Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đối chiếu thuật ngữ thông tin thư viện anh việt...

Tài liệu đối chiếu thuật ngữ thông tin thư viện anh việt

.PDF
304
390
101

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH HẢI ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ THÔNG TIN – THƯ VIỆN ANH – VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu Mã số: 9222024 Hà Nội, năm 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ THANH HẢI ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ THÔNG TIN – THƯ VIỆN ANH – VIỆT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh – đối chiếu Mã số: 9222024 Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Quang Thiêm Hà Nội, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án tiến sĩ Đối chiếu thuật ngữ thông tin – thư viện Anh – Việt là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những tư liệu, số liệu và kết quả trình bày trong luận án là trung thực. Đề tài nghiên cứu và các kết quả chưa được ai công bố. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hải MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG PHẦN MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 8 1.1. 8 Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.2. Lý luận chung về thuật ngữ và thuật ngữ thông tin – thư viện 25 1.3. Lý thuyết chung về ngôn ngữ học so sánh đối chiếu 57 Tiểu kết chương 1 60 Chương 2 – ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO THUẬT NGỮ 61 THÔNG TIN – THƯ VIỆN ANH – VIỆT 2.1. Đối chiếu phương thức cấu tạo thuật ngữ thông tin – thư viện 61 tiếng Anh và tiếng Việt 2.2. Đối chiếu đặc điểm cấu tạo thuật ngữ thông tin – thư viện 71 Anh – Việt 2.3. Đối chiếu mô hình cấu tạo thuật ngữ thông tin – thư viện 85 trong tiếng Anh và tiếng Việt Tiểu kết chương 2 102 CHƯƠNG 3: ĐỐI CHIẾU ĐẶC ĐIỂM ĐỊNH DANH THUẬT NGỮ 105 THÔNG TIN - THƯ VIỆN ANH – VIỆT 3.1. Đối chiếu đặc điểm định danh thuật ngữ thông tin – thư viện 105 Anh – Việt 3.2. Đối chiếu mô hình định danh thuật ngữ thông tin – thư viện 109 Anh – Việt 3.3. Đối chiếu đặc điểm định danh thuật ngữ thông tin – thư viện 142 Anh – Việt Tiểu kết chương 3 144 KẾT LUẬN 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151 PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG Chương 2: Bảng 2.1. Số lượng thuật tố cấu tạo thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Anh 71 Bảng 2.2. Số lương thuật tố cấu tạo thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt 72 Bảng 2.3. Phương thức kết hợp thuật ngữ thông tin - thư viện là từ ghép 76 Bảng 2.4. Thống kê từ loại thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Anh 1 thuật tố 77 Bảng 2.5. Thống kê từ loại thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt 1 thuật tố 78 Bảng 2.6. Thống kê từ loại thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Anh 2 thuật tố 80 Bảng 2.7. Thống kê từ loại thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt 2 thuật tố 81 Bảng 2.8. Thống kê từ loại thuật ngữ thông tin – thư viện ba thuật tố 83 Bảng 2.9. Thống kê từ loại thuật ngữ thông tin – thư viện bốn thuật tố 84 Bảng 2.10. Thống kê từ loại thuật ngữ thông tin – thư viện năm thuật tố 85 Bảng 2.11. Mô hình cấu tạo thuật ngữ thông tin – thư viện trong tiếng Anh 99 và tiếng Việt Chương 3 Bảng 3.1. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ sản phẩm thông tin – thư viện 115 trong tiếng Anh và tiếng Việt Bảng 3.2. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ dịch vụ thông tin – thư viện 123 trong tiếng Anh và tiếng Việt Bảng 3.3. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ hoạt động thông tin – thư viện 132 trong tiếng Anh và tiếng Việt Bảng 3.4. Mô hình định danh thuật ngữ chỉ chủ thể tham gia hoạt động thông tin – thư viện trong tiếng Anh và tiếng Việt. 140 BẢNG QUY ƯỚC VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN Thông tin – thư viện TTTV Thông tin – thư viện tiếng Việt TTTV TV Thông tin – thư viện tiếng Anh TTTV TA PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khoa học thông tin – thư viện là một ngành khoa học có lịch sử phát triển lâu đời. Lần đầu tiên nghiệp vụ thư viện được tổ chức giảng dạy như một ngành khoa học vào ngày 01 tháng 01 năm 1887 tại Trường Kinh tế Thư viện thuộc Đại học Columbia, Hoa Kỳ. Ở Việt Nam, trong Pháp lệnh Thư viện năm 2000, Điều 1 đã ghi rõ: “Thư viện là nơi gìn giữ di sản thư tịch của dân tộc; thu thập, tàng trữ, tổ chức việc khai thác và sử dụng chung vốn tài liệu trong xã hội nhằm truyền bá tri thức, cung cấp thông tin phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu, công tác và giải trí của mọi tầng lớn nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế, văn hóa phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [27, tr.9]. Điều này càng khẳng định rõ vai trò quan trọng của thư viện trong mọi mặt của đời sống xã hội. Ngày nay, xu hướng hội nhập quốc tế đã đặt ra những yêu cầu cho nhiều ngành khoa học, trong đó có cả khoa học thông tin – thư viện đó là phải có sự hoàn thiện và phát triển hệ thống thuật ngữ khoa học tiếng Việt sao cho phù hợp với chuẩn mực chung của thế giới. Là một ngành khoa học có đóng góp lớn cho sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội, việc cập nhật tri thức mới của ngành thông tin – thư viện thông qua việc hệ thống hóa và xây dựng hệ thuật ngữ khoa học chuẩn được sử dụng trong lĩnh vực này vừa có giá trị khoa học, vừa mang giá trị thời sự thực tiễn rất rõ rệt. Có một thực tế là hầu hết các thuật ngữ biểu đạt các khái niệm, phạm trù, sự vật, hiện tượng trong lĩnh vực thông tin – thư viện thường được sao phỏng hoặc vay mượn từ tiếng nước ngoài như tiếng Pháp, tiếng Nga và sau này là tiếng Anh. Sự thiếu nhất quán trong cách giải nghĩa, phiên âm, gọi tên các thuật ngữ còn khá phổ biến. Nhiều thuật ngữ thông tin - thư viện tiếng Việt chưa biểu đạt được chính 1 xác khái niệm mà chỉ mang tính chất giải thích, những thuật ngữ vay mượn nước ngoài được sử dụng với nhiều biến thể khác nhau., Những vấn đề này gây khó khăn cho giảng viên, sinh viên trong giảng dạy, học tập và công tác nghiên cứu, phổ biến khoa học thông tin – thư viện trong điều kiện tài liệu chuyên môn, sách tham khảo còn hạn chế. Những năm gần đây, công tác nghiên cứu các hệ thuật ngữ thuộc một số ngành khoa học kỹ thuật đã rất được quan tâm. Tuy nhiên, hệ thuật ngữ thông tin – thư viện hầu như chưa được nghiên cứu, đặc biệt là chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu thuật ngữ thông tin – thư viện một cách toàn diện về mặt lý thuyết cũng như về cấu tạo, ngữ nghĩa và cách định danh. Để đảm bảo những thuật ngữ đó biểu đạt được một cách chính xác những các khái niệm, biểu tượng, phạm trù, các sự vật, hiện tượng tương ứng với ngôn ngữ gốc, việc khảo sát, đối chiếu thuật ngữ thông tin – thư viện Anh - Việt một cách toàn diện và hệ thống là một việc vô cùng hữu ích và cần thiết. Vì những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài luận án “Đối chiếu thuật ngữ thông tin - thư viện Anh – Việt”. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi sẽ tập trung khảo sát, phân tích các đặc điểm về cấu tạo, định danh và đặc trưng ngữ nghĩa hệ thuật ngữ thông tin – thư viện trong tiếng Anh và tiếng Việt. Đồng thời tiến hành đối chiếu để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau của hai hệ thuật ngữ này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là nhằm làm rõ đặc điểm cấu tạo và đặc điểm định danh hệ thuật ngữ thông tin – thư viện Anh - Việt thông qua việc khảo sát, phân tích hệ thuật ngữ TTTV trong cả hai ngôn ngữ. Trên cơ sở kết quả khảo sát và phân tích, tiến hành đối chiếu để làm rõ những điểm giống nhau và khác nhau giữa hai hệ thuật ngữ TTTV tiếng Anh và tiếng Việt. 2 Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là cơ sở góp phần hệ thống hóa và hoàn thiện hệ thuật ngữ TTTV tiếng Việt cho nhu cầu phát triển và hội nhập với khoa học thông tin - thư viện toàn cầu; nâng cao chất lượng giảng dạy môn tiếng Anh chuyên ngành, tạo điều kiện thuật lợi cho giảng viên, sinh viên trong giảng dạy, học tập, tra cứu tài liệu và nghiên cứu khoa học cũng như cho công tác biên soạn từ điển chuyên môn. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài tập trung giải quyết những vấn đề sau: 1) Khái quát tình hình nghiên cứu thuật ngữ khoa học nói chung và hệ thuật ngữ khoa học thông tin – thư viện nói riêng trên thế giới và ở Việt Nam; 2) Xác lập cơ sở lý luận cho luận án qua việc hệ thống hóa các quan điểm lý luận về thuật ngữ, các phương thức xây dựng hệ thuật ngữ khoa học nói chung và hệ thuật ngữ TTTV nói riêng trong tiếng Anh và tiếng Việt; 3) Xác định mô hình kết hợp, các thành tố để tạo thành thuật ngữ thông tin – thư viện, xác định mô hình và phương thức định danh thuật ngữ thông tin – thư viện trong tiếng Anh và tiếng Việt; 4) Đối chiếu hệ thuật ngữ thông tin – thư viện Anh – Việt về các phương diện đặc điểm, mô hình cấu tạo và phương thức định danh thuật ngữ nhằm tìm ra điểm tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thuật ngữ này; 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thuật ngữ thông tin – thư viện trong tiếng Anh và tiếng Việt, cụ thể là các thuật ngữ là từ và ngữ biểu đạt các khái niệm, đối tượng được sử dụng trong chuyên ngành thông tin – thư viện Anh – Việt và sự đối chiếu các thuật ngữ này trong hai ngôn ngữ. Trong đó tiếng Anh được chọn là ngôn ngữ chuẩn và tiếng Việt là ngôn ngữ được đối chiếu. 3.2. Phạm vi nghiên cứu 3 Trong phạm vi luận án, chúng tôi tập trung nghiên cứu đối chiếu thuật ngữ thông tin – thư viện trong tiếng Anh và tiếng Việt trên hai phương diện: đặc điểm cấu tạo, đặc điểm và phương thức định danh để tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau của hai hệ thuật ngữ này, ưu nhược điểm của thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt, từ đó góp phần hoàn thiện lý thuyết thuật ngữ học nói chung và hệ thuật ngữ thông tin – thư viện nói riêng, hướng tới việc xây dựng hệ thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt phù hợp với những chuẩn mực chung của tiếng Việt và xu hướng quốc tế hóa. 3.3. Ngữ liệu nghiên cứu Ngữ liệu nghiên cứu của luận án là 1500 thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Anh và 1500 thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt, được thu thập từ các cuốn từ điển song ngữ, đa ngữ, từ điển giải thích, bao gồm: 1. John Feather, Paul Sturges (1997), International encyclopedia of information and library science. London. - New York : Routledge. 2. Ray Prytherch (1995), Harrod's librarians' glossary, published by Gower., England; 3. Reitz, Joan M., (2004), ODLIS: Online Dictionary of Library and Information Sciences. http://www.abc-clio.com/ODLIS/odlis_A.aspx 4. ALA - Từ điển giải nghĩa thư viện học và tin học Anh-Việt: Glossary of Library and Information Science (tài liệu dịch), Arizona: NXB Galen Press, Ltd. 1996. 5. Từ điển thuật ngữ thư viện học Việt – Anh – Pháp, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 1997. 6. Từ điển Danh từ Thư viện – Thông tin Anh – Việt, Nguyễn Hữu Viêm (2000). 7. Từ điển chuyên ngành Thư viện – Thông tin Anh – Việt, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2010. 8. Từ điển chuyên ngành Thư viện – Thông tin Việt – Anh, Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2013. 4 Ngoài ra, các thuật ngữ còn được thu thập từ những giáo trình chuyên ngành thông tin – thư viện, các tài liệu, tạp chí, bài báo chuyên đề chuyên ngành thông tin – thư viện bằng tiếng Anh và tiếng Việt. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây: 4.1. Phương pháp so sánh đối chiếu Phương pháp này được sử dụng để so sánh, đối chiếu các đặc điểm cấu tạo, ngữ nghĩa, đặc điểm định danh thuật ngữ thông tin – thư viện Anh – Việt trong các trường hợp cụ thể, nhằm chỉ ra cái chung hay cái riêng, những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai hệ thuật ngữ được đối chiếu; mức độ tương đương thuật ngữ giữa hai hệ thuật ngữ thông tin – thư viện Anh – Việt. 4.2. Phương pháp miêu tả Phương pháp này được sử dụng để miêu tả, phân tích đặc điểm cấu tạo thuật ngữ thông tin – thư viện Anh – Việt về phương thức cấu tạo, từ loại, mô hình câu tạo; xác định cơ sở đối chiếu, đặc điểm định danh thuật ngữ thông tin – thư viện về phương diện ngữ nghĩa, hình thức biểu thị và đặc trưng định danh thuật ngữ TTTV trong cả hai ngôn ngữ. 4.3. Phương pháp phân tích theo thành tố cấu tạo Phương pháp phân tích thành tố cấu tạo dùng để phân tích các từ, ngữ định danh để xác định các yếu tố cấu tạo cơ sở trong hệ thống thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Anh và tiếng Việt; xác định mô hình cấu tạo, trên cơ sở phân tích các thành tố trực tiếp cũng như mối quan hệ giữa các thành tố trực tiếp cấu tạo nên thuật ngữ thông tin – thư viện trong cả hai ngôn ngữ Anh – Việt. 4.4. Thủ pháp nghiên cứu Thủ pháp được sử dụng trong luận án này là thủ pháp thống kê từ vựng. Thủ pháp được áp dụng để hệ thống số liệu về hệ thuật ngữ thông tin – thư viện Anh – Việt như: thống kê từ loại, thống kê yếu tố cấu tạo. Kết quả số liệu thống kê được 5 sử dụng làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đối chiếu hai hệ thuật ngữ thông tin – thư viện Anh – Việt. Ngoài ra, phương pháp luận mà luận án tuân thủ dựa trên trình tự logic và tư duy khoa học thông qua những phương pháp phân tích, tổng hợp cả về định lượng và định tính, diễn dịch, quy nạp kết hợp với ví dụ minh họa cụ thể. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Có thể nói đây là luận án đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu đối chiếu một cách hệ thống về thuật ngữ thông tin – thư viện trong tiếng Anh và tiếng Việt trên phương diện đặc điểm cấu tạo và phương thức định danh. Trên cơ sở đối chiếu hai hệ thống thuật ngữ thông tin – thư viện Anh – Việt, luận án làm rõ hơn đặc điểm cấu tạo, phương thức tạo lập và đặc điểm định danh thuật ngữ TTTV tiếng Việt, bổ sung cơ sở lý thuyết cho việc nghiên cứu thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt nói riêng và thuật ngữ học nói chung, góp phần hoàn thiện hệ thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt theo định hướng ngôn ngữ học, đáp ứng được các yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập toàn cầu của Việt Nam. 6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án 6.1. Về mặt lý luận - Đề tài làm rõ những điểm giống và khác nhau về phương thức tạo lập, phương thức định danh thuật ngữ thông tin – thư viện trong hai ngôn ngữ Anh-Việt. Chúng là tên gọi trực tiếp hay gián tiếp của các khái niệm, đối tượng trong lĩnh vực thông tin – thư viện; - Đề tài chỉ ra những đặc điểm cấu tạo của thuật ngữ thông tin - thư viện tiếng Anh trong sự đối chiếu với thuật ngữ thông tin - thư viện tiếng Việt; - Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện lý thuyết về ngôn ngữ học nói chung và thuật ngữ học nói riêng, Từ đó góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho 6 việc xây dựng hệ thống thuật ngữ khoa học ở Việt Nam đáp ứng các yêu cầu của xã hội trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế. 6.2. Về mặt thực tiễn Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị về mặt thực tiễn đó là - Đóng góp thiết thực cho việc chỉnh lý, tiến tới hoàn thiện hệ thống thuật ngữ thông tin – thư viện hiện có của tiếng Việt; - Là cơ sở để xây dựng, biên soạn từ điển thuật ngữ thông tin – thư viện tiếng Việt phục vụ cho sự phát triển ngành thông tin – thư viện nước ta; - Phục vụ thiết thực cho việc giảng dạy, biên dịch và biên soạn giáo trình, tử điển chuyên ngành thông tin – thư viện. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà nghiên cứu thuật ngữ học nói chung, thuật ngữ TTTV nói riêng và các cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vực thông tin - thư viện ở Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Luận án được chia thành làm 3 chương bố cục như sau: CHƯƠNG 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận CHƯƠNG 2: Đối chiếu đặc điểm cấu tạo thuật ngữ thông tin – thư viện Anh Việt CHƯƠNG 3: Đối chiếu đặc điểm định danh thuật ngữ thông tin - thư viện Anh - Việt Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo Phụ lục 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về thuật ngữ trên thế giới Thuật ngữ học bắt đầu được hình thành và khẳng định như một ngành khoa học vào những năm 1930 của thế kỷ 20. Các hoạt động nghiên cứu thuật ngữ trên thế giới trong thời kỳ đầu tập trung ở hai trung tâm thuật ngữ học lớn đặt tại Áo và Liên Xô với những nghiên cứu về thuật ngữ được tiến hành bởi các nhà học giả Xô Viết, Cộng hòa Séc và Áo, hình thành nên ba trường phái lý thuyết thuật ngữ học: trường phái thuật ngữ học Áo, trường phái thuật ngữ học Xô-viết và trường phái thuật ngữ học Cộng hòa Séc. Đại diện nổi bật nhất cho trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Áo là nhà ngôn ngữ học Eugen Wüster (1898 -1997). Ông được coi là người khởi xướng trong các công tác nghiên cứu thuật ngữ, những nghiên cứu của ông mang lại những đóng góp rất lớn cho sự phát triển thuật ngữ học thời kỳ đầu và là người có ảnh hưởng lớn đến nghiên cứu thuật ngữ của nhiều học giả sau này. Trong tác phẩm Lí luận chung về thuật ngữ (1931), Wuster đã đề cập đến những khía cạnh ngôn ngữ học khi nghiên cứu thuật ngữ, hệ thống hóa các phương pháp nghiên cứu thuật ngữ, đưa ra một số nguyên tắc khi sử dụng thuật ngữ và chỉ ra những điểm chính của phương pháp xử lí dữ liệu thuật ngữ. Trường phái nghiên cứu thuật ngữ của Xô Viết được biết đến với nhiều nhà học giả nổi tiếng như D.S Lotte, A.I. Moiseev, A.A. Reformatskij, V.P. Danilenko, A.S. Gerd, T.L. Kandelaki, N.K. Xukhov… Những nghiên cứu của họ đi sâu vào phân tích bản chất, chức năng, khái niệm của thuật ngữ và đã tìm định nghĩa cho thuật ngữ khoa học [16], [23], [52], [77], [78], [94], [137]. Bên cạnh đó, do Liên Xô trước đây là một quốc gia đa dân tộc, đa ngôn ngữ nên trường phái Xô Viết cũng nghiên cứu về vấn đề chuẩn hóa các khái niệm và thuật ngữ trên tinh thần của những vấn đề liên quan đến chủ nghĩa đa ngôn ngữ của Xô Viết. 8 Tiêu biểu cho trường phái nghiên cứu thuật ngữ Xô Viết là D.S. Lotte (1898 – 1950). Ông được coi là người đi đầu trong công tác phát triển hệ thuật ngữ hiện đại của Nga và là người sáng lập Ủy ban thuật ngữ khoa học kỹ thuật thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô. Trong công trình nghiên cứu “Những nguyên lý của việc xây dựng thuật ngữ khoa học kỹ thuật: những vấn đề lý thuyết và phương pháp luận” (1961), ông đã đề xuất những yêu cầu về thuật ngữ và đưa ra những luận điểm có tính chất phương pháp luận trong công tác tiêu chuẩn hóa thuật ngữ. Quan điểm của Lotte thể hiện ở hai ý tưởng: Một là, hệ thuật ngữ là toàn bộ các thuật ngữ phù hợp với hệ thống khái niệm của một lĩnh vực khoa học hay kĩ thuật đó; Hai là, hệ thống thuật ngữ thể hiện cái gọi là hệ thống khái niệm. Về trường phái thuật ngữ học của Cộng hòa Séc, các nghiên cứu tập trung vào việc miêu tả cấu trúc và chức năng của các ngôn ngữ chuyên ngành, trong đó thuật ngữ đóng vai trò quan trọng, vấn đề chuẩn hóa các ngôn ngữ và chuẩn hóa thuật ngữ cũng rất được quan tâm. Đại diện tiêu biểu, được coi là tiên phong của trường phái này là L.Drodz. Nghiên cứu của ông tập trung vào chức năng của ngôn ngữ, theo hướng tiếp cận ngôn ngữ của trường phái ngôn ngữ học Praha. Xuất phát từ luận điểm ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, các nhà nghiên cứu theo trường phái ngôn ngữ học Praha đi tìm chức năng của các yếu tố, các lớp, các cơ chế xuất hiện trong ngôn ngữ. Vì thế, trường phái ngôn ngữ học Praha còn gọi được gọi là trường phái chức năng. Các ngôn ngữ chuyên ngành theo trường phái này coi thuật ngữ như là những đơn vị tạo nên văn phong nghề nghiệp mang tính chức năng, tồn tại cũng những văn phong khác như: văn học, báo chí và hội thoại. Bên cạnh đó, khi nói đến thuật ngữ học giai đoạn cuối thế kỷ 20, không thể không nhắc đến các nhà thuật ngữ học Âu – Mỹ như Brown R.W [148], Cabré T.W. [149] (Tây Ban Nha), Sager J.C. (Mỹ) [167]... Ngoài việc định nghĩa thuật ngữ, nêu bản chất khái niệm và chức năng của chúng, các nhà nghiên cứu này còn có xu hướng tìm cách xác định các tiêu chuẩn cụ thể cần phải có của thuật ngữ và công tác chuẩn hóa thuật ngữ... 9 Theo Auger (1988), quá trình phát triển của thuật ngữ học hiện đại thế kỷ 20 trải qua bốn giai đoạn chủ yếu là: giai đoạn sơ khai (1930 – 1960), giai đoạn cấu trúc (1960-1975); giai đoạn bùng nổ (1975-1985) và giai đoạn mở rộng (1985 – cuối thế kỷ 20). [Dẫn theo 149, tr.5-6] Đại diện tiêu biểu cho giai đoạn hình thành và phát triển thuật ngữ học này là các học giả Wüster E. (Áo) và D.S. Lotte (Xô Viết) với những cơ sở lý thuyết ban đầu về thuật ngữ học và các phương thức xây dựng thuật ngữ khoa học một cách hệ thống. Trong giai đoạn phát triển thứ hai, nhờ sự phát triển của công nghệ vi tính máy chủ và xây dựng vốn tài liệu, công tác nghiên cứu thuật ngữ đã đạt những bước tiến quan trọng. Trên cơ sở những ngân hàng dữ liệu máy tính đầu tiên, một bộ nguyên tắc quốc tế về xử lý dữ liệu thuật ngữ được đề xuất và phương hướng xây dựng, phát triển hệ thuật ngữ đi cùng với chuẩn hóa thuật ngữ trong ngôn ngữ bắt đầu hình thành. Thời kỳ 1975 – 1985 được coi là giai đoạn phát triển mạnh mẽ nhất của thuật ngữ học. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã mang lại sự thay đổi căn bản trong công tác xử lý dữ liệu thuật ngữ. Bên cạnh những nghiên cứu lý thuyết, đã có nhiều nghiên cứu sâu hơn về mặt thực tiễn như vai trò của thuật ngữ khoa học, chuyên môn với sự phát triển của các ngành khoa học liên ngành, định hướng mới trong lý thuyết về thuật ngữ học hay phát triển hệ thuật ngữ khoa học gắn với kế hoạch hóa ngôn ngữ (language planning) và hiện đại hóa ngôn ngữ (language modernization). Giai đoạn cuối thế kỷ 20, trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học – kỹ thuật và dịch vụ, thuật ngữ học có nhiều cơ hội phát triển. Đi cùng với đó là những vấn đề mới nảy sinh trong công tác xây dựng và chuẩn hóa hệ thuật ngữ khoa học nhằm đáp ứng các yêu cầu xã hội. Mô hình phát triển thuật ngữ học gắn liền với hoạch định ngôn ngữ ngày càng được quan tâm nghiên cứu, nhất là ở các nước đang phát triển, nơi mà các chính sách hoạch định ngôn ngữ và phát triển hệ thuật ngữ khoa học vẫn đang trên con đường hoàn thiện. 10 Về tình hình nghiên cứu thuật ngữ học đầu thế kỷ 21 Trong hơn mười lăm năm qua, quan niệm về thuật ngữ học và các vấn đề của thuật ngữ học của các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có nhiều thay đổi. Điều này được thể hiện rất rõ qua những đề xuất lý thuyết thuật ngữ mới tùy theo từng đường hướng nghiên cứu thuật ngữ cụ thể, như đường hướng thuật ngữ học xã hội, xã hội học tri nhận, thuật ngữ học văn bản… Đặc biệt là lý thuyết thuật ngữ học mới theo đường hướng giao tiếp (Communicative theory of terminology) được coi là trường phái lý thuyết mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới và có khả năng giải quyết những hạn chế và vấn đề nảy sinh trong quá trình phát triển thuật ngữ học mà hướng nghiên cứu dựa trên lý thuyết thuật ngữ học truyền thống của Áo, Xô viết và Séc chưa giải quyết được. Các nghiên cứu về thuật ngữ trong giai đoạn này được tiến hành theo ba hướng tiếp cận cơ bản: thuật ngữ học theo hướng ngôn ngữ học (lingusitic approach); thuật ngữ học theo hướng dịch dịch thuật (translation-oriented approach) và thuật ngữ học theo hướng kế hoạch hóa ngôn ngữ (language planning) [149, tr. 13-14]. Hướng tiếp cận thuật ngữ học trên góc độ ngôn ngữ học vẫn dựa trên nền tảng lý thuyết thuật ngữ học truyền thống được Wuster và những học giả kế thừa ông phát triển với ba trường phái ngôn ngữ học: trường phái ngôn ngữ học Áo, trường phái ngôn ngữ học Xô Viết và trường phái ngôn ngữ học Séc. Cơ sở lý thuyết của các nghiên cứu theo hướng tiếp cận này, theo cách gọi của Cabré (trong công trình nghiên cứu của mình), là lý thuyết thuật ngữ học tổng quát (General Theory of Terminology - GTT) để phân biệt với hướng nghiên cứu lý thuyết mới được gọi là lý thuyết thuật ngữ học theo hướng giao tiếp (Communicative Theory of Terminology - CTT) [149, tr. 14-15]. Các nghiên cứu theo hướng tiếp cận thuật ngữ với dịch thuật và kế hoạch hóa ngôn ngữ xuất phát từ yêu cầu trao đổi ngôn ngữ của các quốc gia, vùng lãnh thổ có môi trường giao tiếp song ngữ hoặc đa ngôn ngữ, ví dụ như Quebec (Canada), Walloon (Bỉ) hay các tổ chức quốc tế sử dụng đa ngôn ngữ như Liên hợp quốc, 11 UNESCO, FAO… Nghiên cứu thuật ngữ trong môi trường đa ngôn ngữ sẽ hỗ trợ rất nhiều cho công tác dịch thuật. Để có thể chuyển dịch thuật ngữ, cần phải có đồng thời kiến thức về ngôn ngữ đích và chuyên ngành tương ứng. Hướng nghiên cứu này góp phần tạo ra cơ sở dữ liệu thuật ngữ và xây dựng các hệ thuật ngữ tương đương trong nhiều ngôn ngữ và là nguồn tham khảo hữu ích cho các nhà dịch thuật nhằm nâng cao chất lượng bản dịch chuyên môn. Kế hoạch hóa ngôn ngữ là chương trình chính phủ nhằm xây dựng và phát triển một ngôn ngữ nhỏ trở thành ngôn ngữ chính thức của quốc gia. Ví dụ như chính sách phát triển tiếng Pháp, vốn là ngôn ngữ sử dụng chủ yếu tại Quebec, Canada, trở thành ngôn ngữ chính thức được sử dụng song song với tiếng Anh tại quốc gia này. Yêu cầu phát triển ngôn ngữ đã tạo điều kiện thúc đẩy các hệ thuật ngữ chuyên môn hình thành và phát triển. Nghiên cứu thuật ngữ theo hướng kế hoạch hóa ngôn ngữ trở thành hướng nghiên cứu mới được các nhà khoa học quan tâm. Nói đến những nghiên cứu tiếp cận theo hướng này, không thể không nhắc đến Bassey Edem Antia, nhà ngôn ngữ học người Nigeria, người đã phát triển khung lý thuyết và thực tiễn cho quản lý và hoạch định thuật ngữ và tiến hành nghiên cứu trên các trường hợp cụ thể ở một số quốc gia châu Phi như Somalia, Tazania, Nigeria… Tác giả đã thiết lập một lý thuyết khung cho công tác hoạch định thuật ngữ trên cơ sở lý thuyết khái niệm, phương thức kết hợp từ với phương thức giao tiếp và kiến thức chuyên môn. Theo đó, những yếu tố quan trọng của khung lý thuyết thuật ngữ này bao gồm hệ thống các khái niệm và mối liên quan, định nghĩa, xác định hệ thuật ngữ, các hệ thống thuật ngữ, cơ sở dữ liệu thuật ngữ và sự phối hợp của các chuyên giatrong lĩnh vực chuyên môn. [Antia: 144; 2000]. Lý thuyết thuật ngữ học theo đường hướng giao tiếp (CTT) Cabré M.T, nhà ngôn ngữ học người Tây Ban Nha, được coi là người tiên phong trong việc phát triển các nghiên cứu lý thuyết theo hướng tiếp cận này. Bà cho rằng “mục tiêu nghiên cứu của Wuster là loại bỏ sự mơ hồ nghĩa trong các từ ngữ kỹ thuật trong môi trường giao tiếp chuyên môn quốc tế bằng cách chuẩn hóa các khái niệm chuyên môn đó chứ không xem xét thuật ngữ học với tất cả tính đa 12 dạng và đa diện của nó. Rõ ràng là lý thuyết thuật ngữ học truyền thống nhấn mạnh đến những nguyên tắc xây dựng hệ thống khái niệm theo hướng chuẩn hóa” [150, tr. 167]. Cabré M.T. ủng hộ việc xây dựng một lý thuyết mới về thuật ngữ học, một cơ sở quan trọng trong định hướng xây dựng thuật ngữ học trở thành một ngành độc lập với vị trí riêng. Tiền đề lý thuyết bà đưa ra là: Thứ nhất, thuật ngữ học trước hết phải là xác định các nhu cầu đồng thời đưa ra các giải pháp để giải quyết những nhu cầu cụ thể đó trong một ngành chuyên môn nhất định; Thứ hai, thuật ngữ học bao gồm các đơn vị thuật ngữ mang tính đa chiều và có sự tương tác giữa lĩnh vực chuyên môn, thực thể ngôn ngữ và các thực thể giao tiếp”. “Các đơn vị thuật ngữ” bao gồm hệ thống các khái niệm (phương diện tri nhận), thuật ngữ (phương diện ngôn ngữ) và các yếu tố ngữ cảnh (phương diện giao tiếp)” [150, tr.182;187]. Cabré đã đồng quan điểm với Antia B.E. trong việc cần phải xây dựng được một khung lý thuyết cho những nguyên tắc xây dựng thuật ngữ. Cabré nghiên cứu các đơn vị thuật ngữ trong khung giao tiếp và môi trường diễn ngôn đặc biệt. Khung giao tiếp đó được xác định qua chuỗi thông tin có hệ thống và trên hai đặc trưng ngôn ngữ: Một là, đặc trưng từ vựng (lexical) – sử dụng các đơn vị từ có ý nghĩa giới hạn trong một ngữ cảnh đặc biệt; Hai là, đặc trưng văn bản (textual) bao gồm văn bản có nội dung biểu đạt chính xác. Cabré cũng chỉ ra ba điều kiện cần và đủ cho việc xây dựng khung nghiên cứu cho lý thuyết thuật ngữ học mới với tư cách là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập, đó là điều kiện ngôn ngữ tự nhiên (dưới góc độ ngôn ngữ, tri nhận và xã hội), điều kiện giao tiếp đặc biệt (dựa trên sự trao đổi các vấn đề chuyên môn giữa nhà khoa học và người làm chuyên môn) và điều kiện chuyên môn hóa (sự trao đổi trong các lĩnh vực chuyên môn). Thuật ngữ cần được nghiên cứu trong các tình huống giao tiếp tự nhiên và trên góc độ xã hội. Lý thuyết thuật ngữ theo hướng giao tiếp (CTT) chính là lý thuyết có thể giải quyết các vấn đề đa chiều của thuật ngữ. Những yếu tố mang tính xã hội như tình hình chính trị, kinh tế - xã hội và ngôn ngữ quốc gia sẽ là những nhân tố tác động tới quá trình xây dựng và phát triển hệ thuật ngữ khoa học. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan