Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng việt đối chiếu với tiếng hán hiện đại ...

Tài liệu Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng việt đối chiếu với tiếng hán hiện đại

.PDF
202
1
62

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ….o0o…. ĐÀO MẠNH TOÀN ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh, 2011 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ….o0o…. ĐÀO MẠNH TOÀN ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT (ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN Chuyên ngành : Lý luận ngôn ngữ Mã số : 62 22 01 01 Người hướng dẫn PGS. Hồ Lê TS. Trần Hoàng Thành phố Hồ Chí Minh, 2011 MỤC LỤC MỤC LỤC ..................................................................................... 1 DẪN NHẬP ................................................................................... 1 1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI ............. 1 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ .............................................................................. 2 3. NHIỆM VỤ CỦA LUẬN ÁN ........................................................... 32 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU ........ 32 5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN .......................................... 35 6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN ................................................................ 36 CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG ................ 39 1.1. TỪ VÀ CẤU TRÚC NGHĨA TỪ.................................................. 39 1.2. HIỆN TƯỢNG CHUYỂN LOẠI CỦA TỪ ................................. 44 1.3. VAI TRÒ CỦA CHỮ VIẾT TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM VÀ HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA .......... 45 1.4. KHÁI NIỆM ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA ................................................................................................... 49 1.5. VỀ DANH XƯNG “TỪ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA” .............. 54 1.6. TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA .......................................................... 55 1.7. GIỚI HẠN CỦA CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA ........ 57 1.8. PHÂN LOẠI CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, CÁC ĐƠN VỊ ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA ........................................... 61 1.9. VỊ TRÍ CỦA TỪ ĐỒNG ÂM CÙNG GỐC TRONG TỔNG THỂ TỪ ĐỒNG ÂM TIẾNG VIỆT .................................................... 68 1.10. NHẬN DIỆN CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, CÁC ĐƠN VỊ ĐA NGHĨA VÀ TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN.......... 69 1.11. TIỂU KẾT..................................................................................... 71 CHƯƠNG 2: HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI ................. 72 2.1. HIỆN TƯỢNG ĐỒNG ÂM TRONG TIẾNG VIỆT .................. 72 2.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐ TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ ..................................................................................................... 94 2.3. TIỂU KẾT..................................................................................... 109 CHƯƠNG 3: HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI ............... 111 3.1. HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT................ 111 3.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐN TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ ................................................................................................... 119 3.3. TIỂU KẾT..................................................................................... 158 CHƯƠNG 4: TỪ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT ĐỐI CHIẾU VỚI TIẾNG HÁN HIỆN ĐẠI . 160 4.1. VỀ CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM VÀ ĐA NGHĨA TRONG TỪ ĐIỂN ..................................................................................................... 160 4.2. PHÂN LOẠI CÁC ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG TIẾNG VIỆT ............................................................................................................... 160 4.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC ĐỒNG ÂM KHÁC GỐC NGỮ NGHĨA ................................. 160 4.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐV ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC ĐÂCG ................................................................................................... 167 4.5. BƯỚC ĐẦU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐÂ&ĐN KHÁC GỐC NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ .................................................. 172 4.6. BƯỚC ĐẦU ĐỐI CHIẾU TỪ ĐÂ&ĐN CÙNG GỐC NGHĨA TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ .................................................. 175 4.7. TIỂU KẾT..................................................................................... 179 KẾT LUẬN ............................................................................... 181 TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 190 DẪN NHẬP 1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI Đồng âm (ĐÂ), đa nghĩa (ĐN) là hiện tượng (HT) có tính phổ quát trong ngôn ngữ, nó bao gồm: Đ và ĐN trong từ, Đ và ĐN trong ngữ, Đ và ĐN trong câu. Trong đó, Đ và ĐN trong từ là HT phổ biến nhất. Với tư cách là trung tâm của HTĐ và HTĐN, từ Đ và từ ĐN đã được bàn đến từ khá sớm. Tuy vậy, cho tới nay, HT này vẫn còn nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu. Những công trình khảo sát về từ Đ và từ ĐN cho thấy HT này đã được tiếp cận từ nhiều hướng và mỗi hướng tiếp cận đều cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong một hướng tiếp cận thì những đặc điểm, những khía cạnh liên quan đến từ Đ và từ ĐN cũng được nhìn nhận không hoàn toàn giống nhau giữa các tác giả. Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường hướng tiếp cận và mức độ khác nhau đã bàn về từ Đ và từ ĐN. Một số tác giả đã cố gắng xác định các tiêu chí nhận diện từ ĐÂ, từ ĐN, đề xuất các hướng miêu tả, phân loại chúng. Một số tác giả còn trình bày số liệu về các đơn vị (ĐV) Đ và ĐN của họ. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào lấy từ ĐÂ, từ ĐN và từ vừa Đ vừa ĐN làm đối tượng nghiên cứu chính của mình, đặc biệt là họ chưa xác lập được sự đối lập cơ bản giữa từ ĐÂCG nghĩa (từ ĐÂCG) với những từ ĐÂKG nghĩa (ĐÂngẫu nhiên). Đây là điểm mà luận án (LA) sẽ đề cập tới. Vấn đề từ ĐN cũng còn nhiều chỗ phải đề cập tới như: xác định rõ các loại từ ĐN, sự khác biệt giữa ĐN của một từ ĐN thông thường (giữa các nghĩa thường có quan hệ phái sinh) với ĐN giữa các từ Đ (không có quan hệ phái sinh, thường chỉ có liên hệ về nghĩa). Từ những lí do này, chúng tôi xác định: đối tượng nghiên cứu chính của LA là từ ĐÂ, từ ĐN; từ Đ và ĐN trong TV. Đồng thời, sẽ đối chiếu nó với vấn đề tương ứng trong tiếng Hán, một ngôn ngữ gần gũi về loại hình, nhằm tìm ra những chỗ đồng nhất và khác biệt trong 2 ngôn ngữ. Đây là những lí do để chúng chọn đề tài: Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại). Như trên đã nói, LA không dừng lại ở sự nghiên cứu từ Đ và từ ĐN nói chung mà sẽ còn tập trung nghiên cứu từ Đ và ĐN trong loại từ ĐÂCG và ĐÂKG của TV. Nghiên cứu những đối tượng này, chúng ta một mặt sẽ làm rõ được đặc điểm của từ ĐÂ, từ ĐN trong TV, mặt khác cũng làm rõ được vị trí, vai trò và đặc điểm của từ ĐÂCG, từ vừa Đ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và ĐÂKG của TV. Từ đó làm rõ được những đồng nhất và khác biệt cũng như thấy được những điểm giao thoa giữa hai HT này. LA cũng sẽ đối chiếu từ ĐÂ, từ ĐN, từ Đ và ĐN trong TV với từ ĐÂ, từ ĐN, từ Đ và ĐN trong THHĐ để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt trong hai ngôn ngữ. 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 2.1 Ở Việt Nam, trước 1945, HTĐÂ, ĐN của TV đã gián tiếp được đề cập tới trong một số tự vị do chính người Việt Nam biên soạn nhằm chuẩn hóa chính tả, chữ viết (chữ quốc ngữ) nhưng chưa được soi rọi dưới góc độ lí luận. Chẳng hạn: Năm 1895, có Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của [13 ]. Đây là cuốn tự điển tường giải đầu tiên do người Việt biên soạn, là nguồn tài liệu quý về từ vựng ngữ nghĩa TV những năm cuối thế kỉ XIX. Theo Lê Quang Thiêm [131, tr.50-52] thì: “Trong một mức độ nhất định, tác giả Đại Nam quấc âm tự vị đã phân biệt được các đề mục Đ (Lê Quang Thiêm gọi là Đ ngữ nghĩa). Khảo sát công trình này chúng tôi còn nhận thấy: tác giả công trình còn bỏ sót nhiều ĐVĐ được tạo ra từ quá trình phân li ngữ nghĩa như trường hợp của các ĐV bạc, đài… Năm 1925, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Mai [91] là người đầu tiên đề cập tới HTĐ của TV với việc xuất bản Đ tự vị. Công trình này thu thập “những chữ khó viết hoặc những chữ Đ cùng những chữ không nhằm Đ mà phải viết dấu hỏi hay dấu ngã, hoặc viết d hay g ở trước, c hay là t, có g hay là không có g ở sau”. Khảo sát công trình này chúng tôi thấy: cấu tạo của Đ tự vị gồm hai phần (1) phần thu thập những “chữ” Đ với SL lên tới 1779 ĐV, (2) Phần phụ thêm thu thập những ĐV mà theo tác giả là sẽ có vấn đề về chính tả, những ĐV gốc Ấn Âu không được thu thập và giải thích trong công trình này. Mặc dù tác giả không hiển ngôn thế nào là Đ song qua cách giải thích, sắp xếp của tác giả, ta vẫn có thể thấy được. Đó là những ĐV có âm đọc giống nhau, có nghĩa khác nhau và là những ĐV đơn tiết. Do hạn chế về thời đại nên Đ tự vị của Nguyễn Văn Mai mới chỉ thống kê được một SL rất nhỏ các ĐVĐ của TV, chưa xử lí thỏa đáng các vấn đề của HTĐ trong TV, ngữ liệu mới chỉ dừng lại trong ngôn ngữ sinh hoạt và trong văn ngôn tiếng Hán song bước đầu cũng đã gợi mở ra một số vấn đề lí luận liên quan đến HTĐ của TV như: HTĐ giữa từ thuần Việt với từ gốc Hán, giữa từ địa phương với từ toàn dân, vấn đề các ĐVĐ đơn tiết.… Đó là những đóng góp không thể phủ nhận. Năm 1931, có thêm sự góp mặt của Việt Nam tự điển [63]. So với Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam tự điển đã chú trọng tới việc phân biệt các ĐVĐ và các ĐVĐN, các ĐVĐ đều được phân tách và giải thích khá rõ ràng. Nếu là Đ Hán Việt thì còn dẫn cả chữ Hán để phân biệt. Nghĩa của các ĐVĐN được phân biệt bằng kí số Ả Rập 1, 2, 3…, sau mỗi nghĩa đều có ví dụ minh họa. Các ĐV ĐÂCG được xếp liền nhau và phân biệt với nhau bằng kí số La Mã. Sau cùng là việc liệt kê những kết hợp có chứa mục từ đó. Chẳng hạn, loạt Đ có âm đọc là A được giải thích và sắp xếp như sau: A. I. Đồ làm ruộng để cắt rạ ở ruộng chiêm, Nam-Kỳ gọi là cái trang, cái gạc: Rèn một lưỡi a bằng ba lưỡi hái. Cắt rạ thì dùng bằng a, quét nhà thì dùng bằng chổi. II. Cắt rạ bằng cái a: Ruộng đã gặt rồi cầm cái a đi a rạ. (…) Việt Nam tự điển đã phân biệt rõ từ Đ và hình vị ĐÂ. Tuy vậy, công trình này vẫn còn bỏ sót những HTĐ khác mà thời ấy chắc chắn đã có như HTĐ giữa những ĐV thuần Việt với những ĐV có nguồn gốc Ấn Âu… Năm 1932, đáng chú ý là công trình Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh [01]. Đây là một bộ TĐ có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Khảo sát vấn đề thu thập, giải thích, phân loại các ĐVĐ và ĐN của Hán Việt từ điển chúng tôi thấy: Hán Việt từ điển đã rất coi trọng vấn đề thu thập, giải thích và phân biệt, xử lí các ĐVĐ Hán và Hán -Việt. Cách xử lí của ông như sau: đầu tiên, tác giả liệt kê tất cả các ĐVĐ có trong mục từ đó, tiếp theo là việc liệt kê các kết hợp song tiết có chứa các ĐVĐ đó cùng lời giải nghĩa về các ĐV này. Chẳng hạn: mục từ có âm đọc là DAO được ông phân tách thành 07 mục từ nhỏ như sau: Dao 摇 Lay động. Dao 遥 Xa. Dao 瑶 Một thứ ngọc tốt; quý báu; sáng sủa trong sạch. Dao 谣 Câu hát không thành chương khúc; lời nói bằng không đặt ra. Dao 愮 Lo buồn không tỏ cùng ai được. Dao 徭 Xch. Dao dịch. Dao 猺 Tên một dân-tộc ở miền núi thượng-du Bắc-kỳ và nhiều tỉnh phía tây-nam nước tàu… (Hán Việt từ điển, tr. 197-198) Năm 1939, có quan điểm của Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94]. HTĐÂ, ĐN được tác giả bàn đến trong phần Những nguyên tắc chung (tr.29) và trong phần Lược khảo về từ chương (tr.139). Theo tác giả thì: “Đ nghĩa là đọc giống nhau. Những TV – Nam cùng một âm như: nước chè – Nước Việt Nam – Nước cờ là những tiếng Đ”. Và “Đ tất phải khác nghĩa”. Năm 1940, có quan điểm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm trong Việt Nam văn phạm [70]. Trong 18 chương của Việt Nam văn phạm thì trong chương I Những điều khái lược (tr.18-19) và ở mục Lời tựa (tr. VIII, XI) là những chỗ thể hiện rõ quan điểm của họ về từ Đ và ĐN. Theo họ, “tiếng Đ là những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau, nhưng cái nghĩa thì khác mà không có liên – lạc gì với nhau cả. Ví như một tiếng nước là nói một xứ có vua quan cai trị; một tiếng nước khác là nói chất lỏng ở sông ở biển. Một tiếng năm là nói khoảng thời gian có mười – hai tháng; một tiếng năm khác là nói số đếm sau số bốn” (Việt Nam văn phạm, tr.18). Họ còn bàn về nguồn gốc của từ Đ và nhược điểm của chữ Quốc ngữ: “những tiếng Đ ấy nhiều nhất là những tiếng gốc ở chữ nho mà ra” , họ nêu ví dụ: Chữ minh là sáng thì viết chữ 明, chữ minh là tối thì viết chữ 冥, chữ minh là mờ - mịt bát - ngát thì viết chữ 瞑, chữ minh là thề thì viết chữ 盟, chữ minh là ghi, khắc thì viết chữ 铭, chữ minh là kêu (nói về chim) thì viết chữ 鸣”.Theo họ thì “những chữ ấy viết bằng chữ nho là sáu chữ khác nhau, mà viết bằng quốc - ngữ thì tiếng nào cũng như nhau cả. Song ta phải biết phân – biệt rằng đó là sáu tiếng minh có sáu nghĩa riêng, chứ không phải là một tiếng minh mà có sáu nghĩa...” (Việt Nam văn phạm; tr.19). Trong Lời tựa, họ đưa ra nhận xét: “Chữ quốc – ngữ rất tiện – lợi là nhờ có năm cái dấu giọng có thể phiên – dịch đúng hết thảy các âm. Chỉ hiềm vì các âm tuy đúng, song khi gặp những tiếng đồng – âm thì viết giống nhau cả, thành ra người nào không biết chữ nho, không làm thế nào phân - biệt những nghĩa khác nhau trong những tiếng ấy...” (Việt Nam văn phạm; tr. III). Có thể nói rằng, ngay từ rất sớm, HTĐÂ, ĐN trong TV đã được quan tâm lưu ý. Ở giai đoạn này, do những hạn chế về thời đại nên chưa có những công trình có tính lí luận, những công trình tập thể còn ít, chủ yếu là những công trình dựa trên sự nỗ lực, cố gắng và kinh nghiệm của một số học giả nên thành tựu nghiên cứu chưa nhiều, còn bỏ sót nhiều vấn đề liên quan đến HTĐÂ, ĐN trong TV song bước đầu đã hé mở những vấn đề lí luận như: (1) tầm quan trọng và cái khó của việc phân biệt những ĐVĐ thuần Việt và những ĐVĐ gốc Hán khi không có chữ Hán chú kèm, (2) HTĐ giữa từ toàn dân với từ địa phương, (3) việc chuẩn hóa chính tả, chữ viết, (4) sự xung đột giữa các loại văn tự đã và đang được sử dụng (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ) trong việc nhận diện các ĐVĐÂ, ĐN của TV, (5) nhược điểm của chữ Quốc ngữ trong phản ánh các cách phát âm vùng miền, (6) phân biệt những ĐVĐ với những ĐVĐN... Từ sau 1945 đến 1975, HTĐÂ, ĐN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà Việt ngữ học. Khảo sát những công trình này chúng tôi nhận thấy, trong khi các học giả phía Nam vẫn tuân theo tôn chỉ chuẩn hóa chính tả, chữ viết và góp phần truyền bá chữ Quốc ngữ là chính thì các học giả phía Bắc lại có xu thế nghiêng nhiều về lí luận. Những quan điểm có tính lí luận ở giai đoạn này phần lớn là về vấn đề từ điển học. Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau: Năm 1947, ở Sài Gòn có Đồng âm vận tuyển của Trần Văn Khải [68]. Tiến bộ hơn Nguyễn Văn Mai, Trần Văn Khải đã phát hiện và chỉ ra những nhược điểm, những bất cập của chữ Quốc ngữ trong việc ghi âm, thể hiện giọng nói của ba miền. Tác giả đã rất chú trọng đến thao tác so sánh đối chiếu và chọn mẫu trong việc thu thập ngữ liệu: “trong quyển từ điển nầy, chúng tôi đối chiếu các tự điển ở ba kỳ và chọn lấy cách viết của phần đông, hầu ngày sau điển - chế và thống - nhứt văn – tự Việt – Nam” (Phàm lệ). Trần Văn Khải cũng đã có những cải tiến, sáng tạo hơn về phương pháp biên soạn, điều này thể hiện ở phương pháp sắp xếp các ĐVĐ của tác giả: thứ nhất, sau mỗi một đầu mục từ hay sau mỗi một hình vị được giải thích đều có đánh số Ả-Rập chỉ rõ những từ hay hình vị Đ trong đầu mục ấy. Thứ hai, nghĩa của những hình vị Đ được cho vào ngoặc đơn để phân biệt với hình vị được giải thích. Sau cùng, là việc liệt kê những kết hợp từ có chứa hình vị được giải thích. Ví dụ: Ái 1 Ch.(Yêu) : ân ái ; ái chủng ; ái đái ; ái hộ ; ái hữu ; ái kỷ ; ái quốc ; ái sủng ; ái tình ; bác ái ; bể ái ; luyến ái. 2 Ch. (giống như) : ái nam ; ái nữ. (lại đực ; lại cái). 3 Ch. (nấc cụt) : phát ái. 4 n. Êm ái ; ái đau ; ái ôi. (Đồng âm vận tuyển; tr 09). Nghĩa của các từ hay các hình vị Đ được thống kê và giải thích trong Đồng âm vận tuyển khá rõ ràng và chính xác, nhất là các hình vị Hán Việt. Theo thống kê của LA, ngoài 3647 hình vị và từ được đưa ra giải thích còn có phần Câu rời là phần thu thập thêm những kết hợp từ có chứa những hình vị được giải thích trong các mục từ trước đó và những chữ dễ gây nhầm lẫn với hình vị được đưa ra giải thích. Phần này được tác giả cấu tạo thành những câu thơ lục bát nhằm mục đích giúp người học dễ học, dễ nhớ, dễ phân biệt. Chẳng hạn, án và áng được tác giả phân biệt như sau: “Án binh, hương án, án quan Áng công danh, với áng chiến trường có g” (Đồng âm vận tuyển; tr. 10). Ngoài việc thu thập giải thích các hình vị Hán Việt, thuần Việt, Đồng âm vận tuyển còn thu thập, giải thích cả những hình vị Đ gốc Pháp. Năm 1951, có Tự- điển Việt- Nam phổ- thông của Đào Văn Tập [118]. Công trình này vẫn bộc lộ khá nhiều nhược điểm ở các khâu xác định nghĩa, sắp xếp nghĩa, phân biệt các ĐVĐN với các ĐVĐÂ. Chẳng hạn: khi xác định nghĩa của hình vị Hán Việt 白(bạch) tác giả đã gán thêm cho nó nghĩa của hình vị bạch trong các kết hợp như: bạch đinh, bạch thủ, trinh bạch khi quan niệm hình vị này ngoài cái nghĩa là “sắc trắng” ra còn có nghĩa là “sạch sẽ, sáng sủa; trắng trơn, không có của cải, không có chức tước” (Tự- điển Việt- Nam phổ- thông; tr 27). Về việc xử lí các ĐVĐÂ, Đào Văn Tập đã đem tất cả các ĐVĐ mà ngày nay được dán nhãn là “Đ được cấu tạo theo kiểu chuyển loại” như: cuốc (dt) <-> cuốc (đgt); bào (dt) <-> bào (đgt)... nhập chung vào một mục từ ĐN. (Tự- điển Việt- Nam phổ- thông; tr.139, 34). Năm 1969, đáng chú ý là quan điểm phân loại từ ĐN và từ Đ của Hoàng Phê [104, tr.3-18]. Ông cho rằng: “phân biệt HT từ nhiều nghĩa với HT từ Đ là một vấn đề khó khăn. Nhiều khi rất khó quyết định nên coi đây là một từ nhiều nghĩa hay là nên tách ra thành mấy từ ĐÂ. Trong từ điển phổ thông, nếu quan hệ giữa các nghĩa ngày nay không rõ ràng lắm, thì tốt hơn là tách ra thành Đ”. Năm 1969, Đỗ Hữu Châu [17, tr.43-50] thông qua quá trình khảo sát việc giải thích nghĩa của các ĐV từ trong TĐTV 1967 (Văn Tân chủ biên) đã thể hiện quan điểm và phương pháp xử lí nghĩa của mình đối với các ĐVĐN. Đây là một công trình thể hiện rõ những vấn đề lí luận ở giai đoạn này. Trong phần thứ nhất của bài viết, ông nhấn mạnh tầm quan trọng và những khó khăn của việc biên soạn từ điển một thứ tiếng, đặc biệt là những khó khăn trong việc giải thích nghĩa của từ TV và khẳng định: “điều quan trọng nhất là tính hệ thống trong cách làm việc”. Ở phần thứ hai, ông chỉ ra những nhược điểm thường thấy trong những quyển từ điển của ta trước đó. Trong đó, nhược điểm lớn nhất theo ông là “rời rạc, thiếu tính hệ thống”. Nhược điểm này thể hiện ở ba điểm sau: (1) Bộc lộ ở cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà hệ quả của nó là “không thể giúp cho người đọc thấy được những mối quan hệ giữa các ĐV từ vựng [...] cho rằng từ vựng chỉ là một tập hợp hỗn độn những ĐVcô lập với nhau”.(2) Bộc lộ ở cách giải thích các nghĩa khác nhau cho cùng một ĐV từ vựng mà hệ quả của nó là “người đọc từ cách giải thích đó thường không thấy được mối quan hệ giữa các nghĩa ấy như thế nào”. (3) Bộc lộ ở cách tách từ Đ và tách nghĩa của từ với những biểu hiện sau: ở những từ có cấu trúc ngữ nghĩa giống nhau thì trong trường hợp A được tách thành 04 hay 05 nghĩa nhưng ở trường hợp B lại gộp thành 01 hay 02 nghĩa. Có khi, với hai nghĩa khác nhau của cùng một từ, tác giả tách làm hai từ nhưng ở một từ khác tương tự lại được nhập làm một như trường hợp các từ băng, đèn, bay. Trong phần thứ ba, ông trình bày quan điểm của mình về cơ sở phân tách nghĩa của từ, các nguyên tắc cần chú ý khi giải thích nghĩa của từ trong từ điển. Tác giả đưa ra 02 nguyên tắc và 03 tiêu chuẩn khi giảng nghĩa của các từ như sau: Nguyên tắc thứ nhất, “khi xử lí một ĐV từ vựng nào đó về mặt nghĩa cần chú ý đến các HT giống nhau xảy ra trong toàn nhóm, tránh tình trạng cô lập đối tượng. […] Vì việc tách một ĐV thành những từ riêng rẽ có liên quan tới lí luận về ranh giới giữa HT nhiều nghĩa và HTĐ”. Đỗ Hữu Châu đề ra tiêu chuẩn tách từ Đ như sau: “nếu HT chuyển nghĩa xảy ra một cách cá biệt mà ngày nay không thể giải thích mối quan hệ giữa nghĩa ấy với các nghĩa khác của từ thì có thể tách nghĩa ấy thành một từ Đ hay một quán ngữ.... Không thể tách các từ Đ nếu HT chuyển nghĩa đó xảy ra giống nhau trong cả một loạt từ. Còn đối với các HT cá biệt thì việc có tách thành từ Đ hay không là tùy vào cách xử lí của người biên soạn và việc ấy không có ảnh hưởng gì tới toàn hệ thống”. Nguyên tắc thứ hai, “khi xử lí một từ cần nêu được thuộc tính thường trực tổ chức và chi phối các nghĩa khác nhau của từ đó”. Theo Đỗ Hữu Châu, “đối với các từ một nghĩa thì việc so sánh nó với các từ khác cùng nhóm (trái nghĩa, đồng nghĩa) là điều quan trọng. Còn đối với từ nhiều nghĩa thì ngoài việc cần so sánh với các từ cùng nhóm còn cần so sánh các nghĩa khác nhau của nó với nhau”. Về việc sắp xếp các nghĩa của từ theo thứ tự, ông cho rằng: “nên sắp xếp làm sao cho quan hệ giữa các nghĩa được nổi bật, làm sao cho thuộc tính thường trực được nổi bật và được hiện lên trong lời giải thích”. Về việc tách các nghĩa, ông đề ra ba tiêu chuẩn sau: (1) “Nếu từ được giải thích có bao nhiêu đặc điểm từ loại khác nhau thì có thể chia thành bấy nhiêu nghĩa”, (2) “nếu trong cùng một đặc điểm từ loại, từ đó có bao nhiêu đặc điểm cú pháp (đặc điểm kết hợp) thì có thể có bấy nhiêu nghĩa trong phạm vi đặc điểm từ loại ấy”, (3) “sau khi đã chia thành những đặc điểm ngữ pháp khác nhau nếu trong cùng một đặc điểm ngữ pháp, từ ấy có khả năng kết hợp với bao nhiêu từ loại khác xét về ngữ nghĩa thì có thể chia thêm thành bấy nhiêu nghĩa”. Theo ông, trong ba tiêu chuẩn trên thì các tiêu chuẩn 01 và 02 là tiêu chuẩn mạnh còn tiêu chuẩn 03 là tiêu chuẩn thứ yếu hay được dùng trong các cuốn từ điển trước đây. Xem xét quan điểm của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi thấy rằng: tác giả nhấn mạnh và chú ý nhiều tới tiêu chuẩn tính thường trực và quan điểm hệ thống trong việc xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển. Qua quan điểm này, chúng ta thấy được những khó khăn và những giải pháp của các nhà từ điển học cũng như của tác giả khi xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển, nhất là việc thu thập, sắp xếp, xử lí các từ Đ và ĐN. Năm 1971, Nguyễn Thiện Giáp [43, tr.21-27] trình bày quan điểm về HTĐ trong TV. Theo ông, có 02 đặc điểm quan trọng chi phối HTĐ trong TV là: (1) không biến hình và (2) hình vị trong TV thường trùng với âm tiết. Theo Nguyễn Thiện Giáp, từ Đ trong TV có 04 đặc điểm sau: từ đơn một âm tiết nhiều, chỉ tìm được một SL rất nhỏ từ đa âm tiết và từ ghép Đ với nhau nhờ HT chuyển loại. HTĐ trong TV ít hơn so với THHĐ bởi SLÂT cơ bản trong tiếng Hán ít hơn TV và bao giờ cũng có giá trị đối lập về ý nghĩa. Đặc điểm nổi bật của HTĐ trong TV là Đ bộ phận (Đ xảy ra giữa một hình vị cấu tạo từ với một từ một hình vị). Ông phân loại từ Đ trong TV thành 02 loại là: từ Đ hoàn toàn và từ Đ bộ phận. Từ 1976 tới nay, HTĐÂ, ĐN của TV tiếp tục nhận được sự quan tâm của các nhà Việt ngữ học. Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau: Năm 1976, đáng chú ý là quan điểm của Hồ Lê [77, tr.111-254]. Tác giả, khi trình bày về Các mẫu cấu tạo từ tiếng Việt (06 loại nguyên vị), thông qua việc lập danh sách các loại nguyên vị trong TV đã phân biệt rất rõ ràng các nguyên vị Đ trong hệ thống nguyên vị của TV. Bên cạnh công trình này Hồ Lê còn có một số công trình khác hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp bàn về HT từ ĐÂ, ĐN trong TV như: [80, tr.59-152] (khi trình bày về đặc điểm ngữ nghĩa – cú pháp của các từ loại dt, đg, tt, phụ từ; khi trình bày những tiểu loại chính trong từng loại từ, đặc biệt là khi bàn về sự phân loại đg). Về HTĐN nói chung và về từ ĐN nói riêng, ông cũng có những đóng góp và kiến giải sâu sắc về lí luận [82]. Năm 1978, Đinh Văn Đức [40, tr.31-39] đã gián tiếp bày tỏ quan điểm của mình về từ Đ (Đ do chuyển loại) và việc phân loại từ ĐÂ. Theo ông, những ĐVĐ do chuyển loại có SL không lớn, là những ĐV có chung biểu vật nhưng thuộc về những từ loại khác nhau, không có sự phân biệt về hình thái học nhưng có những đặc trưng cú pháp khác nhau, có những quan hệ mới trong những trường hợp khác nhau (khi làm chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ), bởi vậy tác giả cho rằng nên tách ra hai từ riêng biệt và nên xếp chúng vào hai từ Đ ngữ pháp và chỉ có thể phân biệt với nhau bởi các ý nghĩa ngữ pháp. Và như vậy, chúng trở thành một tiểu loại Đ (Đ ngữ pháp) bên cạnh loại Đ truyền thống là Đ ngẫu nhiên. Năm 1978, Nhữ Thành [124, tr.40-48] tìm hiểu từ Đ dưới góc độ tu từ học. Qua việc khảo sát bốn kiểu hoạt động của âm tiết TV (hoạt động độc lập thành một từ, hoạt động hạn chế với tư cách là một yếu tố CTT, hoạt động láy âm, hoạt động kết hợp đơn nhất), tác giả đưa ra 05 nhóm đối lập có thể tạo nên Đ trong cách chơi chữ cổ và 03 cách đối lập khác do vai trò của từ phiên âm trong TV hiện đại có thể tạo nên HTĐÂ. Từ việc đưa ra những nhóm đối lập trên, tác giả đã loại trừ hai HT: (1) Âm tiết phiên âm Đ với âm tiết phiên âm và (2) âm tiết láy âm Đ với âm tiết láy âm. Tiếp đó, tác giả đi vào khảo sát năm nhóm đối lập đầu tiên và kết luận “hình thức âm tiết tự do Đ với âm tiết tự do xuất hiện nhiều nhất”. Năm 1978, còn có quan điểm của Nguyễn văn Tu [138]. Quan điểm của ông tập chung chủ yếu ở chương VI (Nghĩa từ vựng và kết cấu nghĩa của từ, tr.93-179) và ở chương XV (Từ điển Việt Nam, tr.321-337). Trong chương VI, ông bàn về: nguồn gốc, cách phân loại, cách phân giới hạn từ ĐÂ. Ông chia từ Đ thành hai kiểu: (1) Từ Đ từ vựng và (2) từ Đ từ vựng – ngữ pháp. Theo tác giả, từ Đ có ba nguồn gốc sau: (1) Từ Đ ngẫu nhiên, (2) từ Đ tạo ra do sự diễn biến về ngữ âm, (3) những từ Đ do sự tách rời các ý nghĩa của một từ ĐN. Tác giả đề ra 03 cách phân biệt từ Đ và từ nhiều nghĩa: (1) tìm những dấu hiệu khách quan, (2) áp dụng “tiêu chuẩn nội dung”, (3) chú ý cả đến mặt lôgích, mặt tâm lí của nghĩa và mặt ngôn ngữ mà trong đó nghĩa tồn tại. Theo ông, trong ba cách trên, cách thứ ba là cách có hiệu năng hơn trong việc phân biệt từ nhiều nghĩa và từ Đ trong TV. Năm 1981, đáng chú ý là quan điểm của Đỗ Hữu Châu [19]. Ông cho rằng: “những ĐVĐ là những ĐV giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về ý nghĩa”. Và “chỉ nên xem là Đ thực sự khi các ĐV trong cùng một cấp độ ĐÂ.” (tr.228). Ông cũng không coi là Đ những trường hợp do cách phát âm lệch chuẩn gây ra. Lí giải nguyên nhân hình thành HTĐÂ, ông cho rằng: do sự trùng hợp ngẫu nhiên về ngữ âm, do sự rút gọn gây ra. Bàn về việc phân biệt từ Đ và từ nhiều nghĩa, Đỗ Hữu Châu cho rằng: “khó khăn nhất là phân biệt từ Đ và từ nhiều nghĩa. Có những từ mà nghĩa chuyển biến đến một mức độ nào đấy thì tách ra thành hai ba từ ĐÂ... tuy nhiên rất nhiều trường hợp chuyển nghĩa làm chúng ta băn khoăn...” Những trường hợp khó xác định theo ông là: (1) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự chuyển từ loại lớn như: cuốc (cuốc đất) và cuốc (cái cuốc), thịt (miếng thịt) và thịt (thịt một con lợn)..., (2) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự chuyển tiểu loại như: chạy (chạy trên đường) và chạy (chạy gạo)..., (3) những trường hợp nhiều nghĩa mà quan hệ giữa các nghĩa tuy đã khá mờ nhạt nhưng vẫn chưa mất hoàn toàn như: lóng (lóng tre) và lóng (lóng tay), lỏi (tốt lỏi) và lỏi (thằng lỏi)..., những khó khăn trên theo ông là vẫn chưa thể giải quyết được (tr.231-233). Năm 1989, đáng chú ý là quan điểm của Lê Quang Thiêm [130, tr.116-189]. Trong chương IV, tác giả khẳng định: “…TV, do những đặc điểm của hình vị, thường đơn nghĩa hoặc có ĐN thì cũng có SL rất hạn chế […] hình vị TV có đặc trưng nổi bật nhất là ở mặt ĐÂ. Do hình vị TV tuyệt đại bộ phận là có nghĩa, ngoài từ, phạm vi hoạt động rộng, hoàn thành nhiều chức năng nên thường có nhiều cặp ĐÂ: về (đgt), về (từ liên hệ)” (tr.117). Trong chương VII, khi bàn về Biểu hiện Đ giữa các ngôn ngữ, Lê Quang Thiêm đã chia HTĐ thành: (1) HTĐ ngẫu nhiên giữa các ngôn ngữ, (2) Đ do kết quả tiếp xúc, vay mượn, (3) HTĐ do sự giống nhau hoặc gần gũi về ngữ hệ và cấu trúc ngôn ngữ. Khi bàn về Các bình diện ĐÂ, tác giả cho rằng “Đ là những ĐV khác nhau, có hình thức ngữ âm giống nhau. Như vậy, sự khác nhau chủ yếu là về mặt nội dung. Và cần được xác định trên ba cơ sở là: (1) dựa vào sự phân biệt cấp độ (cùng hoặc khác cấp độ), (2) các loại ĐV xác định (từ, hình vị, từ tổ), (3) các mức độ khác nhau của sự Đ” (tr. 139). Theo tác giả, những ĐV giống nhau về âm thanh mà khác cấp độ thì chắc chắn là ĐÂ. Đó là những ĐVĐ khác bậc. Còn những ĐV giống nhau về âm thanh, ở cùng một cấp độ, khác nhau về nội dung thì là những ĐVĐ cùng bậc (Đ giữa từ với từ, hình vị với hình vị, từ tố với từ tố). Trong hai loại trên, Lê Quang Thiêm xếp loại 01vào Đ hình vị. Theo ông, khi phân biệt các hình vị Đ cũng nhất thiết phải dựa vào tiêu chuẩn ý nghĩa (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa tạo từ, ý nghĩa cấu trúc). Theo ông, “Trong TV, các hình vị Đ là các âm tiết, chúng có SL lớn…, TV có nhiều Đ khác bậc (từ - hình vị; từ thuần – hình vị Hán Việt)” (tr.140). Bàn về các dạng thể hiện Đ từ, ông cho rằng “loại ĐV thể hiện Đ điển hình hơn cả là từ, vì rằng từ là ĐV phức tạp về cấu trúc và ý nghĩa. Từ cũng là ĐV đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau và có nhiều hình thức thể hiện trong ngôn ngữ và trong lời nói. Xét về mặt ý nghĩa, từ cũng là ĐV phức tạp, điển hình về nghĩa”. Theo Lê Quang Thiêm “đối với Đ từ vựng, cần phải xem xét: các dạng biểu hiện Đ của từ (có ý nghĩa từ vựng khác nhau) và Đ hình thái của từ (có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau)”. Đáng chú ý là những nhận xét của tác giả về 02 khái niệm “hình thức từ” và “âm thanh từ”. Theo ông, “hình thức từ đối với nhiều ngôn ngữ hiện đại biểu hiện ở mặt âm thanh và cả chữ viết. Khi nói về sự giống nhau hay đồng nhất về hình thức thì trước hết và quan trọng nhất là âm thanh. Song mặt khác không kém phần quan trọng, mặc dầu không hoàn toàn chính xác là giống nhau về chữ viết. Chữ viết là biểu hiện kèm theo, vì hệ thống chữ viết dù là “ghi âm vị” như TV cũng còn nhiều bất hợp lí cho nên không thể dựa vào chữ viết làm chính mà chỉ xem là biểu hiện kèm theo. Đ là giống nhau về âm thanh. Đó là điều kiện tiên quyết, bắt buộc…” (tr.142). Theo tác giả, Đ hình thái là: “khi 02 hình thái từ (nói và viết) như nhau, có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau thì đó là Đ hình thái”. Theo ông, TV và các ngôn ngữ đơn lập không có Đ hình thái. Theo Lê Quang Thiêm, khi nói về Đ cần chú ý tới các dạng Đ và các thuật ngữ sau: (1) ĐT dạng: là dạng viết giống nhau của các từ khác nhau (xét về ý nghĩa từ vựng), (2) Đ dạng: là dạng nói giống nhau của những từ khác nhau (xét về ý nghĩa từ vựng), là Đ theo nghĩa rộng, (3) từ ĐÂ: là những từ khác nhau mà viết và nói như nhau, hay là từ Đ hoàn toàn, Đ theo nghĩa hẹp, (4) Đ hình thái: là Đ ngữ pháp, đó là những hình thái của cùng một từ, giống nhau về mặt âm thanh và chữ viết, có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau. Khi bàn về đặc điểm của sự thể hiện Đ ở các ngôn ngữ (tr 144) Lê Quang Thiêm cho rằng: “ (1) TV là ngôn ngữ không biến đổi hình thái từ để biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp nên tiêu chuẩn quan trọng để xác định từ Đ hoàn toàn là khả năng kết hợp của từ, (2) Đ bộ phận (thường là các từ Đ khác từ loại, khả năng kết hợp ngữ pháp khác nhau) như: về 1 (về nhà) về 2 (bàn về)…, (3) Đ dạng, có khi không được thể hiện ra bằng chữ viết cho nên không thể căn cứ vào chữ viết để xác định: ty 1 (ty; sở); ti 2 (cái ti). Trong TV, HTĐ dạng xảy ra với từ có cách viết với các âm vị: k – k, c; i – y; z – d, gi… như: cuốc 1 (cái cuốc) và quốc 2 (tổ quốc); dây 1 (sợi dây) và giây 2 ( giây phút), (4) khi bàn về Đồng tự dạng trong TV phải chú ý tới khả năng khu biệt nghĩa của thanh không dấu, (5) TV không biến đổi hình thái nên không có vấn đề đồng hình thái”. Theo Lê Quang Thiêm, “HTĐN là HT một ĐV ngôn ngữ mà cấu tạo nội dung của nó có nhiều nghĩa khác nhau… là HT phổ biến trong mọi ngôn ngữ”. (tr.174). Chọn cách hiểu “từ ĐN là từ mà nội dung bao gồm một số nghĩa khác nhau, các nghĩa này lập thành một hệ thống nằm trong các mối quan hệ liên kết với nhau, gồm một vài nét nghĩa chung và nhiều nét nghĩa loại biệt. Các nét nghĩa loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại được đặt cơ sở trên một số giống nhau về chức năng, hình thức hoặc thuộc tính nào đó của đối tượng”. Ông nhấn mạnh: “ĐN từ vựng trước hết là ĐNBN vì đó là dạng nghĩa khái quát, ổn định, mang tính hệ thống cao […]. Nhờ có tính hệ thống ổn định này mà ta mới có thể phân lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty nhất định trong TĐ […]. Dựa trên cấu trúc biểu niệm thì mới có cơ sở để đối chiếu đặc điểm ĐN của mỗi ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, như là thành tựu được tập thể ngôn ngữ ấy xây dựng nên. Nó cũng cho phép thấy rõ cái chung và cái riêng của từ ĐN trong tất cả các lớp từ, các từ loại cơ bản của ngôn ngữ.” (tr.178). Trong công trình này, Lê Quang Thiêm sau khi phân tích các dt, đg, tt trong 37.088 từ TV đã đưa ra số liệu: trong TV, từ đơn nghĩa chiếm 61,48 %; từ ĐN chiếm 38,52 %. Và chỉ ra sự phân bố về tỷ lệ ĐN qua các từ loại chính như sau: ĐỘNG TỪ DANH TỪ ĐN Đơn nghĩa 30,16 % ĐN 69,84 % TÍNH TỪ Đơn nghĩa 31,48 % ĐN 69,52 % Đơn nghĩa 27,70 % 72,30 % Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ; tr.178, 179. Bàn về đặc điểm tổ chức nội dung của từ ĐN, ông chỉ ra tình hình phân bố DLN của các ĐVĐN trong TV (tính theo tỷ lệ %) như sau: 02 03 04 05 06 07 08 09 10 79,30 % 12,60 6,38 1,82 0,82 0,53 0,54 0,17 0,12 % % % % % % % % 11 12 13 0,9 0,08 …. % % Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, tr.184. Với quan điểm đồng đại, Lê Quang Thiêm cho rằng: nghĩa cơ bản là nghĩa có chứa các nét nghĩa được đặt điều kiện chủ yếu bằng các quan hệ hệ hình. Nghĩa không cơ bản là nghĩa mà các nét nghĩa tạo nên chúng phụ thuộc nhiều vào các quan hệ cú đoạn. Trong một từ ĐN, có một nghĩa cơ bản và một số nghĩa không cơ bản. Sự phân biệt nghĩa cơ bản, không cơ bản của một từ có thể dựa vào các mức độ khác nhau của sự phụ thuộc nhiều hơn vào các quan hệ hệ hình và ít hơn vào các quan hệ cú đoạn. Theo Lê Quang Thiêm, mối quan hệ về nghĩa về mặt đồng đại được tổ chức theo 03 loại hình là: loại kế tiếp, loại song song, xen kẽ kế tiếp với song song. Trong đó: (1) mối quan hệ kế tiếp là quan hệ đặc trưng cho từ chỉ có 02 nghĩa và những từ nhiều hơn hai nghĩa mà các nghĩa liên kết nhau theo tổ chức đơn tuyến, (2) mối quan hệ song song chỉ xuất hiện ở những từ trên hai nghĩa mà các nét nghĩa liên kết theo tổ chức đa tuyến (tổ chức hình cây, tẽ nhánh), (3) mối quan hệ xen kẽ giữa kế tiếp và song song xẩy ra với những từ trên 03 nghĩa và theo một tổ chức phức hợp. Bàn về giới hạn của việc phân li ĐN thành Đ và tiêu chuẩn xác định những ĐVĐ ngữ nghĩa ông cho rằng: “sự tồn tại hay vắng mặt nét nghĩa chung trong các nghĩa của từ ĐN là tiêu chuẩn xác định ĐN và Đ ngữ nghĩa”. Trong công trình này, tác giả còn nhấn mạnh đến việc cần thiết phải phân biệt các loại quan hệ tôn ty giữa các loại nghĩa trong từ ĐN khi biên soạn TĐ đồng đại và TĐ lịch đại. Theo ông, cần phân biệt hai loại quan hệ tôn ty sau: (1) tôn ty theo tuần tự phái sinh, phát triển (tôn ty lịch đại) để phân biệt nghĩa gốc, nghĩa phái sinh và các nghĩa phái sinh thứ cấp, (2) tôn ty hiện hành (tôn ty đồng đại) để phân biệt nghĩa cơ bản, nghĩa không cơ bản định danh, nghĩa không cơ bản hình tượng (nghĩa bóng). Theo ông thì: “đối với những từ có từ 2 nghĩa trở lên thì việc phân biệt theo tôn ty nhiều khi không thực hiện được vì rất khó xác định niên đại và mô tả 2 ý nghĩa cùng loại. Đặc biệt là đối với kiểu sơ đồ cấu trúc nghĩa có quan hệ hình nhánh”. Đây là một nhận xét rất chính xác. Năm 1992, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang [31]. Hai tác giả này khi phân tích các câu mơ hồ trên chữ viết, các kiểu câu mơ hồ về từ vựng đã gián tiếp bình luận tới nguyên nhân và tác dụng của từ Đ và từ ĐN (tr. 88, 91- 93) đồng thời chỉ ra các kiểu Đ trong các từ loại, nhất là trong các từ loại có SL lớn như dt, đg, tt (tr.113-116). Họ không những khảo sát và chỉ ra HT mơ hồ do việc sử dụng những từ đơn tiết Đ mà còn khảo sát sự mơ hồ do sử dụng những ngữ ĐÂ, chuỗi Đ (tr.113-120) và từ Đ Hán Việt gây ra như: đồng tử 1 và đồng tử 2 (tr.120). Năm 1995, đáng chú ý là quan điểm của Phan Ngọc [100, tr.51-74]. Tuy mục đích là bàn về phong cách, song qua những lập luận của tác giả, ta có thể thấy được quan điểm của ông về HTĐ trong TV. Phan Ngọc khẳng định “Mọi ngôn ngữ đều có HTĐ vì vỏ ngữ âm của từ là võ đoán, không liên can gì đến nội dung của nó […] kết quả là một hình thức ngữ âm có thể hiểu hai ba cách”. Theo tác giả, “HTĐ chỉ phổ biến ở những từ chỉ có một hay hai âm tiết mà thôi, trái lại, rất hiếm ở những từ ba âm tiết trở lên […]. Mặt khác, ở các ngôn ngữ đơn tiết như tiếng Hán, TV, tiếng Thái…số từ Đ phải lớn hơn ở các ngôn ngữ đa tiết.” (tr. 66). Theo Phan Ngọc, nếu đã thừa nhận trong TV có 3 lớp từ là thuần Việt, Hán Việt, láy âm thì về mặt lí thuyết, tối đa chỉ có 6 kiểu từ Đ sau: (1) thuần Việt - thuần Việt, (2) láy âm - láy âm, (3) thuần Việt - láy âm, (4) Hán Việt - thuần Việt, (5) Hán Việt - láy âm, (6) Hán Việt - Hán Việt. Từ việc xác lập 6 kiểu từ ĐÂ, ông lần lượt đi vào khảo sát từng kiểu một và khẳng định: “tuy về mặt cấu trúc có thể có sáu kiểu từ ĐÂ, nhưng một khi TV đã là đơn tiết, thì chắc chắn HTĐ giữa từ thuần Việt với từ thuần Việt phải là cơ bản nhất, tức là quen thuộc nhất… tần số xuất hiện nhiều nhất, làm cơ sở cho mọi HTĐ khác” (tr. 67). Theo kết quả khảo sát, phân tích của Phan Ngọc thì đứng ở vị trí thứ hai trong sáu kiểu Đ là kiểu Hán Việt - Hán Việt. Trong bài viết, Phan Ngọc còn lí giải một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới HTĐ trong TV khác với HTĐ trong THHĐ là do SL âm tiết thực sử dụng của tiếng Hán ít hơn so với TV. Năm 1998, đáng chú ý là quan điểm của của Nguyễn Thiện Giáp [47, tr.147-189]. Tác giả phân chia từ vựng TV thành hai loại là từ, ngữ (ngữ định danh, thành ngữ, ngữ láy âm, quán ngữ). Ông cho rằng “từ của TV là một chỉnh thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết, một khối viết liền” (tr 69). Ông quan niệm “nghĩa của từ là quan hệ” (tr. 125), bao gồm 04 thành tố sau: (1) nghĩa sở chỉ, (2) nghĩa sở biểu, (3) nghĩa sở dụng, (4) nghĩa kết cấu. Tác giả chia các từ của TV thành năm loại: (1) các từ kiểu một như: nhà, đẹp, đi…, (2) các từ kiểu hai như: sẽ, tuy, với…, (3) các từ kiểu ba như: quốc, thủy, hỏa…, (4) các từ kiểu bốn như: búa (chợ búa), lạnh (lạnh lẽo)…, (5) các từ kiểu năm như: bù, nhìn, bồ, hóng…. Theo ông, HTĐN trong TV có những đặc điểm riêng sau đây: (1) để biểu thị những SV, HT hoặc khái niệm mới, TV có thiên hướng cấu tạo các ĐV từ vựng mới hơn là phát triển nghĩa của các ĐV từ vựng đã có từ trước, (2) số ĐV có nhiều nghĩa cũng như số nghĩa trong những từ ĐN của TV đều thấp hơn so với nhiều ngôn ngữ khác, trong khi đó, SL các ĐV từ vựng mới tăng lên rất nhanh, đặc biệt là những ĐV hai âm tiết, (3) HTĐN của TV chủ yếu xảy ra ở các từ, ở các ngữ thì tỷ lệ ĐN chỉ khoảng 1/10 và cũng chỉ có hai hoặc ba nghĩa mà thôi. Các ngữ ĐN phần lớn là có nguồn gốc Hán. Theo Nguyễn Thiện Giáp, HT từ ĐN của TV chỉ bao gồm 2 kiểu sau đây: (1) HTĐN của các từ kiểu một (nhà, đẹp, đi) và (2) HTĐN của các từ kiểu ba (quốc, thủy, hỏa). Tiến hành thống kê, phân tích những từ ĐN kiểu một trong TĐTV do Văn Tân chủ biên, ông nhận xét: (1) số từ ĐN chiếm khoảng 33% tổng số (33% tổng số từ kiểu một, là những từ thuần Việt và đều là đơn tiết), trong đó những từ có 2 và 3 nghĩa chiếm khoảng 86% tổng số từ ĐN, từ nhiều
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất