnh
đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh,… đã phản ánh chân thực cuộc sống với những ngổn ngang bề bộn và “muôn
mặt” của cuộc sống đời thường.
Từ năm 1986 trở đi, văn học Việt Nam đương đại có sự đổi mới ngày càng sâu
sắc và toàn diện vào khám phá đời tư của cuộc sống con người. Trong bài viết
Trong tấm gương của thể loại nhỏ (nhìn lại truyện ngắn 1986), nhà nghiên cứu Bùi
Việt Thắng có nhận xét: “Quả thực nếu 1985 là năm được mùa của tiểu thuyết, thì
1986, truyện ngắn đã “tả xông hữu đột”, trườn tới mọi nơi trong cuộc sống để phát
hiện. Hàng trăm truyện ngắn trong một năm, những mảnh gương nhỏ phản chiếu sự
phong phú của cuộc sống. Và hình ảnh đầy đặn ấy cũng ngang với hình ảnh của một
tấm gương lớn mà thể loại “nhỏ” đã tạo ra trong việc phản ánh đời sống trong nhiều
mặt của nó” [38,131]. Trong thời kì này, thể loại phát triển mạnh mẽ và đạt thành
tựu nhiều nhất là truyện ngắn. Người đọc thích tìm đến với truyện ngắn bởi đề tài
của nó gần gũi với đời sống hàng ngày, lại ngắn gọn, súc tích nên người đọc dễ
dàng tiếp nhận thông tin hơn. hiện thực được mở rộng biên độ và hầu như không có
giới hạn. Nó đi sâu vào khai thác mọi vấn đề của cuộc sống thường nhật, con người
với những khó khăn, chênh vênh của cuộc sống kinh tế thị trường, với sự xuống cấp
của đạo đức, là những khát vọng chính đáng của cá nhân trong gia đình và xã hội
mà nhất là người phụ nữ. Ngoài ra các tác giả còn khai thác con người trong những
vấn đề về tâm linh, giấc mơ, tiềm thức và vô thức… Mọi cảm xúc của con người
được nhà văn phát huy sáng tạo, đặt trong sự tìm tòi ở tư tưởng, cách nhìn và cách
biểu đạt riêng của từng cá nhân tác giả mà có thể để lại ấn tượng riêng trong lòng
10
độc giả yêu văn chương. Chưa có thể loại nào lại có thể hoàn thành sứ mệnh phản
ánh chân thực, tỉ mỉ, sâu sắc và tinh tế các vấn đề của cuộc sống đời thường một
cách trọn vẹn trong thời kì đương đại như truyện ngắn. Mỗi câu chuyện là mỗi kiếp
người, mỗi hoàn cảnh, mỗi thân phận,…khác nhau. Có thể nói, với dung lượng
thích hợp, đó là một điểm nổi bật của truyện ngắn Việt Nam sau 1986.
Không phải tự nhiên mà người ta nói đây là thời kì rực rỡ nhất của truyện
ngắn, mà là vì thời kì này truyện ngắn đã đánh dấu được bước đột phá của nó.
Không chỉ tăng nhanh về đội ngũ nhà văn trẻ mà con cả số lượng và chất lượng tác
phẩm, nó mở ra một mảnh đất màu mỡ để các nhà văn vô tư tìm tòi và thể hiện cái
mới lạ trên cả mặt nội dung và hình thức. Đó là sự khám phá cuộc sống bằng chiều
sâu tư tưởng, triết lí, sự hy vọng, nỗi cô đơn, hoài niệm, sự ngang trái,… trong cuộc
đời của mỗi cá nhân con người trong xã hội.
Về thành tựu, đầu tiên phải nói đến sự thay đổi trong nhận thức, tư duy. Tư
duy hiện thực đang dần hình thành trong nền văn học đổi mới, không còn là cảm
hứng sử thi - lãng mạn nữa mà văn học đến gần hơn với hiện thực đời sống con
người. Trước 1975, nhà văn khi xây dựng nhân vật của mình phải theo sát nhiệm vụ
chính trị, lấy văn học làm vũ khí chiến đấu, con người cá nhân bị hòa tan vào trong
cái ta chung, con người hướng tới cách mạng, công đồng. Sau 1975, con người
không còn bị ràng buộc bởi chính trị, họ được khai thác với những chiều sâu trong
nội tâm, những vấn đề nhỏ nhặt, đời thường. Quan niệm về con người có vẻ nghiệt
ngã và bi quan hơn thời đại trước. Sau 1975, mà nhất là sau văn học đổi mới 1986,
văn học Việt nam đã đề cập đến những vấn đề mà trước kia chưa bao giờ đề cập đến
là: nhu cầu tình dục, bản năng, tiềm thức và vô thức. Không gian nghệ thuật sử
dụng trong tác phẩm cũng được các tác giả khai thác trong khoảng không gian đời
tư, nhỏ hẹp, không gian sinh hoạt đời thường,…đó là khoảng không gian cụ thể bắt
buộc con người phải bộc lộ bản chất của mình đến tận cùng, không thể lảng tránh
hay giấu giếm.
Hình thức thể hiện cũng là một điểm đáng chú ý của truyện ngắn Việt Nam
sau 1986. Nó mở ra nhiều hướng tìm tòi và phát triển mới của hình thức truyện
11
ngắn trong văn học đương đại như: kết cấu lắp ghép, kết cấu liên hoàn, truyện ngắn
mini, cốt truyện kì ảo, cốt truyện tâm lí,… Những tác giả truyện ngắn Việt Nam đi
đầu trong các hướng đi mới này có thể kể như: Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm,
Nguyễn Minh Dậu và Phan Thị Vàng Anh, Hồ Anh Thái, Y Ban, Nguyễn Thị Thu
Huệ,…
Qua đó, có thể nói, truyện ngắn là thể loại nổi bật và có vị trí quan trọng
trong văn xuôi Việt Nam, cùng hòa mình vào dòng chảy của đời sống văn học
đương đại.
1.2. Đôi nét về tiểu sử và quá trình sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ
1.2.1. Tiểu sử
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ngày 12 tháng 8 năm 1966 tại thành phố
Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, quê ở Thạnh Phú, Bến Tre. Hiện nay chị đang sinh sống
tại Hà Nội và làm Giám đốc Hãng phim truyền hình Việt Nam.
Nguyễn Thị Thu Huệ sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn nghệ sĩ,
bố là nhà báo, mẹ là nhà văn ưu tú Nguyễn Thị Ngọc Tú. Cuộc đời chị cũng gặp
nhiều truân chuyên, bố mất sớm khi chị mới mới mười bảy tuổi, một mình mẹ nuôi
nấng chị nên người. Huệ là tên của nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết đầu tay
Huệ ra đời vào năm 1946, “đứa con tinh thần đầu lòng” của mẹ cô mang theo bao
hoài bão, khát vọng và niềm tin, bây giờ gửi cả vào Nguyễn Thị Thu Huệ. Nhà văn
Nguyễn Thị Ngọc Tú cũng sớm nhận ra Nguyễn Thị Thu Huệ có năng khiếu văn
chương khi nghe con kể về những câu chuyện nhặt nhạnh nơi đầu xóm hay đi học,
đi chơi,… bà chỉ nói ngắn gọn với Nguyễn Thị Thu Huệ: “viết đi”. Không phụ công
mong mỏi của mẹ, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sớm khẳng định tài năng của mình trên
con đường sự nghiệp văn chương.
Ngay từ khi còn nhỏ, Nguyễn Thị Thu Huệ đã sớm bộc lộ năng khiếu văn
chương. Chị đã từng tâm sự; “Tôi viết từ nhỏ, theo cái kiểu viết 1-2 trang rồi quẳng
đi. Mười sáu tuổi tôi đã có truyện in ở báo Người Hà Nội. Thực ra tôi thích học họa.
Tôi đã học vẽ từ nhỏ để sau này thi vào trường Đại học Mỹ thuật, nhưng bố tôi bảo
con gái theo họa thì khổ. Tôi nộp đơn thi hai trường Đại học Mỹ thuật và Tổng hợp
12
Văn, rồi chọn thi Tổng hợp Văn. Lúc bùng lên viết là năm 1994-1995, khi cuộc thi
truyện ngắn tạp chí Văn nghệ Quân đội được tổ chức. Tôi được khuyến khích, thế là
cho ra đời Hậu thiên đường, Minu xinh đẹp,…” [53].
Không thể phủ nhận, Nguyễn Thị Thu Huệ đã thừa hưởng được sự sâu sắc
của cha và chất văn nữ tính từ mẹ, điều này đã ảnh hưởng to lớn đến việc hình thành
nên một tâm hồn đa sầu, đa cảm và tinh tế Nguyễn Thị Thu Huệ. Chị đến với văn
chương rất tình cờ, ngay cả đến bây giờ chị vẫn tâm sự không ngờ chị lại có duyên
với viết văn đến vậy. Chị rất hồn nhiên, không bao giờ có ước mơ trở thành người
nổi tiếng nhưng niềm say mê và tài năng đã đưa chị đến với nghiệp viết. Hai tác
phẩm đầu tay in trên báo Văn Nghệ là Mưa trái mùa và Mùa hoa sấu rụng đã khiến
văn đàn xôn xao một thời, tạo nên một tiếng vang lớn và để lại những ấn tượng khó
quên trong lòng người đọc.
Không chỉ giỏi về chuyên môn và công việc, nhan sắc đẹp mặn mà chị là một
trong số các nhà văn nữ được đánh giá là nữ nhà văn “tài - sắc vẹn toàn” của văn
học Việt Nam đương đại.
1.2.2. Quá trình sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ
Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong những cây bút nổi lên từ đầu thập niên 90
của thế kỉ XX. Chị trung thành với lối viết giản dị, đời thường nhưng không tầm
thường. Chị đem đến cho văn học một luồng gió mới, xóa đi suy nghĩ lối mòn trong
văn học, đem cái mới mẻ đó vào trong từng tác phẩm của mình. Nguyễn Thị Thu
Huệ là nhà văn nữ độc đáo và tài hoa, nữ tính và cũng rất mạnh mẽ, là cây bút
chuyên viết về truyện ngắn. Không cần phải đao to múa lớn hay gây ồn ào, xôn xao
dư luận nhưng tác phẩm truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ vẫn có những nét
hấp dẫn, đặc sắc riêng khiến người đọc không thể rời mắt được.
Nguyễn Thị Thu Huệ nhanh chóng xác định được vấn đề cần phải quan tâm
ngay trong thời đại đổi mới này là hiện thực cuộc sống con người, chị tâm sự: “Tôi
luôn bị ám ảnh về những dòng chảy đang xoay chuyển những thế hệ người Việt
theo hướng xấu đi, đang đi xuống. Sự thanh cao, phẩm chất đáng quý của người
Việt một là dần bé lại, hai là bị đè nén trước sự trần trụi và thô tục, sự suy cấp đạo
13
đức, bế tắc không lối thoát trong khi phải sống chứ không chết hay tìm ra một giải
pháp khác. Sự bất an, đời sống khó khăn, đơn điệu, những thói quen sinh hoạt văn
hóa cộng đồng ít dần làm người ta mất cảm xúc...” [51]. Chị luôn cố gắng đào sâu
vào từng ngõ ngách tăm tối nhất của cuộc sống tâm hồn con người, đem đến cho
con người những cảm xúc khó quên và chân thật.
Chị bắt đầu con đường sự nghiệp của mình bằng việc khi vừa tốt nghiệp
Khoa văn Tổng hợp, Nguyễn Thị Thu Huệ đã giấu mẹ đăng hai truyện ngắn Mưa
trái mùa và Mùa hoa sấu rụng trên báo Văn nghệ khiến độc giả yêu thích văn
chương phải trầm trồ, tán thưởng.
Bắt đầu quãng thời gian từ giữa những năm 90 , Nguyễn Thị Thu Huệ viết
nhiều hơn. Chị cho ra đời hàng loạt các tác phẩm: Hậu thiên đường, Cõi mê, Xin
hãy tin em, Nước mắt đàn ông, Cầu thang, Đôi giày đỏ,…viết về những vấn đề của
gia đình, tình yêu, phơi bày cái hiện thực đắng chát của cuộc sống đời thường. Chị
đã từng phát biểu: “Đời sống những năm tháng này đang thử thách sự kiên nhẫn,
lòng chung thủy, sức chịu đựng của mỗi cá nhân. Sự thay đổi tốt lên hay xấu đi của
xã hội không phải dễ nhận thấy như đời sống trong chiến tranh. Bom rơi đạn nổ,
người sống kẻ chết thật rõ ràng. Thời nay, sự thay đổi lan tỏa âm thầm, ngấm ngầm
bằng những câu chuyện có vẻ dửng dưng trên báo hay nơi chốn ta sống. Có vẻ như
ai cũng dần thích nghi với những thay đổi đó, chấp nhận, chịu đựng, và quen. Đấy
là một bi kịch” [46]. Không như vẻ bề ngoài lịch lãm sang trọng, ẩn sau những con
người kia là những nỗi cô đơn, những mối dày vò, những thương đau, mâu thuẫn
dằn xé: “Thực ra tôi luôn cảm thấy cuộc sống này đầy những rủi ro bất ngờ. Bao giờ
tôi cũng có cảm giác đôi khi là buồn, đôi khi là thất vọng và cũng lo lắng cho tương
lai bởi không có chỗ dựa nào khác”[52]. Chị nhìn đời bằng cái nhìn đa đoan, chiêm
nghiệm như thế nên với chị nỗi ám ảnh triền miên luôn ngự trị nên chị thấy mọi cái
chỉ tương đối thôi, không có gì toàn vẹn cả.
Thế rồi, con đường trở thành nhà văn của Nguyễn Thị Thu Huệ bị ngắt
quãng, là lúc mà chị lập gia đình và sinh con. Và sau đó chị tham gia sản xuất cho
một kênh truyền hình, công việc khá bận rộn nên chị ít sáng tác nghệ thuật. Thành
14
- Xem thêm -