Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đ...

Tài liệu đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội nhân dân việt nam hiện nay

.PDF
182
189
88

Mô tả:

®¹i häc quèc gia hµ néi tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n nguyÔn h÷u quyÒn §æI MíI CHÝNH S¸CH X· HéI §èI VíI §éI NGò GI¶NG VI£N TRONG C¸C NHµ TR¦êNG QU¢N §éI NH¢N D¢N VIÖT NAM HIÖN NAY luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Hµ néi - 2015 1 ®¹i häc quèc gia hµ néi tr-êng ®¹i häc khoa häc x· héi vµ nh©n v¨n nguyÔn h÷u quyÒn §æI MíI CHÝNH S¸CH X· HéI §èI VíI §éI NGò GI¶NG VI£N TRONG C¸C NHµ TR¦êNG QU¢N §éI NH¢N D¢N VIÖT NAM HIÖN NAY Chuyªn ngµnh : Chñ nghÜa duy vËt biÖn chøng vµ chñ nghÜa duy vËt lÞch sö M· sè : 62 22 80 05 luËn ¸n tiÕn sÜ triÕt häc Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: 1. PGS.TS NguyÔn Träng TuÊn 2. PGS.TS Ph¹m C«ng NhÊt Hµ néi - 2015 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. T¸c gi¶ luËn ¸n Nguyễn Hữu Quyền 3 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Trọng Tuấn và PGS.TS Phạm Công Nhất. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. T¸c gi¶ luËn ¸n Nguyễn Hữu Quyền 1 Môc lôc Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN 5 ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Nhóm công trình ngoài nước nghiên cứu về chính sách xã hội và 5 chính sách xã hội trong quân đội 1.2. Nhóm công trình nghiên cứu trong nước về chính sách xã hội và 8 chính sách xã hội đối với trí thức trong các trường đại học Việt Nam 1.3. Nhóm công trình nghiên cứu trong nước về chính sách xã hội trong 12 Quân đội và chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam 1.4. Đánh giá các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH Xà HỘI VÀ 17 22 ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH Xà HỘI ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRONG CÁC NHÀ TRƢỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 2.1. Đội ngũ giảng viên và chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên 22 trong các nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam 2.2. Quan niệm và một số yếu tố tác động đến đổi mới chính sách xã hội 42 đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam Chương 3: ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH Xà HỘI ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ 60 GIẢNG VIÊN TRONG CÁC NHÀ TRƢỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 3.1. Thực trạng đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên 60 trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 3.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế về đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam và một số vấn đề đặt ra 2 94 Chương 4: YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỔI MỚI 109 CHÍNH SÁCH Xà HỘI ĐỐI VỚI ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRONG NHÀ TRƢỜNG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Yêu cầu đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong 109 các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay 4.2. Những giải pháp cơ bản đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ 121 giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN 149 ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 3 150 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CSXH : Chính sách xã hội GD&ĐT : Giáo dục và đào tạo KH&CN : Khoa học và công nghệ QĐNDVN : Quân đội nhân dân Việt Nam XHCN : Xã hội chủ nghĩa 4 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tình hình hiện nay, đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện thực hiện. Đối với quân đội, sự nghiệp GD&ĐT giữ một vị trí quan trọng trong việc xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại. Thực hiện chiến lược phát triển GD&ĐT, khoa học và công nghệ (KH&CN) quân sự đòi hỏi phải có sự đầu tư về mọi mặt. Trong đó phát triển đội ngũ giảng viên có đủ phẩm chất, năng lực sư phạm là nhân tố quyết định và nó phải được đặt lên hàng đầu. Đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) là người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, liên kết các hoạt động của nhà trường với thực tiễn huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của các đơn vị trong toàn quân, phát triển dịch vụ cộng đồng thông qua giảng dạy, nghiên cứu ứng dụng; triển khai có hiệu quả các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ quân sự vào sản xuất; là lực lượng trực tiếp tham gia xây dựng nền giáo dục đại học Việt Nam tiên tiến, hiện đại nhằm chấn hưng giáo dục nước nhà; trực tiếp tham gia vào đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, xây dựng đội ngũ chuyên gia quân sự, những nhà khoa học trong lĩnh vực quân sự; cung cấp luận cứ khoa học cho Đảng, Nhà nước hoạch định các đường lối liên quan đến quốc phòng, an ninh. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ giảng viên các nhà trường quân đội vững mạnh về mọi mặt tạo nền tảng nâng cao chất lượng GD&ĐT, phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ quân sự, nghệ thuật quân sự của quân đội. Do vậy, cùng với các chủ trương, biện pháp về tư tưởng và tổ chức thì việc đổi mới các chính sách xã hội (CSXH) như chính sách đào 5 tạo, bồi dưỡng, sử dụng giảng viên; chính sách bảo hiểm, an sinh xã hội; chính sách ưu tiên, ưu đãi trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học; chính sách tôn vinh khen thưởng... quan tâm thiết thực đến lợi ích chính đáng đối của họ là đòi hỏi khách quan và mang tính cấp thiết trong tình hình cách mạng hiện nay. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước và Quân đội đã ban hành nhiều CSXH đối với đội ngũ cán bộ, sĩ quan nói chung và đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội nói riêng. Tuy nhiên, đối với các nhà trường quân đội, một số CSXH đối với đội ngũ giảng viên chưa phản ánh đầy đủ đặc điểm, tính chất lao động sư phạm trí óc, sáng tạo trong môi trường quân sự. Các chính sách khuyến khích đổi mới giảng dạy chưa tương xứng, không có phụ cấp đứng lớp; kinh phí cho nghiên cứu khoa học và ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn chiến đấu của quân đội còn hạn hẹp; chính sách bảo hiểm, nhà ở, đất ở còn manh mún, nhiều bất cập; tuổi phục vụ ngắn dẫn đến lãng phí nguồn chất xám được đào tạo, còn tình trạng sử dụng giảng viên chưa đúng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, chưa có nhiều chính sách tạo động lực cho giảng viên phát triển hết tài năng, để cống hiến cho sự nghiệp GD&ĐT của quân đội. Vấn đề "chảy máu chất xám" và "lãng phí chất xám" vẫn là một thực tế đang diễn ra. CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân đội chưa thật sự là một động lực quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực chủ yếu này. Vì vậy, việc "Đổi mới chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay" là đề tài cần đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận và thực tiễn. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án - Mục đích nghiên cứu của luận án Làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn, yêu cầu và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay. - Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án + Luận giải, làm rõ vấn đề lý luận và nhân tố tác động đến đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay. 6 + Khảo sát đánh giá thực trạng và chỉ rõ vấn đề đặt ra của đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay. + Nêu ra yêu cầu, đề xuất giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay. 3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án - Đối tượng nghiên cứu của luận án Đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN. - Phạm vi nghiên cứu của luận án Luận án nghiên cứu vấn đề đổi mới CSXH, đi sâu vào các chính sách đãi ngộ trong đổi mới giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đảm bảo đời sống, điều kiện làm việc đối với đội ngũ giảng viên trong các học viện, trường sĩ quan quân đội (bậc đại học), chủ yếu từ năm 1992 đến nay. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án - Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về CSXH, về phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương về CSXH đối với quân đội và cán bộ, giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN. - Cơ sở thực tiễn luận án dựa vào thực tế hoạt động đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội trong những năm qua, các số liệu thống kê, các báo cáo tổng kết đánh giá thực trạng đổi mới CSXH đối với giảng viên trong các nhà trường quân đội; kết quả điều tra, khảo sát thực tế của tác giả về đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN trong những năm vừa qua. - Phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng tổng hợp phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, hệ thống, so sánh, điều tra xã hội học, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia... 7 5. Những đóng góp mới của luận án - Đưa ra quan niệm về đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội, khẳng định vai trò của đổi mới CSXH đối với việc phát huy nguồn nhân lực đội ngũ giảng viên trong sự nghiệp đổi mới nâng cao chất lượng GD&ĐT của các nhà trường QĐNDVN hiện nay. - Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra của đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong nhà trường QĐNDVN hiện nay. - Đề xuất hệ thống giải pháp cơ bản nhằm đổi mới CSXH đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án * Ý nghĩa lý luận Với kết quả đạt được, luận án góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận, cung cấp các luận cứ khoa học về CSXH và đổi mới CSXH cho Đảng, Nhà nước, Quân đội và các cơ quan chức năng trong quản lý con người và quản lý quân nhân trong QĐNDVN bằng công cụ chính sách. * Ý nghĩa thực tiễn - Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy về CSXH và CSXH đối với quân đội và các học viện, nhà trường quân đội. - Luận án cung cấp thêm những căn cứ, số liệu cho việc nghiên cứu, ban hành CSXH và đổi mới CSXH đối với quân đội nói chung và đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trường quân đội nói riêng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 8 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Cùng với sự phát triển của đất nước, trong những năm qua, vấn đề CSXH, đổi mới CSXH đối với các nhóm lao động xã hội, những ngành nghề mang tính đặc thù, đặc biệt là đổi mới CSXH đối với đội ngũ trí thức trong đó có đội ngũ giảng viên bậc đại học nhằm tạo động lực phát triển KH&CN, GD&ĐT được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm; đồng thời, nó cũng thu hút nhiều cơ quan trong và ngoài quân đội, các nhà khoa học nghiên cứu vấn đề này. Thời gian gần đây đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về CSXH; các vấn đề liên quan đến sự phát triển của đội ngũ cán bộ, giảng viên trong các nhà trường QĐNDVN cũng như của đất nước. 1.1. Nhóm công trình nƣớc ngoài nghiên cứu về chính sách xã hội và chính sách xã hội trong quân đội - GS,TSKH. V.C.Bulannov (2003), "bản chất, nội dung và mục đích của chính sách xã hội" NXB Ezamen (ID số 05518ot01.08.01). Tác giả công trình quan niệm, xã hội bao gồm các nhóm xã hội (số đông nhất trong giai cấp của họ). Mỗi nhóm như vậy có sự thật của riêng mình, có hình dung thế nào là tốt, là xấu trong trật tự hiện hữu, cũng như cách thay đổi trật tự đó như thế nào. Có nghĩa là trong các nhóm xã hội có lợi ích khác nhau, đôi khi giống nhau điều gì đó, nhưng đôi khi không thể dung hòa, thậm chí thỏa hiệp. Toàn bộ các nhóm xã hội đó là cấu trúc của xã hội. Chính sách xã hội là quan hệ tương hỗ giữa các nhóm xã hội với lý do gìn giữ và thay đổi vị thế xã hội của nhân dân nói chung và các giai cấp, tầng lớp, xã hội, các nhóm dân số xã hội, các nhóm chuyên môn xã hội, các cộng đồng xã hội (các gia đình, dân tộc, nhân dân các thành phố, làng mạc, vùng...). Chức năng của chính sách xã hội: một là, đảm bảo sự ổn định xã hội, an sinh xã hội của xã hội; hai là, đảm bảo sự vững chắc của chính quyền; ba là, đảm bảo phân phối quyền lực trong nền kinh tế (sở hữu), làm sao để đa số công nhận sự 9 công bằng để không xuất hiện các cuộc đấu tranh vượt khỏi vòng kiểm soát; bốn là, thành lập hệ thống phân phối các dự trữ và hiệu quả kinh tế đáp ứng yêu cầu số đông dân cư; năm là, đảm bảo môi trường ở mức cần thiết và đầy đủ cho xã hội và nhà nước; sáu là, bảo đảm cuộc sống cho xã hội ở mức cần thiết và đầy đủ cho dân chúng nói chung, cho các nhóm xã hội nói riêng. - GS. M.V. Kibakin (2011), "Nghiên cứu chất lượng cuộc sống của cán bộ giảng dạy của các cơ sở giáo dục quân sự trong quân đội Nga", Luận án Tiến sĩ, Học viện Quân sự Frunze, Liên bang Nga. Luận án nêu lên vai trò của nâng cao chất lượng cuộc sống cho cán bộ giảng dạy trong các cơ sở giáo dục quân sự quân đội Nga, là nhằm bổ sung hiệu quả cho những giá trị cơ bản khác nhau như: tận tụy với nhiệm vụ, trung thành, sẵn sàng tuân thủ trình tự, sẵn sàng hi sinh. Những giá trị ấy chỉ có được khi những cán bộ giảng dạy trong nhà trường quân sự được tôn vinh và đảm bảo chất lượng trong cuộc sống. So sánh có liên quan đến chất lượng cuộc sống của giáo viên với nhóm xã hội tương tự, như của giáo viên các trường dân sự. Ngược lại, với công việc, dịch vụ lại không có thời gian và cũng không có cơ hội hợp pháp cho thêm (trong dịch vụ) cải thiện hạnh phúc: một giảng viên quân sự không thể (và không nên) kết hợp công việc chuyên môn, công việc giảng dạy - để kinh doanh. Chất lượng cuộc sống của giáo viên trong các trường quân sự luôn phụ thuộc vào tình trạng vật chất, tinh thần của đơn vị và quyền lực của nhà nước. Chính vì vậy, khi tính toán chất lượng cuộc sống của cán bộ giảng dạy không chỉ đơn thuần là đảm bảo bằng tiền thù lao và các vật chất đảm bảo khác, mà phải đảm bảo bằng những đặc điểm của các giá trị tham chiếu trong mối quan hệ khác nhau đối với các nhóm xã hội tương đồng và các nhà hoạt động kinh tế. - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nga Nikolai Pankov (2007), "Triển vọng cho an sinh xã hội của người phục vụ trong quân đội Nga". Luật liên bang, 24 tháng 6 năm 2007 № 198 - FZ, Maxcơva. Theo Trung tâm Nghiên cứu Công luận All-Nga, 40% người Nga được hỏi thừa nhận rằng gia đình quân nhân hiện đang sống trong 10 nghèo đói, dưới mức trung bình quốc gia, gần 60% người Nga tin rằng tình hình kinh tế - xã hội của các quân nhân cao hơn mức trung bình toàn quốc. Phân tích các dữ liệu giám sát cho phép xác định các hướng chính của chính sách xã hội quân sự đòi hỏi phải cải thiện các văn bản pháp lý: cải cách tiền lương các quân nhân; giải quyết vấn đề nhà ở các quân nhân và người dân thải ra từ các dịch vụ quân sự; cải thiện hệ thống lương hưu công dân thải ra từ các dịch vụ quân sự, và các gia đình của các nạn nhân (chết) chiến sĩ; cải thiện y tế và điều dưỡng cho quân nhân, công dân thải ra từ các dịch vụ quân sự, và gia đình của họ; tính hiệu quả của bảo trợ xã hội và phục hồi chức năng của các chiến binh, các gia đình các quân nhân đã chết; tạo ra các cơ chế hiệu quả để khuyến khích việc làm của nhân lực của lực lượng vũ trang; thích ứng với xã hội, đào tạo và tìm việc làm của người thải ra từ các dịch vụ quân sự. - Cơ quan nghiên cứu Ủy ban Cố vấn Ban Chính sách Quốc phòng Mỹ (2011), "Chinese military officers' wages steadily rising" (Lương sĩ quan Trung Quốc quân sự gia tăng đều đặn), Tân hoa xã, Bắc Kinh, Trung Quốc. Thông tin phản ánh, lương sĩ quan quân sự Trung Quốc đã tăng đều qua các năm qua. Một cuộc khảo sát của các sĩ quan quân đội đã cho thấy rằng vào cuối năm 2010, thu nhập bình quân hàng tháng đối với cán bộ quân sự là 5,373.14 nhân dân tệ (khoảng $ 826), cao hơn so với mức lương trung bình của năm 2005 là 2,61 lần. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầu người cho các gia đình của các sĩ quan quân đội đạt 2,637.62 nhân dân tệ, cao hơn so với con số tương tự từ năm 2005 là 2,41 lần. Các khảo sát cho thấy lương sĩ quan đang leo ở mức nhanh nhất kể từ khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa vào năm 1949. Đồng thời, báo cáo cho biết, cuộc khảo sát, trong đó lấy mẫu 10.000 sĩ quan quân đội, cho thấy điều kiện sống cho cán bộ quân sự cũng được cải thiện đáng kể, mặc dù vợ chồng và con cái của họ vẫn đang gặp rắc rối với việc làm và giáo dục. Tương ứng, theo báo cáo của các quan chức quân sự đã cam kết sẽ tiếp tục cải thiện phúc lợi nhân viên quân sự trong năm năm tiếp theo. 11 - Fiona Tam (2012), Mid-ranking officers get dramatic pay increase (Tăng lương cho sĩ quan phục vụ trong quân đội) http://www.asianews.it/news-en/Payraise-of-50-for-Chinese-soldiers-14809.html. Thông tin cho thấy, thu nhập trung bình hàng tháng cho cấp trung sĩ Quân đội Giải phóng Nhân dân đã tăng đến 5.373 nhân dân tệ (HK $ 6413), gấp 2,6 lần so với số tiền mà họ đã giành được 5 năm trước đây, theo một cuộc khảo sát được tiến hành bởi trụ sở của PLA. Thu nhập bình quân hàng tháng của gia đình trong số 10.000 nhân viên phỏng vấn, xếp hạng từ chỉ huy đến trung úy, đã có 37% số cán bộ đã mua nhà riêng của họ, và gần 43% đã có tài khoản tiết kiệm. Khoảng 17% sở hữu xe ô tô riêng của họ, và 85% có máy tính. Cán bộ ở các tỉnh phía Nam thu nhập nhiều hơn so với những người ở phía Tây. Cuộc điều tra cho thấy một nửa của các quan chức quân đội từ những đơn vị ở Quảng Châu có xe ô tô riêng cao hơn nhiều so với mức thu nhập trung bình. Các gia đình quân nhân đã để dành trung bình 2.703 nhân dân tệ mỗi người một tháng, 60 phần trăm còn lại dùng để mua thực phẩm và các chi phí hàng ngày. Các nhà chức trách cho rằng sự tăng trưởng thu nhập để kết nối giữa hệ thống lương quân sự với hệ thống lương đối với công chức, là cao hơn nhiều so với thu nhập người dân trung bình. 1.2. Nhóm công trình nghiên cứu trong nƣớc về chính sách xã hội và chính sách xã hội đối với trí thức trong các trƣờng đại học Việt Nam Từ sau những năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế của đất nước, theo cơ chế thị trường định hướng XHCN thì các vấn đề xã hội được đặt ra một cách cấp thiết. Có nhiều công trình đề cập đến khái niệm, vị trí, nội dung của CSXH và CSXH đối với đội ngũ giảng viên bậc đại học. Sau đây tác giả thống kê một số công trình tiêu biểu đó là: - Lê Đăng Doanh và Nguyễn Minh Tú (1999): "Khung chính sách xã hội trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường" NXB Thống kê, Hà Nội. Theo nhóm tác giả, nội dung CSXH của Việt Nam được thể hiện theo lĩnh vực sau: Lĩnh vực 1: Các lĩnh vực CSXH xác định theo chi ngân sách nhà nước bao gồm: Lĩnh vực xã hội: GD&ĐT; y tế - bảo vệ sức khỏe; dân số kế hoạch hóa gia 12 đình; bảo vệ, chăm sóc trẻ em; dịch vụ xã hội cơ bản: giáo dục cơ bản; chăm sóc sức khỏe ban đầu; sức khỏe môi trường; dinh dưỡng; sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình. Lĩnh vực 2: Các lĩnh vực CSXH xác định theo đối tượng bao gồm: Chính sách đối với phụ nữ; chính sách đối với trẻ em; chính sách đối với thanh niên; chính sách đối với dân tộc ít người; chính sách đối với người già; chính sách đối với người tàn tật; chính sách đối với người sống trong vùng gặp thiên tai; chính sách đối với thương, bệnh binh và nạn nhân chiến tranh; chính sách đối với người lao động. Lĩnh vực 3: Các lĩnh vực CSXH xác định theo phạm vi tác động bao gồm: Chính sách giáo dục và đào tạo; chính sách y tế; chính sách bảo hộ người lao động; hệ thống bảo hiểm xã hội bao gồm: (bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bồi thường tai nạn lao động, trợ cấp thôi việc.); chính sách giải quyết việc làm bao gồm (đào tạo, dạy nghề; xúc tiến việc làm; quỹ giải quyết việc làm); chính sách ưu đãi xã hội; chính sách cứu trợ xã hội; chính sách xóa đói, giảm nghèo; chính sách chống tệ nạn xã hội và tội phạm. - Hoàng Chí Bảo, Đoàn Minh Huấn (2012): "Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội". NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đưa ra quan niệm xã hội theo nghĩa rộng, đó là một cấu trúc hệ thống chỉnh thể, trong nghĩa rộng nhất có tầm khái quát lớn nhất là xã hội loài người, là lịch sử thế giới, nhân loại. Đó là, một đất nước, một cộng đồng dân tộc; với một hình thái nhà nước, một nước độc lập, có chủ quyền toàn vẹn, có địa vị pháp lý và quan hệ quốc tế. Xã hội theo nghĩa hẹp, là phương diện xã hội của đời sống xã hội. Đó là một tập hợp lớn, một hệ thống các vấn đề xã hội trong phát triển, liên quan trực tiếp tới đời sống của con người như lao động và việc làm, mức sống và tình trạng đói nghèo, dân số, sức khỏe và y tế cộng đồng, nhà ở, giáo dục, vệ sinh môi trường, an toàn giao thông, văn hóa tinh thần... Nói tóm lại, là tất cả những vấn đề của đời sống cá nhân và cộng đồng, có tính chất và hệ quả xã hội mà xã hội và nhà nước phải giải quyết bằng chính sách. 13 - Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), "Đổi mới giáo dục Việt Nam", Luật Giáo dục sửa đổi bổ sung và các văn bản mới nhất về các đề án giáo dục, quy chế tài chính, quy chế tuyển sinh. Trong Luật Giáo dục được sửa đổi, bổ sung ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X kỳ họp thứ X quy định: Nhà giáo của các trường cao đẳng, đại học được tuyển dụng theo phương thức ưu tiên đối với sinh viên tốt nghiệp loại khá, loại giỏi, có phẩm chất tốt và người có trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có nguyện vọng trở thành nhà giáo. Chính sách với nhà giáo trong Luật Giáo dục quy định: Nhà nước có chính sách bồi dưỡng nhà giáo về chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ và chuẩn hóa nhà giáo; nhà giáo được cử đi học nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, được hưởng lương và phụ cấp theo quy định của Chính phủ; nhà giáo được hưởng tiền lương, phụ cấp ưu đãi theo nghề và phụ cấp khác theo quy định của Chính phủ; nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được ủy ban nhân dân các cấp tạo điều kiện về chỗ ở, được hưởng chế độ phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định của Chính phủ... [11, tr. 260-264]. - Vũ Thanh Bình (2012), "Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay", Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. Tác giả quan niệm, giảng viên là khái niệm chỉ những người làm công tác giảng dạy, nghiên cứu trong các học viện, các trường đại học, cao đẳng. Từ thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, tác giả đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận chính trị trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Trong đó có giải pháp Đổi mới, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tạo động lực khuyến khích đội ngũ giảng viên lý luận chính trị không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp. Để nhanh chóng tạo ra những thay đổi mang tính bước ngoặt trong đội ngũ giảng viên lý luận chính trị, về cơ chế, chính sách, hết sức lưu ý sửa đổi, hoàn thiện những cơ chế chính sách bao gồm: Cơ chế, chính sách tuyển dụng, 14 bố trí, sử dụng;cơ chế chính sách đối với việc học tập nâng cao trình độ; cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu khoa học; cơ chế chính sách khuyến khích đổi mới phương pháp giảng dạy. - Đảng Cộng sản Việt Nam (2013); "Quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo trong thời kỳ đổi mới và hội nhập", NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Kết luận Hội nghị lần thứ sáu khóa XI về Đề án "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế" đã đề cập đến những điểm hạn chế, yếu kém trong trong xây dựng đội ngũ giáo viên của sự nghiệp GD&ĐT trong thời gian qua đó là: Công tác quy hoạch phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa được quan tâm. Chất lượng đào tạo của các trường sư phạm còn hạn chế, đào tạo giáo viên chưa gắn với nhu cầu của địa phương. Đầu tư cho giáo dục còn mang tính bình quân; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở giáo dục còn thiếu và lạc hậu. Quỹ đất dành cho phát triển giáo dục còn thiếu. Chế độ, chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa thỏa đáng. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng xác định đối với GD&ĐT đó là: Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Thực hiện kiểm định chất lượng GD&ĐT ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội. - Trần Thị Lan Anh (2014), "Chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Thực trạng chất lượng lao động của đội ngũ trí thức hiện nay tác giả nêu lên một số vấn đề biểu hiện ở kết quả đào tạo nguồn nhân lực đó là: Hầu hết các lĩnh vực còn thiếu lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý giỏi, 15 nhân lực khoa học công nghệ trình độ cao, các nhà khoa học đầu đàn, đầu ngành; tác phong công nghiệp, thể lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của nguồn nhân lực được đào tạo chưa đáp ứng tốt nhu cầu của người sử dụng lao động; khả năng sáng tạo, khả năng thích ứng, hội nhập của nguồn nhân lực được đào tạo đại học ở nước ta chưa cao. Từ đó, tác giả xác định một số vấn đề cần đặt ra và những giải pháp nâng cao chất lượng lao động của đội ngũ trí thức giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay. 1.3. Nhóm công trình nghiên cứu trong nƣớc về chính sách xã hội trong Quân đội và chính sách xã hội đối với đội ngũ giảng viên trong các nhà trƣờng Quân đội nhân dân Việt Nam - Tổng cục Chính trị - Bộ Quốc phòng (1997), "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chính sách đãi ngộ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng trong tình hình mới", đề tài KXB-96, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội. Nhóm nghiên cứu đề tài đưa ra khái niệm của chính sách đãi ngộ đối với quân đội và hậu phương quân đội là một bộ phận quan trọng của CSXH, thuộc hệ thống chính sách chung của Đảng và Nhà nước; đó là hệ thống quan điểm, thái độ, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta được pháp luật hóa bằng các chế độ, quy định và phong trào bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần đối với người lính và hậu phương gia đình của họ nhằm phát huy nhân tố con người trong hoạt động quân sự tạo động lực trực tiếp đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng. Nội dung của chính sách đãi ngộ là phạm vi rộng lớn bao gồm, chính sách, chế độ bảo đảm về ăn, mặc, ở; chính sách về chế độ tiền lương, phụ cấp; các chế độ khuyến khích đặc thù; chính sách, chế độ mang tính bảo hiểm xã hội, bảo đảm sức khỏe, bảo hiểm y tế; chế độ với thương bệnh binh... - Nguyễn Văn Tốn (2002) "Nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục nghề nghiệp trong các trường đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật hiện nay". Đề tài KX-03. Nhóm đề tài đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục nghề nghiệp trong các trường đào tạo cán bộ chuyên môn kỹ thuật hiện nay, trong đó có giải pháp Đổi mới chính sách sử dụng, đãi ngộ và tạo điều kiện bồi 16 dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp để người cán bộ chuyên môn kỹ thuật yên tâm phát triển suốt đời trong quân đội. Để có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn kỹ thuật làm cho họ yên tâm với nghề nghiệp mình đã lựa chọn, yêu cầu CSXH đối với họ phải đạt được những vấn đề: Độc lập với các tiêu chí của lĩnh vực chỉ huy, quản lý; căn cứ vào hiệu quả công tác và trình độ chuyên môn; khuyến khích thâm niên công tác; khuyến khích chuyên môn sâu, kích thích các thành quả lao động sáng tạo. - Trần Danh Bích (2002), "Xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới", Đề tài KXB 96-09. Nhóm thực hiện đề tài đưa ra nhiều nhóm giải pháp nhằm xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, sĩ quan trong QĐNDVN hiện nay, trong đó có nhóm giải pháp: Tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách đối với cán bộ và gia đình cán bộ trong quân đội. Trong giải pháp này nhóm tác giả cho rằng: Công tác chính sách đối với cán bộ không chỉ dừng lại ở chính sách đãi ngộ, mà cần phải đổi mới tư duy, đi sâu vào nhiều mặt, nhiều mối quan hệ khác, vừa phải đảm bảo tính công bằng cho những người hoạt động binh nghiệp, vừa nâng cao vị thế xã hội của người sĩ quan. Có như vậy, chính sách mới phát huy được hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, động viên cán bộ tu dưỡng, rèn luyện, yên tâm gắn bó với quân đội, thu hút được người tài năng vào quân đội. - Đặng Đức Thắng chủ biên (2003), "Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ giáo viên khoa học xã hội và nhân văn trong quân đội giai đoạn hiện nay", NXB Quân đội nhân dân. Đề tài của nhóm các nhà khoa học ở Học viện Chính trị nghiên cứu, đã nêu quan điểm, nhiệm vụ đào tạo đội ngũ giảng viên khoa học xã hội nhân văn quân sự theo quan điểm của Đảng, Bộ Quốc phòng. Đề tài quán triệt tinh thần chỉ thị ngày 22/4/2003 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về một số nhiệm vụ cấp bách kiện toàn và phát triển nhà giáo quân đội đến năm 2010, đó là: 1. Kiện toàn tổ chức biên chế nhà giáo và hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh nhà giáo. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan