Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục việt...

Tài liệu đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục việt nam hiện nay

.PDF
167
95
128

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n vò thÞ h»ng §éi ngò trÝ thøc ë c¸c tr-êng ®¹i häc trong viÖc x©y dùng triÕt lý gi¸o dôc ViÖt Nam hiÖn nay luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Hµ néi - 2015 ®¹i häc quèc gia hµ néi tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n vò thÞ h»ng §éi ngò trÝ thøc ë c¸c tr-êng ®¹i häc trong viÖc x©y dùng triÕt lý gi¸o dôc ViÖt Nam hiÖn nay Chuyªn ngµnh : Chủ nghĩa duy vật biện chứng vµ chñ nghÜa duy vËt lÞch sö M· sè : 62 22 80 05 luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: PGS.TS Ph¹m Ngäc Thanh Hµ néi - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phạm Ngọc Thanh. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. T¸c gi¶ luËn ¸n Vũ Thị Hằng Môc lôc Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI 6 ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Một số công trình nghiên cứu về giáo dục và triết lý giáo dục 6 1.2. Một số công trình nghiên cứu về trí thức, về đội ngũ trí thức ở các 19 trường đại học và vai trò của họ trong xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam 1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án Chương 2: ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG 26 29 VIỆC XÂY DỰNG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 2.1. "Triết lý giáo dục" và xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam 29 2.2. Đội ngũ trí thức ở các trường đại học và vai trò của họ đối với việc 56 xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam Chương 3: ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG 78 VIỆC XÂY DỰNG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong 78 việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay 3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay 105 Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI 118 TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG VIỆC XÂY DỰNG TRIẾT LÝ GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Đổi mới cơ chế, chính sách, bảo đảm môi trường thuận lợi để đội 118 ngũ trí thức ở các trường đại học phát huy vai trò của mình trong việc xây dựng triết lý giáo dục 4.2. Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ trí thức ở các trường đại 133 học nhằm đáp ứng công cuộc đổi mới toàn diện, triệt để giáo dục và đào tạo theo hướng tiên tiến, hiện đại 4.3. Nâng cao nhận thức xã hội, đề cao trách nhiệm vai trò của đội ngũ 140 trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN 151 ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo KH&CN : Khoa học và công nghệ XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) là lĩnh vực hoạt động xã hội đặc biệt, có vai trò đào tạo, cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng và Nhà nước luôn coi trọng phát triển GD&ĐT, đã nhiều lần tiến hành cải cách, đổi mới giáo dục. Những năm gần đây, Nhà nước không ngừng tăng ngân sách đầu tư cho phát triển GD&ĐT. Tuy nhiên, chất lượng GD&ĐT của nước ta còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân là Việt Nam thiếu triết lý giáo dục phù hợp, chỉ đạo và định hướng toàn bộ hoạt động giáo dục trong tình hình mới. Tại buổi thăm và làm việc với các đại biểu chủ chốt của Bộ GD&ĐT nhân dịp đầu năm học mới 9/2012, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, chúng ta cần hình thành một triết lý về giáo dục, chú ý phát triển khoa học giáo dục Việt Nam, coi đây là nền tảng lý luận để tiến hành đổi mới giáo dục - đó là sự nghiệp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, là trách nhiệm chung, nhưng trước hết là của gia đình, xã hội và các đoàn thể, trong đó đội ngũ trí thức ở các trường đại học đóng vai trò là lực lượng nòng cốt, trực tiếp xây dựng và triển khai thực hiện triết lý giáo dục trong thực tiễn. Đường lối xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo cách mạng là "độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội" đã được Hiến pháp qui định qua các thời kỳ, và tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013. Hội nhập quốc tế, chúng ta tiếp thu vận dụng khoa học và công nghệ (KH&CN), kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế giới để phát triển. Nhưng, mọi lĩnh vực hoạt động của Việt Nam vẫn phải bảo đảm nhân tố "định hướng xã hội chủ nghĩa". Nền giáo dục của Việt Nam, trong đó có triết lý giáo dục Việt Nam không thể nằm ngoài định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Triết lý giáo dục chính là những quan điểm, cốt lõi, nguyên tắc cơ bản định hướng, chỉ đạo cả hệ thống giáo dục. Ở Việt Nam hiện nay, tuy chưa có sự công bố chính thức về triết lý giáo dục Việt Nam, song nhiều 1 nội dung của triết lý giáo dục đã có trong quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hiến pháp, chính sách của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về giáo dục, Luật Giáo dục... Nhiều cuộc hội thảo khoa học, sách báo trong nước và quốc tế, nhiều cá nhân và tập thể... cũng đã bàn về triết lý giáo dục Việt Nam. Như vậy, triết lý giáo dục Việt Nam vẫn đang trong quá trình xây dựng, hoàn thiện. Đó là những cơ sở rất quan trọng và cần thiết để tác giả luận án này nghiên cứu và góp phần vào quá trình xây dựng, hoàn thiện, phát triển triết lý giáo dục Việt Nam trong thực tiễn đổi mới hiện nay. Những năm qua, đội ngũ trí thức ở các trường đại học là lực lượng nòng cốt trong quá trình xây dựng và thực hiện triết lý giáo dục. Bởi vì, đây là lực lượng vừa trực tiếp thử nghiệm, "thi công", vừa phản biện, hiện thực hóa triết lý giáo dục. Họ là những người có trình độ trí tuệ cao, có khả năng đưa giáo dục Việt Nam phát triển hội nhập quốc tế; là chủ thể luôn tích cực, sáng tạo những tri thức mới, tiếp cận nhanh với khoa học và tiến bộ của nhân loại. Phần lớn đội ngũ trí thức ở các trường đại học là những người trực tiếp "thi công", giảng dạy, nghiên cứu khoa học hiện thực hóa những mục tiêu, nội dung, phương thức giáo dục trong nhà trường. Một bộ phận trí thức tiêu biểu khác ở các trường đại học là những người tham gia, tư vấn trực tiếp vào việc hoạch định chương trình, chiến lược, chính sách của Đảng, Nhà nước về giáo dục. Cụ thể là những thành viên của Hội đồng giáo dục quốc gia tiêu biểu như: Nguyễn Thị Bình, Phạm Minh Hạc, Hoàng Tụy, Hoàng Xuân Sính,… Họ đều là những trí thức có tâm huyết, gắn bó lâu dài với sự nghiệp GD&ĐT và góp phần xây dựng những chiến lược phát triển giáo dục đất nước. Tuy nhiên, trước sự thay đổi của xã hội, cần phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao, một trong ba đột phá chiến lược mà Đại hội Đảng XI đề ra, đội ngũ trí thức ở các trường đại học nước ta chưa phát huy hết vai trò, tính tự giác, tích cực của mình đối với hoạt động giảng dạy và nghiên cứu; tinh thần phản biện độc lập còn hạn chế,… đặc biệt trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam. Nghiên cứu vai trò đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa 2 thực tiễn sâu sắc góp phần thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT và thực hiện thành công một trong ba khâu đột phá chiến lược là đột phá về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong điều kiện mới. Đồng thời, đây là một vấn đề mới mẻ, những nghiên cứu về đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam còn tản mạn và dưới nhiều góc độ tiếp cận khác nhau, chưa có hệ thống. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu vấn đề này một cách cơ bản, hệ thống, chuyên sâu góp phần cung cấp cơ sở lý luận khoa học để đánh giá đúng vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học đối với sự nghiệp phát triển GD&ĐT nói chung và với việc xây dựng triết lý giáo dục nói riêng. Từ những lý do trên và trong phạm vi giới hạn của một luận án tiến sĩ triết học, chúng tôi lựa chọn vấn đề "Đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích: Luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích đó, luận án giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau đây: Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam. Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng vai trò và chỉ rõ một số vấn đề đặt ra cần tập trung giải quyết nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay. 3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa 3 Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức, trí thức ở các trường đại học và về GD&ĐT gắn với điều kiện lịch sử cụ thể của giáo dục nước ta hiện nay. Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp, cấu trúc - hệ thống, lôgic - lịch sử, một số phương pháp liên ngành như tổng kết thực tiễn, so sánh,… 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu: Đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Từ góc độ triết học, luận án chủ yếu tập trung làm rõ vai trò đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam từ năm 1996 đến nay. 5. Đóng góp mới của luận án Thứ nhất, từ góc độ chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án đã làm rõ một số khái niệm: "Triết lý", "Triết lý giáo dục", "Xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam" và vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam. Thứ hai, đánh giá đúng thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay; xác định một số vấn đề đặt ra trong quá trình đội ngũ này tham gia xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay. Thứ ba, trên cơ sở xác định những hạn chế và một số vấn đề đặt ra, luận án đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Ý nghĩa lý luận: Luâ ̣n án góp phần làm rõ những đóng góp và nâng cao vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong việc xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam hiện nay. Kết quả của luận án góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lí 4 luận về vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học trong GD&ĐT nói chung, xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam nói riêng. Ý nghĩa thực tiễn: Luâ ̣n án có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những vấn đề liên quan; góp thêm luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, biện pháp để xây dựng một triết lý giáo dục mới và chính sách phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở các trường đại học Việt Nam hiện nay, nhằm thực hiện thành công đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT; hoàn thành khâu đột phá thứ hai mà Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Giáo dục và đào tạo không chỉ là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm mà còn là vấn đề của toàn xã hội. Nghiên cứu về vấn đề này, gần đây, đã có rất nhiều các công trình khoa học trong và ngoài nước đề cập đến ở những góc độ, khía cạnh khác nhau, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu và việc sử dụng các phương pháp cụ thể. Nghiên cứu về GD&ĐT, triết lý giáo dục, xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học, nhiều cơ quan và tổ chức trong nước cũng như quốc tế quan tâm. Liên quan đến đề tài luận án, có thể phân loại các công trình nghiên cứu thành các nhóm cơ bản sau đây. 1.1. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ GIÁO DỤC VÀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, GD&ĐT luôn chiếm một vị trí quan trọng. Giữa thế kỷ XIX, các nhà kinh điển mác-xít luôn quan tâm và chỉ rõ vai trò của GD&ĐT đối với việc phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nhân cách của con người. Tuy không có tác phẩm chuyên biệt nào bàn riêng về GD&ĐT, nhưng những tư tưởng, luận điểm của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin về giáo dục được trình bày xuyên suốt cùng với hệ thống các luận điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Các tác phẩm đã phản ánh những tri thức sâu sắc, toàn diện về giáo dục. Các ông là những người đầu tiên nghiên cứu giáo dục một cách khoa học thông qua việc xác định mục đích, tính chất, vai trò, nguyên lý, phương pháp, hình thức, nội dung giáo dục… và khẳng định rằng: "bản thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục" [64, tr. 10]. Những tư tưởng về giáo dục của C. Mác, Ph. Ăngghen được tổng kết thời kỳ đầu của cách mạng công nghiệp, V.I. Lênin và các nhà giáo dục Nga đã tiếp tục phát triển và đưa lên thành nguyên tắc cơ bản của nền giáo dục XHCN, sau này các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã kế thừa, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn giáo dục nước nhà. 6 Nhận thức được giáo dục ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt trong giai đoạn xuất hiện nền kinh tế tri thức, nên các công trình nghiên cứu liên quan đến giáo dục, triết lý giáo dục ngày càng phong phú, đa dạng với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. 1.1.1. Một số công trình nghiên cứu về giáo dục - đào tạo, giáo dục đại học Một số công trình ở nước ngoài: "Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống", (2007) [57], của học giả Krishnamurti, đã phân tích tầm quan trọng, giá trị của một nền giáo dục đích thực. Sứ mạng của giáo dục là đào tạo những con người toàn vẹn, giúp chúng ta khám phá ra những giá trị muôn đời. Cuốn sách phân tích rõ vai trò của giáo dục đối với xã hội phát triển, đối với cuộc sống. Cuốn "Nền giáo dục cho thế kỷ 21: Những triển vọng của Châu Á Thái Bình Dương về canh tân giáo dục vì sự phát triển", (1994) [96], của tác giả Raja Roy Singh… cũng bàn luận về nhiều vấn đề đổi mới, canh tân giáo dục vì sự phát triển trong thế kỷ 21, phù hợp với điều kiện, tình hình mới của các nước Châu Á - Thái Bình Dương. Cuốn "Cải cách giáo dục ở các nước phát triển ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Oxtraylia", (2010) [40], do tác giả Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh (chủ biên), cho thấy công cuộc cải cách giáo dục ở các nước phát triển, từ mô hình giáo dục cho đến nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục không chỉ có trong nhà trường mà còn ở gia đình, xã hội, tùy theo lứa tuổi mà nội dung giáo dục khác nhau; mỗi một nước khác nhau thì việc cải cách diễn ra khác nhau và hiệu quả khác nhau… Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH&CN làm cho GD&ĐT có những biến đổi mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, đó là giáo dục đại học. Do đó, đã có nhiều tổ chức, hội nghị quan tâm sâu sắc đến hệ thống giáo dục đại học như: "Highter Education in the Twenty - first Century, Vision and Action" (Giáo dục đại học thế kỷ XXI, Tầm nhìn - Hành động) (1998), là khẩu hiệu của Hội nghị thế giới đầu tiên do UNESCO tổ chức. Đây là công trình nghiên cứu quốc tế quan trọng khẳng định "sự nghiệp trồng người" phải được giữ gìn, củng cố và phát triển một cách có trách nhiệm; đồng thời khẳng định: sứ mạng của các hệ thống giáo dục đại học là giáo dục những người tốt nghiệp có chất lượng cao, những công dân có trách nhiệm… Chất lượng ở đây bao trùm mọi chức năng và hoạt động của nó: giảng dạy, 7 đào tạo, nghiên cứu khoa học, đội ngũ giảng viên, sinh viên, cấu trúc hạ tầng và môi trường giáo dục v.v... Một số công trình trong nước: Từ khi đổi mới, vấn đề giáo dục cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm như một cái toàn thể, xem xét ở mọi góc độ khác nhau, có thể kể đến một số công trình sau: "Phát triển giáo dục, phát triển con người phục vụ phát triển xã hội - kinh tế", (1996) [43] và "Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI", (1999) [54] của tác giả Phạm Minh Hạc,... Đặc biệt, "Những vấn đề về chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa", (1998) [119] của Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục, gồm 9 tập,... Các tác giả đã thấy được yêu cầu phải xây dựng nền giáo dục phát triển để đáp ứng trong thời kỳ mới, đưa ra một số các giải pháp chiến lược nhằm xây dựng và phát triển giáo dục nước ta, đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng thời kỳ CNH, HĐH đất nước. "Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài", (2002) [123] của Nghiêm Đình Vỳ, Nguyễn Đắc Hưng, gồm hai phần chính: Phần thứ nhất, khái quát giáo dục Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại, đặc biệt là đã phân tích nhiều nội dung sâu sắc những vấn đề đặt ra và nhiệm vụ của giáo dục Việt Nam trong thế kỷ XXI. Các tác giả đã khẳng định sự xuất hiện của nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi nhận thức về vị trí, vai trò của các nguồn lực, đồng thời tạo ra những thời cơ, thách thức đối với sự nghiệp giáo dục Việt Nam. Phần thứ hai, phân tích nội dung về lý luận và thực tiễn trong việc phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ nhân tài. Bước vào xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, vai trò của giáo dục ngày càng được khẳng định với những sứ mệnh mới. Do đó, vấn đề giáo dục được quan tâm nhiều hơn, cụ thể là các công trình: "Giáo dục Việt Nam tiếp tục đổi mới để phát triển và hội nhập", (2003) [83], Trần Văn Nhung… Đặc biệt là cuốn "Những vấn đề giáo dục hiện nay: Quan điểm và giải pháp", (2007) [81], nhiều tác giả, gồm nhiều bài viết quan trọng về các vấn đề mấu chốt và cấp bách của giáo dục. Cuốn sách gồm hai phần. Phần thứ nhất bao gồm những bài viết mang tính chất dẫn luận, trong đó có trích dẫn phát biểu của 8 Einstein về giáo dục và ý kiến quan trọng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục nước nhà; các ý kiến phỏng vấn Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân về vấn đề giáo dục được đăng tải trên các báo gần đây. Phần thứ hai là hai bản đề án, kiến nghị của hai tập thể các nhà khoa học trong nước (Hoàng Tụy cùng cộng sự) và cả ở nước ngoài (Vũ Quang Việt cùng cộng sự). Đây là hai bản đề án, kiến nghị được soạn thảo công phu, một cách khoa học và mang tính thực tiễn đã được gửi lên các cơ quan cao cấp nhất của Đảng và Nhà nước từ vài năm trước đây. Cuốn sách đã thể hiện có rất nhiều trí thức, nhà khoa học, chuyên gia quan tâm đến nền giáo dục nước nhà. "Giáo dục: Xin cho tôi nói thẳng", (2012) [115], của GS. Hoàng Tụy - người đã gắn bó với giáo dục 60 năm nay. Ông và các cộng sự kiên trì đề xuất những phương án khắc phục những bất cập trong giáo dục một cách quyết liệt. Điển hình là hai bản kiến nghị của các nhà khoa học về cải cách giáo dục năm 2004 [115, tr. 118] và năm 2009 [115, tr. 260] mà chính ông là người chủ trì và chấp bút. Đó là những trăn trở, đầy tâm huyết, trí tuệ và trách nhiệm đối với nền giáo dục nước nhà. Ông hy vọng Việt Nam có một "cuộc cải cách toàn diện và triệt để nền giáo dục" hiện nay [115, tr. 10]. "Giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ XXI", (2013) [11], Bộ GD&ĐT. Cuốn sách gần đây nhất của Bộ GD&ĐT nêu một cách khái quát thực trạng giáo dục Việt Nam hiện nay và định hướng phát triển lớn của nền giáo dục nước ta trong thời gian tới. Đó cũng là những kỳ vọng của mọi người đối với một nền giáo dục của dân tộc. Các công trình trên đều nhận thấy rõ GD&ĐT ở giai đoạn nào cũng được Đảng và xã hội quan tâm, nhưng GD&ĐT ở nước ta vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, do đó cần phải đổi mới. Các nhà giáo dục, nhà nghiên cứu đã bàn luận sôi nổi và hướng đến căn nguyên cội nguồn của GD&ĐT nước nhà là chúng ta đang thiếu vắng một triết lý giáo dục. Các công trình đều cho rằng, giáo dục nước ta thời gian tới phải làm tốt hơn công tác quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng GD&ĐT, đặc biệt là vai trò của giáo dục đại học. Do đó, đã có nhiều công trình nghiên cứu về giáo dục đại học như: 9 "Đổi mới giáo dục đại học và hoạt động khoa học - công nghệ" (2010) [39], Nguyễn Văn Đạo. Cuốn sách là tập hợp các bài viết phản ánh một tư duy lý luận hết sức sâu sắc và đầy tâm huyết về giáo dục đại học và KH&CN. "Về khuôn mặt mới của giáo dục đại học Việt Nam" (2011), [87], Phạm Phụ, gồm 2 tập. Tập 1 xuất bản tháng 11/2005 tập hợp gồm 52 bài báo, tham luận trong 10 năm từ 1996 - 2005; tập 2 gồm 68 bài trong năm năm từ 2005 - 2010. Tác giả tiếp tục làm rõ những vấn đề "nóng" của giáo dục như: Học phí và quỹ cho sinh viên vay vốn, "xã hội hóa" giáo dục, "Hội đồng trường" ở các trường đại học, chiến lược và cải cách giáo dục, giáo dục Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế…, đó là những cơ sở hết sức cần thiết cho những chính sách giáo dục đại học Việt Nam đang có những biến đổi sâu sắc, có tính chất nguyên lý, tính chất "ý thức hệ" trong giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. "Xuất nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học của Việt Nam", (2011) [12], của tác giả Hoàng Văn Châu, là một công trình với cách tiếp cận mới đối với giáo dục đại học, cuốn sách đã giải quyết những vấn đề như xuất nhập khẩu dịch vụ giáo dục, và vấn đề xuất nhập khẩu dịch vụ giáo dục đại học ở nước ta hiện nay. Ngoài sách chuyên khảo như trên, còn có một số các đề tài nghiên cứu như: "Xu hướng cải cách giáo dục của một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam", (2011) [120], các tác giả Viện Thông tin Khoa học xã hội với đề tài nghiên cứu cấp Bộ. Đề tài đi phân tích mục tiêu, yêu cầu cải cách giáo dục, đặc điểm chiến lược cải cách, xu hướng cải cách và các vấn đề đáng chú ý trong nội dung chính sách cải cách giáo dục của một số nước trên thế giới. Từ đó, trình bày một số bài học kinh nghiệm có ý nghĩa gợi mở cho công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục Việt Nam về việc xây dựng hệ thống học suốt đời; phổ cập giáo dục; phân luồng học sinh; hoạt động quản lý dựa vào nhà trường; cải cách mục tiêu giáo dục phù hợp thực tế; xây dựng chương trình giáo dục; chính sách cho giáo viên; phương pháp cải cách giáo dục; vấn đề giáo dục đại học; kết hợp giáo dục đào tạo với nghiên cứu khoa học… Ngoài ra, còn có nhiều bài viết trên các tạp chí tiếp cận xung quanh các vấn đề giáo dục, giáo dục đại học ở nhiều phương diện khác nhau... 10 1.1.2. Một số công trình nghiên cứu về triết lý giáo dục, triết lý giáo dục Việt Nam Có thể thấy, đối với các công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan đến những tư tưởng triết học về giáo dục trên nhiều khía cạnh khác nhau, rất phong phú. Nhưng các công trình trực tiếp bàn về triết lý giáo dục thì còn rất khiêm tốn, mới chỉ dừng lại ở những bài viết trong các kỷ yếu, tạp chí khoa học hoặc tồn tại dưới dạng các tư tưởng, quan điểm trong những công trình nghiên cứu, chứ không phải viết dưới dạng hệ thống chuyên sâu. Một số công trình nước ngoài về triết lý giáo dục: "Modern Philosophies of Education" (Triết học giáo dục hiện đại), (1962) [129] của tác giả John S. Brubacher. Cuốn sách phân tích các trường phái triết học bàn về những vấn đề của giáo dục, từ tiểu học đến giáo dục đại học như sự tồn tại bản chất của con người, lý thuyết về tri thức, mối quan hệ giữa chính trị và giáo dục, giáo dục và xã hội, nhà nước và giáo dục. Đầu những năm 90 thế kỷ trước, các nhà triết học giáo dục Hoa Kỳ đã công bố nhiều công trình nghiên cứu sâu về quá trình hình thành triết học giáo dục. Đặc biệt là cuốn "A New History of Educational Philosophy" (Lịch sử mới của triết học giáo dục), (1993) [128] của James S. Kaminsky và cuốn "Philosophy of Education: An Encyclopedia", (Bách khoa thư về triết học giáo dục), (1996) [126] do J. J. Chambliss chủ biên, xuất bản tại New York & London (bài "History of Philosophy of Education" của J. J. Chambliss). Ngoài ra, một số triết lý giáo dục của các nhà triết học giáo dục hầu như được viết cùng với hệ thống những quan điểm chính trị, xã hội, văn hóa, giáo dục… nói chung. Ở Trung Quốc, liên quan đến vấn đề này cũng có hai giáo trình tiêu biểu: "Giáo dục triết học đại cương", (1998) [121], của Hoàng Tế và "Triết học giáo dục", (1997) [51], của Lương Vĩ Hùng và Khổng Khang Hoa. Qua hai giáo trình triết học giáo dục Trung Quốc có thể nhận thấy rằng: tư tưởng chỉ đạo nền giáo dục Trung Quốc và Việt Nam có nét tương đồng. Nội dung trong giáo trình của Hoàng Tế có nhiều điểm giống như những vấn đề chung của giáo dục trong chương trình giáo dục học đại cương của Việt Nam. Cuốn sách làm rõ bản chất của giáo dục là sự 11 thống nhất biện chứng giữa con người và xã hội, tác giả đi sâu vào những vấn đề mang tính triết lý giáo dục hiện đại có thể chi phối, chỉ đạo các khâu, các lĩnh vực cụ thể của giáo dục, từ phương châm, mục đích, chức năng, nội dung, phương pháp, chính sách, cơ chế giáo dục… ảnh hưởng trực tiếp, quyết định tất cả các cấp của nền giáo dục. Mục đích cần đạt tới của công cuộc cải cách giáo dục là đào tạo lớp người mới, thế giới quan và nhân sinh quan tiến bộ, biết và dám độc lập suy nghĩ, biết cách tự mình chiếm lĩnh lấy kiến thức, tự mình khám phá ra chân lý, từ đó làm chủ cuộc sống của mình, của đất nước. Trong cuốn giáo trình của Lương Vĩ Hùng, Khổng Khang Hoa ngoài việc nghiên cứu các quan điểm giáo dục nhằm chỉ đạo quá trình hình thành nhân cách và chỉ đạo hệ thống quốc dân, đặc biệt là đã đi sâu vào cấu trúc, cơ chế của nó. Các vấn đề mâu thuẫn, động lực, đòn bẩy giáo dục trong kinh tế thị trường XHCN đã được đặt ra. Đó là những vấn đề rất quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục, và là vấn đề lí luận đang cần nghiên cứu để giải quyết nhiều thách thức đang đặt ra cho các nhà trường hiện nay. Đã có một số các công trình nước ngoài được dịch ra tiếng Việt như: "Emile hay là về giáo dục", (2008) [97], của J.J.Rousseau (nhà triết học khai sáng Pháp, nhà giáo dục lớn của Pháp thế kỷ XVIII), là tác phẩm nổi tiếng đã để lại ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài nhất đối với phương pháp sư phạm, điểm trọng tâm khi thuyết minh các vấn đề giáo dục. Trong tác phẩm, J.J.Rousseau đã xây dựng một triết lý giáo dục giúp cho "con người tự nhiên" có đủ sức khỏe thể chất và nghị lực tinh thần để đương đầu với những thử thách trong cuộc đời. Sau Cộng hòa, quyển VIII của Platon, đây là tác phẩm hoàn chỉnh đầu tiên về triết lý giáo dục phương Tây. Ông chủ yếu dựa trên kinh nghiệm bản thân và sự quan sát thực tiễn và tổng kết các quan điểm lý luận đương thời để phân tích mâu thuẫn giữa thiên nhiên và xã hội. Tuy nhiên, điều đáng nói trong triết lý giáo dục của ông đã bác bỏ và phá vỡ tất cả các khuôn mẫu giáo dục trước đó. Tư tưởng của ông và J.Locke đều mang tinh thần nhân văn về con người, con người sống trong mối quan hệ hài hòa với tự nhiên và bạn bè xung quanh; những tư tưởng này được C.Mác kế thừa và phát triển sau đó. 12 "Chân dung những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thế giới", (2008) [117] (dịch theo tài liệu của UNESSCO). Cuốn sách được biên dịch là tài liệu tham khảo có giá trị nhằm phục vụ các nhà hoạch định chính sách giáo dục, các nhà nghiên cứu cũng như các bậc phụ huynh muốn tìm hiểu thêm về nguồn gốc, những phương pháp và chính sách giáo dục đã được áp dụng trên thế giới. "Dân chủ và giáo dục", (2008) [19]; và "Kinh nghiệm và giáo dục, (2011) [20] là hai cuốn sách đặc biệt bàn về triết lý giáo dục của John Dewey, nó cung cấp cho các nhà giáo dục và thầy cô giáo một triết lý giáo dục mang tính tích cực, cuốn sách đánh giá những thực tiễn của cả trường học cổ truyền và trường học tiến bộ, đã chỉ ra những khiếm khuyết của mỗi trường học ấy. Triết lý giáo dục của Dewey thể hiện tư duy giáo dục hiện đại và khoa học, đưa KH&CN thông tin vào giảng dạy. Triết lý giáo dục của ông được hoan nghênh và ứng dụng rộng rãi, có ảnh hưởng ở nhiều nước châu Âu và châu Á. Lý luận về dân chủ trong giáo dục của ông là bài học quý giá, ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện xây dựng triết lý giáo dục Việt Nam thời kỳ đổi mới. Bàn về triết lý giáo dục, John Dewey nói: Triết lý giáo dục không phải là sự áp dụng các tư tưởng có sẵn từ bên ngoài vào một hệ thống thực hành có nguồn gốc và mục đích khác biệt về cơ bản. Như vậy, có thể định nghĩa "triết lý" một cách sâu sắc là "lý luận giáo dục xét trên các phương diện phổ biến nhất", là "lý luận chung của giáo dục" [19, tr. 389]. Nếu như trước đây người ta quan niệm giáo dục như là quá trình truyền đạt kiến thức và kinh nghiệm, hoặc là quá trình thanh lọc tâm hồn, hoặc một quá trình khai sáng nhằm giúp con người tự do lý trí, thì với ông "giáo dục chính là bản thân cuộc sống" (Education is Life Itself). Vì giáo dục chính là bản thân cuộc sống nên nhà trường không thể tách khỏi hoạt động thực tiễn, và kiến thức không thể được áp đặt từ bên ngoài; không thể có một thứ giáo dục chung cho tất cả mọi người, người thầy phải ý thức rõ và tôn trọng sự khác biệt giữa các học sinh. Giáo dục phải là quá trình của người học chứ không phải người dạy. Giáo dục là quá trình mà người học làm trung tâm. Nói cách khác, giáo dục phải là một quá trình dân chủ sâu sắc. Đặc biệt, cuốn sách "Cải cách giáo dục ở các nước phát triển ở Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Oxtraylia", (2010) [40] do Lữ Đạt, Chu Mãn Sinh (chủ biên) cho thấy 13 chiến lược, cách thức cải cách giáo dục ở các nước phát triển; mỗi một quốc gia khác nhau thì cách thức diễn ra và hiệu quả khác nhau. Do vậy, cuốn sách là tài liệu tham khảo quý giá để chúng ta lựa chọn, kế thừa nhằm xây dựng triết lý giáo dục riêng cho dân tộc. Ngoài sách chuyên khảo, có thể tìm thấy triết lý giáo dục thông qua những bài viết trên các tạp chí, hội thảo khoa học hay trong một công trình lớn chứ nó không được trình bày theo nghĩa là những công trình chuyên sâu. Cụ thể, một số bài viết về triết lý giáo dục như: "Unamuno, Schleiermacher, Humboldt: A Question of Language", (autumn 2011) [130] của C.A. Longhurst; "Playful Learning and Montessori Education", (2013) [124] của tác giả Angeline S. Lillard, … Qua các bài viết đó, chúng ta thấy được triết lý giáo dục của Schleiermacher, Humboldt, Maria Montessori... là những tư tưởng giáo dục tiến bộ ảnh hưởng lớn đến các nước có nền giáo dục phát triển trên thế giới như Đức, Pháp, Itali, Hoa Kỳ,... Đặc biệt, triết lý giáo dục của Maria Montessori - nhà giáo dục nổi tiếng người Ý - một trong những người nổi bật trong phong trào Tân Giáo dục (lý thuyết giáo dục mới này do các cuộc cải cách giáo dục ở Châu Âu cuối thế kỷ XVII, cho tới thế kỷ XIX). Đối với bà, cải cách giáo dục không phải là thay thế phương pháp giáo dục cũ bằng phương pháp giáo dục mới cho là tốt hơn, mà bà quan tâm tới một quá trình khác là reformatio: một sự tái tạo và tổ chức lại cuộc sống. Triết lý giáo dục của bà xoay quanh mục tiêu giáo dục, phương pháp giáo dục, nội dung, chương trình giáo dục, vai trò của người dạy… Quan điểm của bà cho rằng: phải lấy sở thích và sự quan tâm của người học làm xuất phát điểm cho quá trình dạy học. Đây chính là đóng góp độc đáo và có ý nghĩa của bà. Bà quan tâm đến việc phát triển thái độ thay vì chỉ phát triển các năng lực thực nghiệm. Sở dĩ phương pháp giáo dục của bà được áp dụng và thành công phổ biến ở một số nước trên thế giới là do sự kết nối giữa lý thuyết và thực hành. Các lý thuyết của bà được khẳng định trên thực tế là do tiến hành các thử nghiệm thực tiễn của mình dựa trên các nguyên tắc khoa học. Tóm lại, triết lý giáo dục của một số triết gia tiêu biểu ảnh hưởng mạnh nhất đến nền giáo dục của các nước phát triển, nó đều khẳng định vai trò tiên quyết của 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan