LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu độc lập của riêng nghiên cứu
sinh. Các số liệu, tài liệu sử dụng trong
luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng, không trùng lặp với các công
trình khoa học đã được công bố.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2018
Tác giả luận án
Lê Tuấn Anh
3
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1.
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài
1.2.
Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
1.3.
Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố và
những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI
CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CHO HẠ
SĨ QUAN, BINH SĨ Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ CÁC BINH
ĐOÀN CHỦ LỰC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
2.1.
Hạ sĩ quan, binh sĩ và những vấn đề cơ bản về công tác giáo dục truyền
thống cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở các binh đoàn chủ lực
Quân đội nhân dân Việt Nam
2.2.
Những vấn đề cơ bản về đổi mới công tác giáo dục truyền thống
cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở các binh đoàn chủ lực
Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ĐỔI MỚI
CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG CHO HẠ SĨ
QUAN, BINH SĨ Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ CÁC BINH ĐOÀN
CHỦ LỰC QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
3.1.
Thực trạng đổi mới công tác giáo dục truyền thống cho hạ sĩ quan, binh
sĩ ở đơn vị cơ sở các binh đoàn chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam
3.2.
Nguyên nhân và một số kinh nghiệm đổi mới công tác giáo
dục truyền thống cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở các binh
đoàn chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam
Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỔI
MỚI CÔNG TÁC GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG
CHO HẠ SĨ QUAN, BINH SĨ Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ
CÁC BINH ĐOÀN CHỦ LỰC QUÂN ĐỘI NHÂN
DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.
Những yếu tố tác động và yêu cầu đổi mới công tác giáo dục
truyền thống cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở các binh đoàn
chủ lực Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
4.2.
Những giải pháp chủ yếu đổi mới công tác giáo dục truyền
thống cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở các binh đoàn chủ
lực Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trang
5
9
9
14
25
29
29
60
78
78
97
112
112
123
165
167
168
4
PHỤ LỤC
178
5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
Chữ viết đầy đủ
Bộ Quốc phòng
Binh đoàn chủ lực
Cán bộ, chiến sĩ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Công tác đảng, công tác chính trị
Chính ủy, chính trị viên
Chủ nghĩa xã hội
Đơn vị cơ sở
Giáo dục chính trị
Giáo dục truyền thống
Hạ sĩ quan, binh sĩ
Quân đội nhân dân Việt Nam
Quân ủy Trung ương
Sẵn sàng chiến đấu
Tổng cục Chính trị
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
BQP
BĐCL
CBCS
CNH, HĐH
CTĐ, CTCT
CU, CTV
CNXH
ĐVCS
GDCT
GDTT
HSQ, BS
QĐNDVN
QUTW
SSCĐ
TCCT
XHCN
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận án
Công tác GDTT ở ĐVCS QĐNDVN là một hình thức cơ bản của công
tác tư tưởng, văn hóa của Đảng trong quân đội; một nội dung quan trọng của
nhiệm vụ huấn luyện bộ đội; là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp ủy, tổ
chức đảng; CU, CTV; người chỉ huy, cơ quan chính trị và cán bộ chính trị các
6
cấp. Thực hiện tốt công tác GDTT sẽ góp phần nâng cao nhận thức cho HSQ,
BS hiểu biết đầy đủ những giá trị lịch sử truyền thống của dân tộc, của Đảng,
của quân đội và của đơn vị; qua đó xây dựng lòng tự hào, củng cố niềm tin,
đề cao ý thức trách nhiệm và hành động cách mạng tích cực, tiếp tục kế thừa,
giữ vững và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp trong sinh hoạt, học tập
và công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đơn vị cơ sở các BĐCL là lực lượng cơ bản chủ yếu, nền tảng hợp thành
sức mạnh chiến đấu của sư đoàn, binh đoàn và quân đội; nơi trực tiếp thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chỉ thị, nghị
quyết của cấp trên; trực tiếp giáo dục, giác ngộ quần chúng; phát triển đảng; bôi
dương, rèn luyện, bổ sung nguôn cán bộ trong quân đô ̣i và toàn xã hô ̣i. Đổi mới
công tác GDTT ở ĐVCS các BĐCL có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là vấn đề
cơ bản, cấp thiết hiện nay, nhằm ngăn chặn biểu hiện phai nhạt mục tiêu lý tưởng,
phai nhạt truyền thống và trực tiếp xây dựng nhân tố chính trị tinh thần cho bộ đội,
góp phần xây dựng ĐVCS vững mạnh về chính trị, giữ vững trận địa tư tưởng của
Đảng trong quân đội; xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, tổ chức
quần chúng vững mạnh xuất sắc, làm cho quân đội và binh đoàn luôn là lực lượng
chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và
nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.
Những năm qua, cấp ủy, người chỉ huy, CU, CTV và cơ quan chính trị
các cấp của các BĐCL đã nhận thức ro vai trò , tầm quan trọng của công tác
GDTT cho HSQ, BS. Thường xuyên nêu cao trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ
đạo công tác GDTT; có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức, biện pháp tiến
hành, nên đã đạt được kết quả quan trọng, góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ
của đơn vị. Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả
công tác GDTT cho HSQ, BS hiện nay, còn bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về
nhận thức, trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của các
7
chủ thể, lực lượng tiến hành; đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp GDTT
còn chậm, thiếu đông bộ, hiệu quả thấp; cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật đảm
bảo cho đổi mới công tác GDTT còn nhiều khó khăn. Trình độ kiến thức, năng
lực sư phạm, khả năng sử dụng công nghệ thông tin của một bộ phận cán bộ giảng
dạy còn hạn chế. Một bộ phận CBCS có biểu hiện suy thoái về phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống, giảm sút ý chí, niềm tin, chấp hành pháp luật, kỷ luật không
nghiêm, làm việc cầm chừng.
Bước sang thời kỳ mới, yêu cầu, nhiệm vụ đổi mới toàn diện đất nước,
nhiệm vụ xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc có bước phát triển mới. Đối tượng
HSQ, BS có sự phát triển toàn diện, trình độ học vấn ngày càng cao. Sự tác động từ
mặt trái kinh tế thị trường và quá trình hội nhập quốc tế cùng với sự gia tăng thủ
đoạn chống phá của các thế lực thù địch bằng âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa
bình”, bạo loạn lật đổ, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đang tác động đến nhận
thức, tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của HSQ, BS. Điều đó, đặt ra những yêu
cầu cao đối với công tác GDTT ở ĐVCS phải bắt kịp với tình hình thực tiễn; có sự
đổi mới mạnh mẽ, đông bộ cả nội dung, hình thức, phương pháp; tăng cường đầu
tư trang bị các phương tiện, cơ sở vật chất bảo đảm cho đổi mới công tác GDTT.
Từ tất cả những lí do trên, nghiên cứu sinh lựa chọn vấn đề “Đổi mới công
tác giáo dục truyền thống cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở đơn vị cơ sở các binh đoàn chủ
lực Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu là vấn đề cấp
thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Luận giải làm ro những vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất giải
pháp chủ yếu đổi mới công tác GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các BĐCL Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
8
Nghiên cứu làm ro những vấn đề cơ bản về công tác GDTT và đổi
mới công tác GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các BĐCL Quân đội nhân
dân Việt Nam.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ ro nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm đổi mới công tác GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các BĐCL Quân đội
nhân dân Việt Nam.
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu đổi mới công tác
GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các BĐCL Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đổi mới công tác GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS
các BĐCL Quân đội nhân dân Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Luận án đi sâu nghiên cứu công tác GDTT và
đổi mới công tác GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các BĐCL Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay, gôm các binh đoàn: Quyết Thắng, Hương Giang,
Tây Nguyên và binh đoàn Cửu Long. Phạm vi tiến hành điều tra, khảo sát,
phỏng vấn, tọa đàm và lấy phiếu trưng cầu ý kiến đối với CBCS tại các
BĐCL ở khu vực phía Bắc (Binh đoàn Quyết Thắng, Binh đoàn Hương
Giang); phạm vi thời gian điều tra, khảo sát các tư liệu, số liệu, thực tiễn
phục vụ cho nghiên cứu đề tài chủ yếu giới hạn từ 2012 đến nay; các giải
pháp đề xuất ứng dụng đến năm 2025.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hô Chí Minh về truyền thống và công tác GDTT, giáo
dục chính trị; đường lối, quan điểm của Đảng, các nghị quyết của QUTW về
công tác GDCT nói chung và GDTT nói riêng.
Cơ sở thực tiễn: Toàn bộ hiê ̣n thực hoạt động GDTT và đổi mới công tác
GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các BĐCL; những chỉ thị, hướng dẫn của TCCT
về công tác GDTT; những nhận định, đánh giá công tác GDTT và đổi mới công
tác GDTT cho HSQ, BS thể hiện trong các nghị quyết của cấp ủy các cấp; các
9
văn kiện, báo cáo tổng kết của các cơ quan chức năng ở ĐVCS các BĐCL; các
tư liê ̣u, số liệu thống kê, kết quả điều tra, khảo sát của tác giả ở các BĐCL.
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa
học liên ngành và khoa học chuyên ngành; coi trọng các phương pháp: lô gíc lịch sử; phân tích - tổng hợp, so sánh, khái quát hóa; tổng kết thực tiễn; khảo
sát thực tế, điều tra xã hội học và phương pháp chuyên gia để thực hiện mục
tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
5. Những đóng góp mới của luận án
Đưa ra quan niệm đổi mới công tác GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các
BĐCL Quân đội nhân dân Việt Nam.
Rút ra một số kinh nghiệm đổi mới công tác GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS
các BĐCL Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đề xuất một số nội dung, biện pháp cụ thể, thiết thực khả thi đổi mới công tác
GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các BĐCL Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận
về GDTT cho HSQ, BS ở ĐVCS các BĐCL QĐNDVN hiện nay.
Cung cấp thêm luận cứ khoa học giúp lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chủ trì,
cơ quan chính trị các cấp ở các BĐCL tham khảo, vận dụng vào quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành công tác GDTT cho HSQ, BS.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ trong nghiên
cứu, giảng dạy và học tập môn CTĐ, CTCT ở các học viện, nhà trường trong
và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gôm: Mở đầu, 4 chương (9 tiết), kết luận, danh mục các công
trình của tác giả đã được công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác đảng, công tác chính trị
V. Mi Khai lốp (1979) “V.I. Lê nin Đảng cộng sản Liên Xô bàn về
công tác đảng, công tác chính trị trong các lực lượng vũ trang” [125]. Tác
giả khẳng định: CTĐ, CTCT là một trong những hướng chủ yếu trong hoạt
động nhiều mặt của Đảng cộng sản để lãnh đạo các lực lượng vũ trang. Bản
chất, ý nghĩa nhiệm vụ cơ bản và nội dung của công tác này được giải thích
và vạch ra trong các tác phẩm của V.I. Lê nin, các nghị quyết của Đảng cộng
sản. Đặc biệt, V.I. Lê nin đã khẳng định vai trò to lớn cho công tác chính trị
trong quân đội trong hoàn cảnh chiến đấu. Người coi khả năng chiến đấu của
quân đội, thắng lợi của nó trên mặt trận tùy thuộc trực tiếp vào trạng thái công
tác chính trị. Người đã khuyên nhủ và yêu cầu không được lơi lỏng công tác
chính trị trong quân đội, phải tự mình kiểm tra công tác này, sử dụng đúng
cán bộ chính trị và các đảng viên, phải thông tin một cách nhanh nhạy về tình
trạng công tác chính trị ở các phương diện quân.
Học viện Quân chính Lênin (1980) nghiên cứu về “Nhân tố chính trị
tinh thần trong chiến tranh hiện đại” [43] và Trần Trạc Minh (1996) “Nghiên
cứu công tác chính trị của Cộng quân đứng trước sự khủng hoảng và tư tưởng
sĩ khí của họ” [67].
Cả hai công trình khoa học nêu trên, đều có điểm chung đó là nghiên
cứu và làm ro vị trí, vai trò tầm quan trọng của nhân tố chính trị tinh thần, tư
tưởng của binh sĩ trong xây dựng quân đội. Trong đó, nhấn mạnh chính trị,
tinh thần, tư tưởng là yếu tố quyết định hàng đầu trong việc tạo nên sức mạnh
quân đội, tạo nên khả năng chiến đấu. Đặc biệt, trong điều kiện mới, khi thực
hiện chính sách mở cửa, phát triển nền kinh tế thị trường và trong điều kiện
chiến tranh hiện đại thì công tác này lại càng quan trọng hơn bao giờ hết. Tác
giả, Trần Trạc Minh chỉ ro: “Quốc gia lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm,
quân đội lấy xây dựng hiện đại hóa làm trung tâm”, mà “Hiện đại hóa quân
11
đội không tách rời được công tác chính trị”, vì “Công tác chính trị là con
đường sống của quân đội, là nguôn sức mạnh chiến đấu trọng yếu của quân
đội, đây là một chân lý mà thực tiễn đã nhiều lần chứng minh”. Cho nên,
“Tăng cường công tác chính trị là một nguyên tắc căn bản của xây dựng
QĐND, bất cứ lúc nào đều không thể lay chuyển” [67, tr.1].
Chương Tư Nghị (2006) “Giáo trình công tác đảng, công tác chính trị
của quân giải phóng nhân dân Trung Quốc” [71]. Tập giáo trình gôm 3 phần,
11 chương, trình bày những vấn đề cơ bản về công tác chính trị. Tác giả cho
rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc từ trước đến nay đều rất coi trọng công tác
chính trị, coi đó là Gia bảo truyền đời của quân đội cách mạng, là sợi chỉ đỏ
sinh mệnh xuyên suốt trong mọi lĩnh vực công tác. Trong thực tiễn đấu tranh
hơn nửa thế kỷ qua, Đảng cộng sản và các nhà lãnh đạo tiền bối của giai cấp
vô sản đã xây dựng và lãnh đạo quân đội nhân dân, đông thời đặt ra quy định
trọn bộ về phương pháp và tác phong lý luận, phương châm nguyên tắc, chế
độ của công tác chính trị.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về công tác tư tưởng
Đ.A. Vôn - Cô - Gô - Nốp (1984) “Phương pháp luận công tác giáo
dục tư tưởng” [20]; đây là một công trình khoa học nghiên cứu các vấn đề về
công tác giáo dục - tư tưởng trong các lực lượng vũ trang xô viết. Trên cơ sở
những tư tưởng của Lênin và những yêu cầu hoạt động tư tưởng của Đảng
Cộng sản Liên Xô trong giai đoạn hiện nay, tác giả đã phân tích những vấn đề
quan trọng về lý luận và thực tiễn của công tác giáo dục - tư tưởng, trình bày
bản chất, những nguyên lý, những phương pháp và hình thức của công tác đó.
Tác giả, đã giải thích ro ràng những khái niệm, tiêu chuẩn và con đường nâng
cao hiệu quả của các hoạt động tư tưởng; bản chất của phương pháp tổng hợp
trong công tác giáo dục, đông thời phân tích những đặc điểm và hình thức
chống hệ tư tưởng tư sản, xét lại và mao - ít. Luận cứ cho mỗi vấn đề đặt ra,
tác giả không chỉ dựa trên cơ sở học thuyết Mác - Lênin và các văn kiện của
Đảng Cộng sản Liên Xô, mà còn xuất phát từ đặc điểm của cuộc đấu tranh
giai cấp quyết liệt, gay gắt giữa hai thế giới đối lập, hai hệ tư tưởng đối lập;
12
căn cứ vào những tác động của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật vào lĩnh
vực ý thức hệ và đời sống tinh thần; căn cứ vào sự biến đổi lịch sử đất nước
và con người xô viết để phân tích cả về mặt lý luận và thực tiễn một cách sâu
sắc, xúc tích và đầy tính thuyết phục.
Sỏn Xay Chăn Nha Lạt (2012) “Giáo dục chính trị tư tưởng cho hạ sĩ
quan, binh sĩ quân đội nhân dân Lào” [87]. Tác giả, tập trung chỉ ro những
vấn đề lý luận về GDCT tư tưởng cho HSQ, BS. Đưa ra quan niệm về chính
trị và tư tưởng, đông thời luận giải làm ro vai trò sự tác động lẫn nhau giữa
chính trị và tư tưởng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin làm cơ sở chỉ
ra quan niệm về GDCT, tư tưởng trong Quân đội nhân dân Lào. Chỉ ro mục
đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp và chỉ ra vai trò
của GDCT, tư tưởng cho HSQ, BS. Tác giả, đánh giá thực trạng công tác
GDCT, tư tưởng cho HSQ, BS Quân đội nhân dân Lào. Từ thực trạng chỉ ra
những nguyên nhân khách quan, chủ quan tác động đến những ưu điểm,
những hạn chế yếu kém và rút ra một số kinh nghiệm công tác GDCT tư
tưởng cho HSQ, BS và đề xuất năm gải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
GDCT tư tưởng cho HSQ, BS Quân đội nhân dân Lào hiện nay. Trong giải
pháp 2 “Đổi mới và hoàn thiện chương trình nội, dung, hình thức, phương
pháp, phương tiện giáo dục chính trị tư tưởng cho HSQ, BS quân đội nhân
dân Lào”, tác giả luận giải đổi mới chương trình, nội dung phải tập trung quán
triệt sâu sắc các nghị quyết của Đảng các cấp; giáo dục cho HSQ, BS nhận
thức sâu sắc, nâng cao trách nhiệm chính trị; giáo dục cho HSQ, BS nắm
vững truyền thống của dân tộc, của Đảng, quân đội và đơn vị, những thành
tựu trong giai đoạn cách mạng mới.
Thim Sảo Đuông Chăm Pa (2016) “Nâng cao chất lượng giáo dục
chính trị cho hạ sĩ quan, binh sĩ ở các trung đoàn bộ binh quân đội nhân dân
Lào hiện nay” [98]. Luận án tập trung làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về
GDCT và nâng cao chất lượng GDCT cho HSQ, BS ở các trung đoàn bộ binh
Quân đội nhân dân Lào, đánh giá thực trạng, chỉ ro nguyên nhân và rút ra một số
kinh nghiệm nâng cao chất lượng GDCT cho HSQ, BS. Trên cơ sở phân tích sự
13
phát triển của tình hình, nhiệm vụ, luận án xác định mục tiêu, yêu cầu và đề xuất
5 giải pháp. Đặc biệt, trong giải pháp 2: đổi mới chương trình, nội dung, vận
dụng linh hoạt hình thức, phương pháp GDCT cho HSQ, BS ở các trung đoàn bộ
binh Quân đội nhân dân Lào, tác giả đã luận giải được khái niệm đổi mới là gì
và đưa ra cách thức tiến hành đổi mới một số hình thức cơ bản của công tác
GDCT.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về truyền thống và
giáo dục truyền thống
Lý Xương Giang (1997) “Quân đội các nước coi trọng giáo dục chính
trị” [30]. Tác giả, luận giải rằng quân đội một số quốc gia, nhất là các nước
phương Tây, việc duy trì sĩ khí chủ yếu là dựa vào đãi ngộ vật chất hậu hĩnh
và phúc lợi xã hội cao, song họ cũng không dám buông lỏng, thậm chí rất coi
trọng GDTT cho quân nhân. Nội dung GDTT rất rộng và hình thức cũng rất
đa dạng. Ở trang 3 nội dung GDTT, tác giả luận giải quân đội các nước cho
rằng: kế thừa truyền thống vinh quang, phát huy tinh thần dũng cảm không
run sợ và dám hy sinh của quân đội là một nội dung quan trọng trong GDTT.
Quân đội Mỹ, thường xuyên mời một số sĩ quan về hưu có kinh nghiệm chiến
đấu thực tế đến đơn vị “giảng bài học truyền thống”, giảng dạy lịch sử quân
đội, lịch sử chiến tranh cho CBCS trong đơn vị, ra sức ca ngợi những “chiến
công chói lọi” và “lịch sử vinh quang” của quân đội. Hai bên tường mỗi một
hành lang ở Lầu Năm Góc treo kín ảnh chân dung cùng sơ yếu lý lịch của các
nhà lãnh đạo cấp cao của quân đội, tư liệu giới thiệu về tiêu chí vinh dự và
quân kỳ của các thời kỳ, về các nhân vật anh hùng và những sự kiện trọng đại.
Quân đội Nga, mong muốn thông qua việc giáo dục hiến pháp, giáo dục sứ
mệnh và vinh dự người lính, làm cho các quân nhân học thuộc lịch sử Liên
bang Nga và Quân đội Nga, trong các khu doanh trại và trong các học viện,
nhà trường quân sự treo ảnh các tướng lĩnh nổi tiếng của Nga và quân đội
Liên Xô. Trong GDTT, quân đội Nhật thường thông qua các kênh, sử dụng
các hình thức tuyên truyền vào đầu quân nhân những quan niệm truyền thống
của quân đội Nhật và cái gọi là “tinh thần dân tộc Nhật Bản” yêu cầu họ phát
14
huy “tinh thần vo sĩ đạo”, rèn luyện tác phong quân nhân. Quân đội Đức, coi
trọng việc GDTT trong một số trường hợp đặc biệt, nhằm tăng cường tinh
thần trách nhiệm của quân nhân, khơi dậy lòng nhiệt tình tập luyện của chiến
sĩ và cao khí cho bộ đội.
Dương Minh Hào, Triệu Anh Ba (2003) “Điều lệ công tác chính trị
quân giải phóng nhân dân Trung Quốc” [35]. Cuốn sách gôm 66 trang, trình
bày những nguyên tắc, nội dung cơ bản được soạn ra dựa trên Điều lệ của
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm chuẩn hóa và tăng cường công tác chính trị
của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc. Đặc biệt, chương I “Nguyên tắc
chung” tại điều 10 có ghi ro “Giữ vững sự thống nhất giữa kế thừa truyền
thống tốt đẹp và tiếp thu cái mới phát triển” [35, tr.7]. Chương II ghi ro: “Nội
dung chủ yếu của công tác chính trị” tại điều 14 về giáo dục chính trị tư tưởng
khẳng định: “Tổ chức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch
Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng “Ba đại diện”. Tiến hành
giáo dục đường lối, phương châm, chính sách của Đảng. Tiến hành giáo dục tính
tôn chỉ, chức năng và truyền thống tốt đẹp của quân đội nhân dân. Tiến hành
giáo dục tinh thần yêu nước cống hiến cho tổ quốc, nhân sinh quan cách mạng,
tôn trọng cán bộ, yêu quý chiến sĩ, gian khổ phấn đấu. Tiến hành giáo dục niềm
tin lý tưởng, đạo đức quân nhân, pháp luật, pháp quy và thời sự chính sách. Tiến
hành giáo dục chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa anh hùng cách
mạng và khí tiết cách mạng” [35, tr.9].
Sạ Vẻng Đen Na Môn (2016) “Phát triển giá trị văn hóa truyền thống
trong đời sống văn hóa đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Lào hiện nay” [86].
Tác giả khẳng định, việc kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống
không những góp phần phát triển đời sống văn hóa ĐVCS lành mạnh, mà còn
tạo động lực để tiếp tục hình thành những giá trị mới làm giàu di sản văn hóa
truyền thống của nhân dân các bộ tộc Lào. Đặc biệt, việc phát huy giá trị văn hóa
truyền thống với tư cách động lực thúc đẩy đời sống văn hóa ở ĐVCS còn cho
phép khẳng định sức sống lâu bền, toàn diện, mang tính chỉnh thể của những giá
trị văn hóa quân sự phản ánh trực tiếp bản chất cách mạng và tính nhân dân, tính
15
dân tộc của Quân đội nhân dân Lào. Trên cơ sở đó, tác giả làm ro thực chất, cấu
trúc và tính quy luật phát huy giá trị văn hóa truyền thống. Đánh giá tình hình.
xác định yêu cầu mới, từ đó đưa ra 3 giải pháp, đặc biệt trong giải pháp 2 “Đổi
mới và nâng cao chất lượng giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho CBCS ở
ĐVCS” tác giả cho rằng phải chú trọng nội dung giá trị văn hóa truyền thống
trong các chương trình giáo dục chính trị theo định kỳ cho CBCS và đẩy mạnh
công tác giáo dục thông qua các hình thức phong phú, sinh động, hấp dẫn.
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài
1.2.1. Các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến truyền thống,
công tác giáo dục truyền thống và đổi mới công tác giáo dục truyền thống
Các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến truyền thống
Trần Văn Giàu (1980) “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt
Nam” [31]. Trong công trình này, tác giả đã dành riêng chương 4 để bàn về
chủ nghĩa yêu nước. Với tiêu đề của chương là “yêu nước”, tác giả đã đề cập
và nêu lên bốn vấn đề cơ bản: Thứ nhất, tầm quan trọng của yêu nước trong
lịch sử dân tộc. Theo tác giả, yêu nước là “sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch
sử Việt Nam từ thời cổ đại đến hiện đại... sợi chỉ đỏ được biểu hiện như là
một cái “lý thường hằng” của mọi biến chuyển căn bản” [31, tr.99]. Từ đó, tác
giả đi đến khẳng định, chủ nghĩa yêu nước đã “thành một triết lý xã hội và
nhân sinh của con người Việt Nam và nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa
của nó là “đường”, là hướng đi thì chủ nghĩa yêu nước đích thực là đạo
Việt Nam” [31, tr.101]. Thứ hai, phân biệt tình cảm yêu nước và tư tưởng
yêu nước: Tác giả cho rằng, tình cảm yêu nước là trạng thái tâm lý tự nhiên
như “chim luyến tổ, cá quen đông, người sao không yêu quê hương” [31,
tr.102]. Tư tưởng yêu nước là suy nghĩ về hành động yêu nước của mình.
Thứ ba, nguôn gốc của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đó là: Nhà nước Văn
Lang xuất hiện sớm và liên tục có các cuộc chiến đấu và chiến thắng vẻ
vang đối với các kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Thứ tư, bí quyết
thắng lợi của các cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, là do dân tộc Việt
16
Nam chiến đấu có chính nghĩa, có sự đoàn kết, chính quyền có sự gắn bó
với dân và được dân ủng hộ.
Nguyễn Văn Hữu (1992) “Truyền thống yêu nước Việt Nam” [47]; tác
giả luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn, quá trình hình thành và phát triển của
truyền thống Việt Nam qua các thời kỳ, giai đoạn lịch sử của dân tộc và đưa ra
kết luận: “Truyền thống yêu nước Việt Nam là trạng thái tình cảm (thái độ) của
nhân dân Việt Nam đối với thiên nhiên đất nước con người, nền văn hóa được
trao truyền qua nhiều thế hệ và được biểu hiện cụ thể qua hành động trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [47, tr.5]. Như vậy, theo tác giả truyền
thống yêu nước bao hàm các yếu tố: trạng thái tình cảm; hành động được trao
truyền qua nhiều thế hệ. Đặc biệt ở trang 34, tác giả chỉ ro thời kỳ Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam, truyền thống yêu nước Việt Nam
đã có bước phát triển với những nội dung đặc sắc mới như: yêu nước gắn liền
với chân lý không có gì quý hơn độc lập tự do; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội; yêu nước gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản. Về GDTT yêu
nước trong giai đoạn hiện nay ở trang 52, tác giả phân tích ro những yếu tố tác
động của tình hình cũng như nhận thức và đưa ra các giải pháp hữu hiệu tăng
cường GDTT yêu nước Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Trọng Chuẩn; Nguyễn Văn Huyên (đông chủ biên) (2002)
“Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa” [12]. Tác
giả đưa ra định nghĩa tổng quát về truyền thống, đó là: “những yếu tố của di
tôn văn hóa, xã hội trong chuẩn mực hành vi, tư tưởng, phong tục, tập quán,
thói quen, lối sống và cách ứng xử của một cộng đông người được hình thành
trong lịch sử và đã trở nên ổn định, được truyền từ đời này sang đời khác và
được lưu giữ lâu dài” [12, tr.9]. Đông thời, tác giả cho rằng, không nên đông
nhất truyền thống với giá trị truyền thống, bởi vì truyền thống có cả lạc hậu, lỗi
thời; còn giá trị truyền thống đã có sự đánh giá, đã được thẩm định nghiêm ngặt
của thời gian, có sự chọn lọc, sự phân định và sự khẳng định ý nghĩa tích cực của
chúng đối với cộng đông trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Do vậy, khi
17
xem xét, đánh giá truyền thống và giá trị truyền thống phải đặt trong điều kiện và
hoàn cảnh lịch sử nhất định của quá khứ và hiện tại. Vì vậy, một mặt phải bảo vệ
những giá trị đã được thẩm định, tích cực mở rộng giao lưu nhằm tiếp thu những
giá trị mới để làm phong phú thêm truyền thống, mặt khác quyết không đánh mất
mình không trở thành bóng mờ hoặc bản sao chép của người khác.
Mai Thị Qúy (2009) “Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị
truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay” [84]. Tác
giả, luận giải khá tường minh về cơ sở lý luận và thực tiễn của toàn cầu hóa
và giá trị truyền thống, trong đó tác giả phân tích hai thành tố là “giá trị” và
“truyền thống”. Từ trang 77 - 88, tác giả luận giả khá chi tiết đưa ra những
quan niệm cơ bản về truyền thống và giá trị truyền thống. Đông thời, luận giải
những thuận lợi, khó khăn những yếu tố tác động của toàn cầu hóa đến giá trị
truyền thống hiện nay, trên cơ sở đó tác giả cho rằng muốn lưu giữ, phát huy
cần kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam như: giá trị
truyền thống yêu nước, giá trị truyền thống gia đình, giá trị truyền thống nhân
văn, giá trị truyền thống đoàn kết, hiếu học, cần cù, tiết kiệm. Theo đó, cần
phải giữ lại những mặt, những truyền thống tích cực, còn giá trị nhưng không
phải bê nguyên xi mà cần phải đổi mới, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của
xu thế toàn cầu hóa; cần loại bỏ những truyền thống đã lạc hậu, lỗi thời gây
cản trở cho sự phát triển; tiếp thu những giá trị tinh túy của nhân loại đông
thời ngăn chặn những phản giá trị từ bên ngoài làm xói mòn, băng hoại những
giá trị truyền thống lâu đời của dân tộc.
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin (2014) “70 năm Quân đội nhân dân
Việt Nam anh hùng” [77]. Nhà xuất bản Văn Học (2014) “Lịch sử truyền
thống Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng” [73]. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (2014) “Lịch sử truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam” [74].
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (2014) “Quân đội anh hùng chiến thắng vẻ
vang” [75]. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (2014) “Quân đội anh hùng của
dân tộc Việt Nam anh hùng” [76]. Các cuốn sách này là tập hợp các bài báo,
tạp chí giới thiệu những nội dung ý đẹp lời hay, tình cảm nông hậu sự quý
18
mến và lòng khâm phục của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, các
nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội trong nước và ngoài nước đối với truyền
thống của QĐNDVN. Nội dung của các cuốn sách đã làm ro 9 nét tiêu biểu
truyền thống của quân đội một cách khái quát và cô đọng nhất: Trung thành
vô hạn với Tổ quốc Việt Nam XHCN, với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân;
quyết chiến, quyết thắng, biết đánh, biết thắng; dũng cảm mưu trí trong chiến
đấu, sáng tạo trong lao động, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; gắn bó máu thịt với nhân dân lao
động; nội bộ đoàn kết, cán bộ, chiến sĩ thực sự bình đẳng về chính trị, thương
yêu giúp đơ nhau, trên, dưới thống nhất; kỷ luật tự giác nghiêm minh, thống
nhất ý chí, thống nhất hành động; độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, cần kiệm
xây dựng quân đội, xây dựng đất nước, tôn trọng và bảo vệ của công; nếp
sống trong sạch, lành mạnh, có văn hoá, trung thực, khiêm tốn, giản dị, lạc
quan; luôn luôn nêu cao tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ; nêu cao tinh thần
quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết, thuỷ chung, chí nghĩa, chí tình.
Các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến công tác GDTT
Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (2000) “Giáo dục truyền thống năm
2000” [69]. Bàn về GDTT, tác giả đi sâu phân tích những vấn đề cơ bản và
ý nghĩa của các ngày lễ lớn; gợi mở một số vấn đề và hướng dẫn một số
phương thức hoạt động GDTT như: nói chuyện, gặp gơ tọa đàm, mít tinh,
lễ hội quần chúng, thông tin cổ động, hoạt cảnh diễn xướng hoành tráng…
tác giả đưa ra được yêu cầu cũng như cách thức tổ chức từng hoạt động đó.
Trên cơ sở những cách thức hoạt động, tác giả định ra yêu cầu trong GDTT
dân tộc và GDTT cách mạng cần phải vận dụng linh hoạt các phương pháp
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và đối tượng được giáo dục sao cho mang
lại hiệu quả thiết thực.
Đoàn Minh Duệ (chủ biên) (2004) “Những giải pháp nâng cao chất
lượng giáo dục truyền thống cho thanh thiếu niên tỉnh Nghệ An” [16]. Tác
giả, luận giải một cách khá tường minh về khái niệm truyền thống “truyền
thống không phải là cái gì có sẵn, nảy sinh ra trong nhất thời và bất biến mà là
19
những chuẩn mực, quy tắc ứng xử xã hội của cộng đông lớn hay nhỏ, được
lặp đi lặp lại qua nhiều thế hệ sống trong một không gian ít thay đổi lớn và ăn
sâu vào ý thức, tình cảm tư tưởng của con người, được dư luận xã hội giữ gìn
và phát huy” [16, tr.22]; đông thời chỉ ro những đặc trưng cơ bản của truyền
thống dân tộc; đánh giá thực trạng, nguyên nhân, khái quát những bài học
kinh nghiệm; những nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của
truyền thống; đề xuất 5 nhóm giải pháp trong đó có nhóm giải pháp về hình
thức, phương pháp, phương tiện và điều kiện GDTT.
Phan Ngọc Liên (2006) “Về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và giáo dục
truyền thống cho thế hệ trẻ” [53], bằng phương pháp đối chiếu, so sánh lòng
yêu nước, truyền thống yêu nước của Nhân dân Việt Nam với các dân tộc
khác, qua đó tác giả chỉ ra những đặc sắc, riêng có của lòng yêu nước, truyền
thống yêu nước của Việt Nam. Theo tác giả, yêu nước không chỉ là một tình
cảm tự nhiên mà còn là sản phẩm của lịch sử, nó được hun đúc bởi chính lịch
sử đau thương mà hào hùng của dân tộc; nó không chỉ dừng lại ở những tư
tưởng, tình cảm hay tinh thần yêu nước nặng về yếu tố cảm tính thuần túy,
biểu hiện chủ yếu ở những cá nhân đơn lẻ hay những tập thể riêng rẽ, nó cũng
không dừng lại ở truyền thống yêu nước chủ yếu chỉ mang tính lịch sử… trái
lại, tư tưởng và tình cảm đó đã phát triển đến đỉnh cao và trở thành chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam. Nói cách khác, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là sự phát
triển ở trình độ cao của tinh thần yêu nước, là sự kết hợp chặt chẽ giữa lý chí
và tình cảm cách mạng, là tinh thần yêu nước đã đạt đến trình độ tự giác và độ
bền vững cao qua thăng trầm của lịch sử.
Phan Ngọc Liên (2006) “Giáo dục truyền thống cách mạng tháng
Tám cho thế hệ trẻ” [54]. Tác giả tập trung trình bày hai điểm: một là: những
đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam; hai là: một số
vấn đề về phương pháp luận về GDTT yêu nước cho nhân dân đặc biệt cho thế
hệ trẻ. Tác giả, trình bày những đặc điểm cơ bản của truyền thống Việt Nam
như: dựng nước đi đôi với giữ nước; tính nhân đạo cao cả trong tinh thần yêu
nước truyền thống Việt Nam…, đưa ra một số yêu cầu trong GDTT yêu nước
20
cho thế hệ trẻ hiện nay; phân tích, luận giải những yếu tố tác động, những thuận
lợi, khó khăn trong GDTT yêu nước cho thế hệ trẻ hiện nay.
Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên) (2009) “Giáo dục truyền thống yêu nước
cho thế hệ trẻ ngày nay” [129]. Bàn về GDTT cho thế hệ trẻ, tác giả luận giải
truyền thống yêu nước là cốt loi của truyền thống dân tộc, được hình thành và
bôi đắp từ thế hệ này qua thế hệ khác, nó trở thành sức mạnh tinh thần và vật
chất của nhân dân trong lao động sản xuất, sáng tạo và đấu tranh để xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc GDTT yêu nước cho nhân dân, đặc biệt cho
thế hệ trẻ bao giờ cũng là công việc quan trọng để giữ gìn và phát triển đất
nước, dân tộc. Tác giả, không đi sâu nghiên cứu các vấn đề chung chung về
truyền thống dân tộc và truyền thống yêu nước mà tập trung trình bày khai
thác các khía cạnh như: những nội dung truyền thống yêu nước của dân tộc
cần thiết cho việc giáo dục thế hệ trẻ; những biện pháp GDTT yêu nước cho
thế hệ trẻ thông qua việc dạy học các bộ môn, các hoạt động giáo dục trong và
ngoài nhà trường. Đông thời, tác giả đề cập đến việc phải đa dạng hóa các
hình thức, phương pháp GDTT phù hợp với trình độ, tâm lý, nhận thức của
tuổi trẻ thông qua các hoạt động ngoại khóa.
Đàm Thế Vinh, Nguyễn Ngọc Ánh (2014) “Tăng cường công tác giáo dục giá
trị truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh” [127].
Các tác giả, đề cập, phân tích tư tưởng Hô Chí Minh về giá trị truyền thống
của dân tộc, trong đó nổi bật là các giá trị: Yêu nước, bất khuất, anh hùng
trong dựng nước, giữ nước; Hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng dụng hiền tài;
Uống nước nhớ nguôn, đoàn kết, cần cù, lao động sáng tạo; Hòa hiếu, yêu
chuộng hòa bình. Đông thời, tác giả cũng đề xuất những giải pháp để nâng
cao chất lượng giáo dục các giá trị truyền thống dân tộc cho thế hệ trẻ trong điều
kiện hiện nay: Tăng cường công tác tuyên truyền; đổi mới và đa dạng các hình
thức giáo dục các giá trị truyền thống; gắn GDTT với các hoạt động thi đua.
Đỗ Văn Hai (2014) “Giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ
thông qua những bộ phim cách mạng” [34]. Tác giả, cho rằng: những bộ phim
cách mạng có giá trị rất lớn về mặt lịch sử, bởi nó không những làm sống dậy một
21
thời kỳ lịch sử mà dân tộc đã trải qua biết bao sóng gió, mà nó còn góp phần tuyên
truyền, giáo dục mọi thế hệ người dân Việt Nam, trong đó có thanh niên biết giữ
gìn, trân trọng và bảo vệ những gì mà ông cha ta đã đánh đổi bằng mô hôi, xương
máu để làm nên. Đông thời, tác giả đề cập 4 giải pháp cơ bản nhằm góp phần vào
việc GDTT dân tộc cho thế hệ trẻ hôm nay.
Các công trình khoa học tiêu biểu liên quan đến đổi mới công tác giáo
dục truyền thống.
Tổng cục Chính trị (2000) “Đổi mới công tác giáo dục pháp luật
trong quân đội nhân dân Việt Nam” [103]. Cuốn sách dày 130 trang, luận
giải ro cơ sở lý luận về phổ biến, giáo dục pháp luật; đánh giá thực trạng
công tác phổ biến giáo dục pháp luật trong quân đội và đề xuất những giải
pháp hữu hiệu nhằm đổi mới và tăng cường công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật. Đặc biệt, tác giả cuốn sách đã làm ro nội dung công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật bao gôm các mặt như: lãnh đạo, chỉ đạo; hoạt động quản
lý; trực tiếp thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật… ngoài ra trong
giải pháp đã làm ro việc đổi mới nội dung; đổi mới hình thức, phương pháp
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật một cách khá chi tiết, tỉ mỉ.
Vũ Ngọc Am (2003) “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở” [1]. Tác giả luận giải làm ro một số khái
niệm: chính trị, tư tưởng, công tác tư tưởng, công tác GDCT tư tưởng, công
tác giáo dục lý luận chính trị. Đông thời, làm ro vai trò và tầm quan trọng
của công tác GDCT tư tưởng trong việc nâng cao nhận thức chính trị cho
cán bộ, đảng viên, trình bày quá trình đổi mới công tác GDCT tư tưởng;
phân tích thực trạng, yêu cầu khách quan và đề xuất những giải pháp chủ
yếu để đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác GDCT tư tưởng.
Vũ Minh Thực (2009) “Đổi mới công tác tuyên truyền miệng trong Quân
đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [102]. Tác giả, luận giải cơ sở lý luận và thực
tiễn, đánh giá thực trạng rút ra bài học kinh nghiệm, đề xuất yêu cầu và các giải
pháp cơ bản nhằm đổi mới công tác tuyên truyền miệng trong QĐNDVN hiện
- Xem thêm -