Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đông dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa văn học việt nam 30 năm đầu thế...

Tài liệu đông dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa văn học việt nam 30 năm đầu thế kỷ xx

.PDF
109
507
75

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA VĂN HỌC ============ HOÀNG THỊ CƯƠNG LUẬN VĂN CAO HỌC ĐỀ TÀI : Đông Dương Tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Người hướng: PGS,TS. Trần Ngọc Vương Hà Nội – 01/2012 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ============ HOÀNG THỊ CƯƠNG Đông Dương Tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60 22 34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Trần Ngọc Vương Hà Nội – 09/2011 MỤC LỤC Phần 1 1. 2. 3. 4. 5. 6. Phần 2 Chương 1 1. 2. Chương 2 1. 2. Chương 3 1. 2. 3. Phần 3 Phần 4 Trang Mở đầu 1 Lý do chọn đề tài 1 Lịch sử vấn đề nghiên cứu 4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6 Nhiệm vụ nghiên cứu 6 Phương pháp nghiên cứu 7 Cấu trúc của luận văn 7 Nội dung 9 Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt 9 Nam 30 năm đầu thế kỷ XX 10 Diện mạo văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc 17 Vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa 33 văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Tiền đề, tôn chỉ mục đích và sơ bộ hệ thống chuyên mục của 33 Đông Dương tạp chí Vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hóa 43 văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Vai trò của Nguyễn Văn Vĩnh-chủ bút Đông Dương tạp chí 62 Con người và sự nghiệp 62 Đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh qua thời gian 74 Tiểu kết về Nguyễn Văn Vĩnh 89 Kết luận 93 Tài liệu tham khảo 98 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là giai đoạn “ấn tượng” nhất trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước Việt Nam. Cuộc xâm lược của thực dân Pháp như một cơn lốc xoáy dữ dội, lật tung đến từng “ngõ ngách sâu kín nhất” và cuốn tất cả vào vòng xoáy ấy. Xã hội Việt Nam trên mọi bình diện, từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá cho tới nơi thâm căn cố đế, khó lung lay nhất, đó là tư tưởng, tâm hồn con người đang rơi vào thảm cảnh thuộc địa hóa. Nhưng không buông xuôi, người Việt Nam, đặc biệt là những thành phần cấp tiến lúc bấy giờ đã “tiến hành một cuộc nỗ lực tìm kiếm thực sự”, trong khả năng có thể, để hướng Việt Nam phát triển theo con đường riêng, mà theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương nhận xét, thì đó là “Một cuộc vận động chuyển mình trong quằn quại đau đớn và lột xác bắt buộc” nhưng sáng tạo đã diễn ra. Chính vì thế, khi đánh giá về những “thành quả” đạt được trong giai đoạn lịch sử mang tính chất giao thời nhạy cảm này, sự vận động chuyển mình của nền văn học Việt Nam càng nổi bật và có ý nghĩa lớn lao. Những nỗ lực tìm kiếm trên phương diện văn học đã dẫn tới thành tích “ngoạn mục”: Văn học Việt Nam chuyển từ nền văn học trung đại mang tính khu vực sang nền văn học hiện đại mang tính toàn cầu, vận động theo quỹ đạo hiện đại hóa của thế giới. Chúng ta đều biết, văn học viết truyền thống kéo dài gần một thiên niên kỷ (từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX), là nền văn học mang tính chất bác học, chủ yếu dành cho tầng lớp quý tộc và trí thức nhà nho trong xã hội phong kiến, chỉ phục vụ cho một những tầng lớp nhỏ hẹp nhất định. Đó là một nền quốc văn chủ yếu sử dụng hệ thống văn tự chữ Hán được gắn với hệ tư tưởng Tam giáo, với quan niệm “thi ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo” cao xa mông lung, khiến đông đảo quần chúng, đặc biệt là tầng lớp nông dân khó tiếp cận được. 1      Chính ở giai đoạn giao thời này, giữa bộn bề, hoang mang của một đất nước đang bị xâm lược, các nhà Tân học đã nhận thức được sự cấp thiết lúc này là phải có hệ thống văn tự phổ biến dành riêng cho dân tộc mình. Chữ quốc ngữ sau khi được giới Tân học tích cực vận động, rồi được giới Cựu học “thông quan”, đã có sức lan toả mạnh mẽ và sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Đa số các công trình nghiên cứu về văn học đều khẳng định rằng: Sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại được mở đường bởi chữ quốc ngữ, mà một trong những công cụ, phương tiện để truyền bá chữ quốc ngữ một cách hiệu quả nhất phải kể đến là báo chí. Như vậy, vai trò của báo chí trong việc truyền bá, cổ động chữ quốc ngữ là vô cùng to lớn. Không thể phủ nhận một sự thật lịch sử rằng, báo chí vốn được dự kiến như là một trong những kế sách “nô dịch văn hoá tinh thần người bản xứ” của người Pháp, những cây bút đầu tiên viết cho báo chí đa số đều được huấn luyện từ các trường Pháp - Việt và ít nhiều được tiếp xúc với văn hoá Pháp. Thế nhưng, bước sang những thập niên đầu của thế kỷ XX, với sự phát triển rầm rộ, báo chí đã có sự “vượt thoát” ngoạn mục và trở thành một thứ “công cụ không tự giác của lịch sử” góp phần quan trọng vào việc hình thành một nền văn học Việt Nam hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều nhất trí: “Báo chí là nơi sưu tầm và giới thiệu văn học cổ Việt Nam, giới thiệu văn học Pháp và văn học Trung Quốc”. Không chỉ là môi trường giới thiệu và lưu giữ các tác phẩm văn học mà những khuynh hướng khác nhau, những luồng tư tưởng, những quan niệm khác nhau về văn học đều được hiện diện và quy tụ trên báo chí, đồng thời còn là nơi“Luyện tập câu văn và viết dần tác phẩm”. Trong khoảng thời gian trên dưới một thế kỷ qua, dẫu có nhiều luồng ý kiến khác nhau về việc định “công và tội” của báo chí, cũng như những người làm chủ bút giai đoạn giao thời trong lịch sử nước nhà, thì vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hoá văn học là không thể phủ nhận. 2      Cho tới nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của báo chí theo hướng sưu tầm, khảo sát ở các trường hợp cụ thể hoặc các nhóm trường hợp, tuy nhiên với trường hợp Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh thì ít được đề cập tới. Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” đã phân tích, lưu ý từ rất sớm rằng Đăng cổ tùng báo, Đại Việt tân báo, Nông cổ mín đàm… là những tờ báo ra đời sớm nhất, còn ít có tính cách văn học, hoặc nếu có, cũng không đáng kể, và việc truyền bá học thuật tư tưởng Âu Tây thì cũng mới đi những bước khởi đầu, mang tính giới thiệu, làm quen. Phải đến khi Đông Dương tạp chí và sau đó là Nam phong tạp chí ra đời thì “Quốc văn bắt đầu thịnh, bắt đầu có cái giọng hoa mỹ, dồi dào và chú trọng về tư tưởng” và “phải nhờ hai nhóm này, học thuật tư tưởng Đông, Tây mới được truyền bá một cách đúng mực bằng quốc văn” [13;30]. Nhiều tác giả nghiên cứu văn học sử khác cũng đều có cùng quan điểm thừa nhận: sự ra đời của Đông Dương tạp chí (năm 1913) là “cột mốc” quan trọng đánh dấu mối quan hệ mật thiết giữa báo chí với văn học, được xem là tờ báo mang tính chất chuyên ngành văn học đầu tiên của Việt Nam, là nơi quy tụ được nhiều cây bút xuất sắc như: Tư Trung Thân Trọng Huề (1869-1925), Bưu Văn Phan Kế Bính (1875-1921), Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến (1875-1941), Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác (1881-1945), Trọng Hữu Nguyễn Đỗ Mục (1882-1951), Lệ Thần Trần Trọng Kim (1882-1953), Ưu Thời Mẫn Phạm Duy Tốn (1883-1924), Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939), Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1889-1947), Thượng Chi Phạm Quỳnh (18921945),… Đặc biệt phải nhắc đến Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936), chủ bút của Đông Dương tạp chí, người “Với tư cách là linh hồn của nó đã làm thay đổi một cục diện văn hoá và thúc đẩy nền quốc văn đi vào con đường mới”, theo đánh giá của nhà nghiên cứu văn học - văn hóa Đỗ Lai Thuý. Rõ ràng, nhìn lại một cách tổng quan về tiến trình hiện đại hoá văn học thì Đông Dương tạp chí và chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh đóng góp một phần không nhỏ. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, và có 3      hệ thống. Đó là do đó, chúng tôi chọn đề tài “Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hoá văn học Văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX”, để nghiên cứu trong luận văn này. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Trần Đình Hượu cho rằng: “Trước 1913, báo chí chủ yếu giúp người đọc làm quen với chữ quốc ngữ”, Thanh Lãng cũng nhấn mạnh “Từ năm 1913, Đông Dương tạp chí đã làm xoay chiều văn học, đã đưa cái mới vào văn học, làm cho hai thế hệ trước và sau khác hẳn nhau. Mà người lãnh đạo nó, linh hồn của nó chính là Nguyễn Văn Vĩnh”, và như trên đã nói, Vũ Ngọc Phan khẳng định khi Đông Dương tạp chí ra đời thì “Quốc văn bắt đầu thịnh, bắt đầu có cái giọng hoa mỹ, dồi dào và chú trọng về tư tưởng”. Rõ ràng, năm 1913 - năm ra đời của Đông Dương tạp chí, đương nhiên được công nhận là mốc đánh dấu quan trọng trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. Thế nhưng, có một điều hiển nhiên rằng, sự xuất hiện của cái mới ban đầu cũng khó được chấp nhận, nhất là trong thời điểm lịch sử nhạy cảm. Thêm vào đó, theo như chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh, mục tiêu ra đời của Đông Dương tạp chí là: “Phổ biến văn hoá Tây phương, cổ động học chữ quốc ngữ, giới thiệu kiến thức thực nghiệp như canh nông, công nghệ và tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ”. Khi phân tích về những nội dung trong mục tiêu mà Đông Dương tạp chí đề ra, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung nhận định: “Tất cả các mục tiêu mà Đông Dương tạp chí đề ra đều giống với mục tiêu của phong trào Đông kinh nghĩa thục, trừ việc tuyên truyền cho chính phủ bảo hộ”. Có lẽ vấn đề chính trị nhạy cảm này chính là nguyên nhân khiến cho nhiều nhà nghiên cứu khi đánh giá về vai trò của Đông Dương tạp chí cũng như những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh vẫn còn quá dè dặt hoặc chỉ lướt qua. 4      Đương thời, Đông Dương tạp chí và chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh được đề cao ở một bộ phận độc giả nhưng cũng gặp phải không ít những đả kích, hằn học, mỉa mai ở một bộ phận độc giả khác. Tội danh phản quốc, bán nước, bồi bút… mà một số người gán cho Nguyễn Văn Vĩnh, hẳn một phần không nhỏ là do ông làm chủ bút cho tờ Đông Dương tạp chí. Theo “lời chứng” của Phan Khôi thì: “Nhưng, theo sự phẩm-bình chặt-chịa của một hạng người trong nước, hạng người ấy đại-khái là nhà nho, thì ông Vĩnh dù có là hào kiệt đi chăng nữa không là quân-tử… hạng người ấy tuy có phục ông Vĩnh về đằng tài nhưng họ không lượng thứ cho ông về đằng tâm”. Đánh giá về Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Trung đã viết: “Nguyễn Văn Vĩnh có thể là một nhà báo giỏi, nhưng lại rất vụng về chính trị. Ngôn ngữ của Nguyễn Văn Vĩnh không những không tranh thủ được ai, đặc biệt giới sĩ phu, mà còn gây thêm đố kỵ, hận thù”. Ngay cả những nghiên cứu gần đây nhất cũng ít nhắc tới Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh, hoặc có nhắc tới thì cũng chỉ dừng lại ở một vài ý kiến chung chung, những bài nghiên cứu trong khuôn khổ của bài báo như: “Những đóng góp của Nguyễn Văn Vĩnh với báo chí tiếng Việt và truyền bá chữ quốc ngữ” của Nguyễn Thị Lệ Hà, Viện Sử học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam; “Nguyễn Văn Vĩnh, một người Nam mới đầu tiên” của Đỗ Lai Thuý đăng trên Tạp chí Tia sáng… Thực tế, có một “vùng trắng” cho cả ba giai đoạn đầu thế kỷ XX. Trong nhiều nghiên cứu cũng như trong các giáo trình đại học khi viết về giai đoạn nhạy cảm này, trường hợp Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh vẫn chưa được khảo sát một cách chi tiết, kỹ lưỡng. Những vấn đề này chỉ được khắc phục phần nào ở một số nhà nghiên cứu có sự “độc lập” nhất định trong tư duy, tuy nhiên dưới nhiều góc độ khác nhau, vẫn có thể nhận ra nhiều nhận định đơn giản hóa và không ít định kiến. Phần tổng quan trong cuốn “Giáo trình Văn học 5      Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX” do Trần Ngọc Vương chủ biên đã phân tích diễn tiến lịch sử một cách sâu sắc góp phần đem lại cách nhìn bớt phần định kiến, nhưng cũng chưa đi sâu vào Đông Dương tạp chí và trường hợp cụ thể Nguyễn Văn Vĩnh. Trả lại công bằng cho lịch sử không chỉ là lời kêu gọi của hậu thế, mà là vấn đề trách nhiệm cần phải làm đối với quá khứ, lịch sử. Với định hướng đó, trên lập trường quan điểm: khách quan, công bằng, phân minh, chúng tôi, trong khuôn khổ đề tài của luận văn sẽ tiến hành khảo sát, nghiên cứu nghiêm túc và tích cực nhằm đưa lại một cái nhìn rõ nét hơn và có hệ thống hơn về những đóng góp của Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là Đông Dương tạp chí từ khi xuất bản (1913) đến năm (1917). Thông qua đó chúng tôi sẽ hệ thống, phân tích và đánh giá sự đóng góp của Đông Dương tạp chí cho tiến trình hiện đại văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đề cập đến nhân vật được xem là linh hồn của Đông Dương tạp chí, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh. Hơn nửa thế kỷ qua có khá nhiều luồng ý kiến đánh giá về Nguyễn Văn Vĩnh, và hiện đang được các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử như Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê… khẳng định là một học giả lớn, cần được hiểu cho đúng đắn hơn, toàn diện và sâu sắc hơn. Vì thế, trong khuôn khổ có hạn của luận văn, chúng tôi trên cơ sở khảo sát tổng quan sau đó sẽ tập chung phạm vi nghiên cứu ở nội dung của Đông Dương tạp chí và những bài viết, những tác phẩm, tác giả có liên quan đến các vấn đề, khía cạnh trên. 6      4. Nhiệm vụ nghiên cứu Những năm gần đây, việc nghiên cứu, đánh giá, xem xét lại một cách công bằng thoả đáng, nhằm khẳng định giá trị đích thực của những vấn đề thuộc về giai đoạn lịch sử giao thời nhạy cảm của đất nước thường xuyên được đề cập. Nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đương nhiên ghi nhận Đông Dương tạp chí là “cột mốc” đầu tiên, quan trọng trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nhưng chưa được nhìn nhận một cách đầy đủ, đúng mức và có hệ thống. Người làm luận văn đặt vấn đề “Vai trò của Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam” không nhằm mục đích ngợi ca, đề cao, đúng hơn, không áp đặt hay xuất phát từ một thái độ, một sự phán xét, quy chụp tiên nghiệm, mà trên quan điểm khách quan, người viết sẽ nghiêm túc thực hiện một số việc sau: Nghiên cứu, khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá Đông Dương tạp chí, cụ thể là những nội dung liên quan tới sự phát triển của nền văn học. Tìm hiểu, thu thập và hệ thống toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Văn Vĩnh, đặc biệt là thời điểm ông làm chủ bút của Đông Dương tạp chí cùng những quan điểm và cách hành xử của ông trong bối cảnh lịch sử mới của đất nước. Từ các kết quả nghiên cứu được, tác giả luận văn mong muốn cung cấp cho độc giả cái nhìn sáng rõ hơn về vai trò của Đông Dương tạp chí và Nguyễn Văn Vĩnh trong quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện luận văn này, chúng tôi sử dụng chủ yếu một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: 7      - Phương pháp liên ngành: kết hợp tri thức và phương pháp nghiên cứu lịch sử, văn hóa học, lịch sử tư tưởng và lịch sử văn học. - Phương pháp thực chứng: không đưa ra bất cứ một khẳng định, nhận xét, kết luận nào nếu trước đó không sưu tầm, lý giải và thẩm định những chứng cớ, những nguồn dữ kiện và tài liệu đáng tin cậy. - Phương pháp biện chứng: đặt mọi sự vật, hiện tượng, quá trình trong mối liên hệ qua lại với hoàn cảnh lịch sử, với những định hướng chi phối sự vận động của hiện tượng đang được khảo sát, phân biệt những cấp độ tồn tại và vận động của đối tượng được khảo sát để tránh sự phiến diện hay chụp mũ. 6. Cấu trúc của luận văn Chúng tôi trình bày luận văn với 3 phần chính: Phần mở đầu: 1. Lý do chọn đề tài. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu. 6. Cấu trúc luận văn. Phần nội dung (gồm 3 chương): Chương I: Vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa văn học hiện đại Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX. 8      Chương II: Đông Dương tạp chí trong tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam. Chương III: Những đóng góp của chủ bút Đông Dương tạp chí - Nguyễn Văn Vĩnh Phần Kết luận Và thư mục tham khảo. PHẦN NỘI DUNG Chương I VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM BA MƯƠI NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX 9      Liên tục gần mười thế kỷ, từ thế kỷ thứ X đến nửa đầu thế kỷ XIX, sự phát triển của nền Văn học Việt Nam diễn ra tương đối bình lặng, thế nhưng bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX một cơn chấn động mạnh đã làm cho nền văn học nước nhà bị lung lay tới tận gốc rễ, sụp đổ, đồng thời kiến tạo nên một diện mạo văn học hoàn toàn mới khác với nền văn học cũ, và được định danh là văn học hiện đại. Về nguyên nhân và những tác động dẫn tới quá trình kiến tạo cho nền văn học mới này được các nhà nghiên cứu văn học sử phân tích khá nhiều và kỹ trên cơ sở những tiền đề sau: Một là, sự xâm lược và tiếp theo đó là chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đối với Việt Nam đã tác động sâu sắc tới diện mạo bên ngoài cũng như cấu trúc bên trong của xã hội Việt Nam. Quá trình đô thị hóa theo hướng phương Tây hóa diễn ra nhanh chóng, xuất hiện tầng lớp công chúng mới với những nhu cầu mới, trong đó không thể thiếu nhu cầu về món ăn tinh thần như báo chí, văn học nghệ thuật… Hai là, các lực lượng yêu nước và tiến bộ ở Việt Nam ngày càng ý thức sâu sắc về sự khủng hoảng, bất lực của chế độ phong kiến và xã hội truyền thống kiểu châu Á ở nước ta, đồng thời cũng thấy rõ không thể cứu nước nếu không canh tân đất nước. Trong khi hệ thống giáo dục Hán học dần bị thu hẹp, hệ thống nhà trường Pháp Việt và luồn văn hóa, tư tưởng phương Tây ngày càng lan rộng, hình thành tầng lớp trí thức mới, trí thức Tây học. Tầng lớp này hào hứng với tiếp nhận và truyền bá những luồng tư tưởng mới, đặc biệt là văn học phương tây, xuất hiện một lớp nhà văn mới, dần đi vào con đường chuyên nghiệp. Ba là, phải nói đến sự phổ biến mạnh mẽ của chữ quốc ngữ từ nửa sau thế kỷ XIX đã chắp cánh cho nền văn học Việt Nam. 10      Bốn là, trong phạm vi văn hóa văn học, thông qua các trường học, nhà xuất bản, các cơ quan báo chí, việc giới thiệu, dịch thuật, truyền bá khoa học, tư tưởng, văn hóa văn học của các nước phát triển, đặc biệt là của Pháp, đã có đóng góp rất lớn vào quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam. Báo chí được xem là một trong những tiền đề tác động đến quá trình hình thành và hiện đại hóa nền văn học Việt Nam. Thực tế cũng cho thấy, trong rất nhiều các công trình biên khảo, nghiên cứu văn học sử của Dương Quảng Hàm, Bùi Đức Tịnh, Lê Trí Viễn, Trần Đình Hượu, Nguyễn Đình Chú, Lê Chí Dũng, Bằng Giang… đều không thể bỏ qua mảng báo chí quan trọng này. Song việc đề cập đến vai trò của báo chí cũng chỉ dừng lại trong những đề mục hoặc “gạch đầu dòng”. Ở luận văn này, chúng tôi muốn nhắc đến vai trò báo chí theo hướng nghiên cứu từ vĩ mô đến vi mô, từ tổng quan đến cụ thể. Nghĩa là từ vai trò của báo chí nói chung, sau đó cụ thể hóa trong một tờ báo “cột mốc”, có tính chất “chuyên ngành”, cuối cùng là hoạt động của chủ bút Nguyễn Văn Vĩnh, để hướng độc giả hiểu sâu hơn về vai trò của báo chí trong quá trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc. Nhưng trước hết, chúng tôi sẽ tổng quan lại diện mạo văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX giúp người đọc nắm được một cách sơ bộ về giai đoạn giao thời này. 1. Diện mạo nền văn học Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX Từ những năm 40 của thế kỷ XX, đã có rất nhiều công trình, biên khảo nghiên cứu về vấn đề chọn thời điểm đánh dấu cho sự xuất hiện của văn học hiện đại, đến nay vẫn chưa hoàn toàn đi đến thống nhất. Về vấn đề lựa chọn đâu là “cột mốc” đánh dấu cho bước ngoặt của nền văn học Việt Nam chuyển từ văn học trung đại sang văn học hiện đại, các nhóm nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến lựa chọn khác nhau. Nhóm nhà nghiên cứu cho rằng “cột mốc” chính là xuất hiện của những tác phẩm bằng chữ quốc 11      ngữ, có nhóm nhà nghiên cứu lại đồng hóa việc ra đời của văn học hiện đại với báo chí theo góc độ chuyển đổi loại hình, hay có nhóm nhà nghiên cứu thì dựa trên góc độ thể loại, sự ra đời của tác phẩm mang những yếu tố khác biệt với nền văn học trung đại (trường hợp Thầy Lazaro Phiền). Các nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh chọn năm 1920 hoặc những năm 20 làm “cột mốc” đánh dấu cho bước ngoặt của văn học hiện đại. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu thì chọn năm 1930 làm “cột mốc”. Theo nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương, Mã Giang Lân và một số nhà nghiên cứu khác xác định thời điểm cho quá trình hiện đại hóa Văn học Việt Nam là 1900 hoặc những năm đầu thế kỷ XX. Còn trong nghiên cứu của mình, Nguyễn Văn Xuân quả quyết, văn học mới, văn học hiện đại bắt đầu từ 1928… Như vậy, các nhóm nhà nghiên cứu đã đưa ra lựa chọn riêng dựa trên những tiêu chí, góc độ kiến giải khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các nhà nghiên cứu văn học sử ít nhiều cũng đều công nhận, việc phân biệt chính xác, rạch ròi về mặt thời gian cho sự ra đời của văn học hiện đại là rất khó. Như vậy chỉ có thể nói, những mầm mống của chất hiện đại, sự manh nha cho một nền văn học mới được bắt đầu từ nửa cuối thế kỷ XIX, thậm chí có thể là trước đó. Nhà nghiên cứu văn học sử Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên” cho rằng “Từ thời Trịnh Nguyễn, cuối thế kỷ XVIII đã có một số người Việt công giáo dùng tiếng tiếng Việt để sáng tác thơ văn (theo đường lối văn Nôm nho gia)”. Bắt đầu từ đầu thế kỷ XX, cùng với những luồng tư tưởng mới (từ tân thư, tân văn, tri thức có nguồn gốc phương Tây); với phong trào vận động cải cách, duy tân (Duy Tân, Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục); cùng với sự ra đời của nhiều tờ báo trên cả ba miền Bắc - Trung - Nam có nội dung phong phú, văn học và các nhà hoạt động, sáng tác văn học dần phát triển và ngày càng rầm rộ, bức tranh văn học hiện đại Việt Nam theo đó cũng dễ dàng được nhận diện rõ ràng hơn và bao quát hơn “Những dấu hiệu báo trước sự ra đời của một thứ văn học mới tuy đã 12      xuất hiện từ những năm tám mươi của thế kỷ XIX, chủ yếu bộc lộ qua những hoạt động văn học của Trương Vĩnh Ký và những người xa gần chịu ảnh hưởng từ ông, nhưng chỉ tới đầu thế kỷ XX, sự biến động đồng bộ, cũng xét theo những tiêu chí loại hình, mới thực sự rõ nét”. Dưới đây, chúng tôi phác họa những nét chính của bức tranh văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX dựa trên những phân tích sơ bộ về sự chuyển đổi của các tiêu chí hệ hình văn học, ngôn ngữ văn học, quan niệm thẩm mỹ, các dòng văn học và đội ngũ tác giả, hệ thống thể loại. 1.1. Sự chuyển đổi hệ hình văn học từ trung đại sang hiện đại là bước ngoặt lịch sử sau một chặng đường dài gần mười thế kỷ, kể từ khi nền văn học viết chính thức ra đời (thế kỷ X). Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương, khi nghiên cứu về sự chuyển đổi của nền văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỷ XX, đã nhấn mạnh tới sự chuyển đổi quỹ đạo và hệ hình văn học, đó là, văn học Việt Nam từ “Một nền văn học mang tính quốc gia – dân tộc, vận động trong quỹ đạo của vùng văn học châu Á, lấy văn học Trung Quốc làm “cổ mẫu”, làm nền văn học kiến tạo vùng”, đang dần bị phân rã để kiến tạo một hệ thống thi pháp mới theo mô hình văn học châu Âu và hòa nhập vào quỹ đạo văn học thế giới, mà chặng đường văn học ba mươi năm đầu thế kỷ XX là giai đoạn giao thời, ở đó chúng ta được “chứng kiến một tình trạng hỗn dung của ít nhất hai hệ hình văn học”. Không quá khó khăn để chúng ta nhận thấy, trong giai đoạn này, tồn tại song song hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai ngôn ngữ khác nhau. Và cũng đồng thời nhận thấy nền văn học cũ, văn học Hán Nôm dần bị thất sủng, suy yếu, trong khi nền văn học mới, văn học quốc ngữ ngày một chiếm ưu thế, đúng như nhận xét “chỉ trong khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XX, hàng loạt những yếu tố nằm trong thành phần “tiêu chí hệ hình” của nền văn học mới cũng đã được xác lập”. 13      Bước sang đầu thế kỷ XX, những quan điểm tư tưởng thẩm mỹ, quan niệm mới về văn chương và sáng tác trong văn chương đã dần được hình thành. Mặc dù các nhà nho, khoa bảng vẫn còn nặng về “văn dĩ tải đạo”, “thi ngôn chí” như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… nhưng ít nhiều đã bị chi phối bởi ý thực hệ tư sản và ý thức đem văn chương phục vụ mục đích chính trị, đấu tranh, tuyên truyền. Họ được xem là các tác giả “quá độ” thành một “lớp người cầm bút” để lại dấu ấn rất rõ. Bản thân họ là “sản phẩm của giao thoa, xung đột và tiếp biến” của hai nền văn hóa, văn học Đông - Tây. Để có thể thực hiện tôn chỉ “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, bên cạnh lối thơ, văn biền ngẫu truyền thống, họ bắt đầu tìm kiếm, lựa chọn những hình thức nghệ thuật, ngôn ngữ để biểu hiện, dẫn tới những lý tưởng, quan niệm cũ tưởng như đã ăn sâu vào tiềm thức đã có những biến đổi “điều đó đã khiến cho văn học dưới tay của các nhà nho yêu nước đầu thế kỷ trở thành một thực thể đặc biệt”. Trong khi đó, những quan niệm mới của văn chương bắt đầu nảy nở, không gian văn học được mở rộng và mang tính đại chúng. Nghĩa là văn chương dành cho đại chúng, lấy đời sống hiện thực và những con người của cuộc sống đời thường làm trung tâm của các sáng tác, đồng thời làm đối tượng phục vụ. Ý thức và quan niệm về một nền quốc văn ngày càng trở nên mãnh liệt, mà biểu hiện lớn nhất chính là cương quyết dứt bỏ chữ Hán, hoan nghênh việc dùng chữ quốc ngữ để viết văn, “Có thể nói, từ đây ta mới có một nền văn học quốc gia duy nhất và thuần túy”. Một trong những quan niệm nổi bật và táo bạo bắt đầu xuất hiện, đấy là việc xem văn chương như là một nghề để kiếm sống, người cầm bút viết văn là những nhà chuyên môn chuyên nghiệp và trung tâm của văn học được chuyển ra các tòa báo, nhà xuất bản, hiệu sách chứ không còn thu hẹp trong các khu lều chõng, thầy đồ, thi hữu như thời văn học trung đại nữa. 14      Cùng với những đổi mới quan niệm, lý tưởng thẩm mỹ, so với văn học truyền thống, hệ thống chủ đề trong văn học giai đoạn này không chỉ mang nhiều yếu tố khác biệt mà còn mở rộng, thiết lập những chủ đề mới. Không chỉ nói tới cái cao thượng, giáo hóa,… mà còn hướng tới những chủ đề về tiến hóa xã hội, về yêu nước, về những vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống đời thường hàng ngày. 1.2. Như đã nói, vì là giai đoạn mang tính chất giao thời, nên nền văn học ba mươi năm đầu thế kỷ vận động theo hai khuynh hướng, khuynh hướng cách tân văn học truyền thống và khuynh hướng sáng tạo văn học mới. Giữa các sáng tác của hai khuynh hướng này lại có sự giao thoa, đan xen về hệ thống thi pháp. Song, xu hướng vận động của văn học truyền thống là dần bị thu hẹp và dường như biến mất, ngược lại, văn học mới ngày càng phát triển và chiếm lĩnh văn đàn. Cho đến những năm 20 của thế kỷ XX, văn học mang tính truyền thống vẫn là một khuynh hướng văn học khá rõ nét, và cũng đã đạt được những thành tựu nhất định. Nhiều trước tác chữ Hán có giá trị của Nguyễn Khuyến, Dương Lâm, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp… cùng với mấy nét đặc sắc trong văn Nôm của Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Đình Chiểu, Tôn Thọ Tường, Phan Văn Trị, Nguyễn Văn Giai, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thị Bích, Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Văn Lạc… được hưởng ứng, được công bố khá rộng, đăng tải trên nhiều loại hình phương tiện, đặc biệt là trên hầu hết các tờ báo, tạp chí lúc bấy giờ, ít nhiều được dành chỗ. Thế nhưng trước thời thế, chữ quốc ngữ ngày càng trở nên phổ biến, thông dụng, văn học mới mang tính đại chúng ngày càng lan rộng, văn học truyền thống mang tính chất tinh hoa, bác học đã rơi vào thảm cảnh “tiêu điều”, đến những năm 20 trở đi thì văn học 15      truyền thống chỉ còn được nhớ đến bởi một vài yếu tố còn tồn tại trong một số tác phẩm. Trong khi đó, được sự tiếp sức và hoàn cảnh thuận lợi từ nhiều phía, khuynh hướng văn học mới được vận động theo lộ trình khá đặc biệt, kèm theo đó là một lực lượng sáng tác mới, lực lượng trí thức tân học. Lực lượng sáng tác này chú trọng tới văn hóa hơn là chính trị, quan tâm đáp ứng nhu cầu của độc giả. Bắt đầu từ vận dụng chất liệu ngôn ngữ mới, chữ quốc ngữ, để dịch thuật văn chương phương Tây, chủ yếu là văn chương Pháp, qua mô phỏng rồi đi đến sáng tác thuần Việt. Gần hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX, những sáng tác văn học bằng chữ quốc ngữ còn thưa thớt và mờ nhạt, chủ yếu là tập trung vào dịch thuật, biên khảo, nghiên cứu. Văn học chữ Hán Nôm, văn học Tàu, nhiều nhất là văn hóa, văn học Pháp được dịch hay phiên âm ra chữ quốc ngữ thường xuyên xuất hiện trên các báo, tạp chí, sách... mở ra một quá trình luyện tập câu văn, tìm tòi, kiểm nghiệm và sáng tạo để bước sang thập kỷ thứ ba, văn học quốc ngữ bắt đầu nở rộ với hàng loạt tác phẩm có giá trị định hình cho hệ thống chủ đề, thể loại mới của văn học hiện đại với những tên tuổi tiêu biểu như: Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm, Nguyễn Trọng Thuật, Đông Hồ, Tương Phố, Thế Lữ, Thái Phỉ, Tam Lang, Vũ Đình Long, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,… 1.3. Văn học hiện đại khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XX vẫn đang trên hành trình tìm kiếm những hình thức thể loại có thể đáp ứng được yêu cầu truyền tải nội dung, bộc lộ những quan điểm tư tưởng thẩm mĩ mới một cách tự do, linh hoạt. Nghiên cứu về tác giả, tác phẩm, chúng ta dễ dàng nhận thấy văn học giai đoạn này chưa thoát khỏi dấu ấn của những thể loại đã trở thành điển phạm trong văn chương truyền thống như: văn chính luận, thơ chữ Hán, diễn ca lục bát, ngâm khúc, hát nói, vè, liệt truyện. Đặc biệt, sự tương tác, dung hòa giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại là đặc điểm nổi bật của hệ thống thể 16      loại giai đoạn này, cụ thể trong các thể loại: truyện dịch, truyện thơ quốc ngữ, du kí, thơ viết bằng văn vần. Văn học thời Bộ này được sáng tác trên cả hai chất liệu ngôn ngữ, chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Tuy nhiên, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy văn học Việt Nam giai đoạn này xuất hiện nhiều thể loại mới: Truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch, thơ, các tiểu thể loại tản văn,… làm cho văn học ngày càng trở nên phong phú và gần gũi với đời sống hàng ngày. 1.4. Sự đổi mới hoàn toàn trong ngôn ngữ văn học (chuyển từ ngôn ngữ văn học chữ Hán, Nôm sang chữ quốc ngữ) là một dấu ấn đặc biệt trong lịch sử phát triển của nền văn học Việt Nam. Chữ quốc ngữ xuất hiện ở Việt Nam từ khoảng thế kỷ XVII, thế nhưng phải đến nửa cuối thế kỷ XIX mới bắt đầu được chú ý. Do có nhiều ưu điểm trong sử dụng và phổ biến, chữ quốc ngữ sớm trở thành công cụ trong âm mưu nô dịch của thực dân Pháp, và, với dân tộc Việt, về sau, chữ quốc ngữ lại là nhu cầu thiết yếu. Chính vì thế, chữ quốc ngữ từ cưỡng ép đi tới tự giác, nhanh chóng được lan rộng dần được sử dụng phổ biến và trở thành văn tự của dân tộc “mở đường cho việc xác lập một thời đại văn học mới”. Các nhà nghiên cứu chỉ ra hai mốc quan trọng đánh dấu cho tiến trình phát triển của văn xuôi quốc ngữ giai đoạn phôi thai, đó là: “Khởi động ở Nam bộ từ nửa sau thế kỷ XIX” và “tiếp tục phát triển ở Bắc bộ vào hai thập niên đầu thế kỷ XX”. Như chúng ta đã biết, chữ quốc ngữ xuất hiện trước nhất là ở Nam bộ. Sau khi tờ báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên Gia Định báo (1865) ra đời, cùng với một số chính sách nhằm truyền bá chữ quốc ngữ không mấy hiệu quả, người Pháp đã phát kiến ra rằng “Người ta sẽ không chống lại việc học chữ quốc ngữ bằng mẫu tự la tinh nếu tiếng An Nam được thay thế để dịch một vài tác phẩm Trung Hoa cơ bản và cổ điển”. Thực tế, chữ quốc ngữ đã được giới tân học chú ý và ra sức vận động, mà người thợ cần cù đã góp công xây dựng nó trước tiên là Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của. Văn chương quốc ngữ ở Nam bộ bắt 17     
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan