TRƯỜNG Đ Ạ I HỌC Y HÁ NỘI
BỘ MÔN DINH DƯỠNG - AN TOÀN THỰC PHẨM
DINH DtỞNG
VỆ SINH AN ĨOÀN THỤC PHAM
NHÀ XUẤT BẢN Y HỌC
BAN BIÊN SOẠN:
CHỦ BIÊN:
GS. TSKH. Hà Huy Khôi
PGS.TS. Phạm Duy Tường
PGS. TS. Nguyễn Công Khẩn
THƯ KÝ BIÊN SOẠN:
ThS. Nguyễn Thanh Tuấn
THAM GIA BIÊN SOẠN:
GS.TSKH. Hà Huy Khôi
PGS.TS. Phạm Duy Tường
PGS. TS. Nguyễn Công Khẩn
TS. Hà Thị Anh Đào
TS. Đỗ Thị Hoà
TS. Lê Thị Hợp
ThS. Lê Thị Hương
TS. Nguyễn Thị Lâm
ThS. Tnnh Bảo Ngọc
TS. Từ Ngữ
ThS. Trẩn Thị Phúc Nguyệt
TS. Nguyễn Xuân Ninh
ThS. Phạm Văn Phú
ThS. Nguyễn Thanh Tuấn
LỜI NÚI ĐẨU
Năm 1977, Trường Đại học Y Hà Nội đã xuất bản cuốh “Vệ sinh Dinh dưỡng
và Vệ sinh Thực phẩm ” do các thầy Hoàng Tích M ịnh và Hà Huy Khôi biên soạn.
Cuô’n sách đã được sử dụng làm giáo trìn h giảng dạy cho sinh viên chuyên khoa
vệ sinh dịch tễ và được dùng làm tài liệu tham khảo ỏ nhiều trường đại học trong
những năm qua.
Ngày nay, dinh dưỡng học và vệ sinh an toàn thực phẩm là lĩnh vực kiến thức
độc lập có ứng dụng rộng rãi trong công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ. ĐỐI vối
các cán bộ công tác ở lĩnh vực y tê dự phòng, kiến thức vê dinh dưõng sẽ giúp
nhiều trong xác định các vấn đề dinh dưỡng ỏ cộng đồng và xây dựng các giải
pháp phòng chông các bệnh thiếu dinh dưỡng, các bệnh mạn tính có liên quan đến
dinh dưỡng, giám sát, thanh tra vệ sinh thực phẩm , đề phòng ngộ độc thức ăn.
Cuô'n sách còn cung câ'p những kiến thức về dinh dưỡng bệnh lý và chê độ ăn cho
một sô’ bệnh, giúp việc tổ chức bữa ăn hợp lý cho người bệnh.
Lần này, cuốh sách được biên soạn nhằm phục vụ cho các đôi tượng sinh viên
chuyên khoa, cao học Y tế Công cộng, cao học Y học Dự phòng, cao học Dinh
dưỡng Cộng đồng và có thể làm tài liệu tham khảo cho các đốì tượng khác có quan
tâm đến dinh dưõng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong khi biên soạn, Bộ môn
Dinh dưỡng và An toàn thực phẩm đâ cộ sự hợp tác với của các cán bộ chuyên
ngành của Viện Dinh dưõng.
Bộ môn Dinh dưỡng và An toàn thực phẩm xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban
giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội và Ban Giám đốc Viện Dinh dưdng đã tạo
điều kiện để hoàn th à n h cuôn sách.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để tổng hỢp và cập n h ật các vấn đề, nhưng cuốh
s á c h c h ắ c c h ắ n c ò n có t h i ế n s ó t. C h ú n g tni m o n g dỢÌ v à x i n c h ầ n t h à n h c ả m ơ n cá c
ý kiến góp ý của đồng nghiệp và bạn đọc.
Trưởng Bộ m ôn D inh dưdng và An toàn Thực phẩm
GS. TSKH. Hà Huy Khôi
MỤC LỤC
Lời nói đầu
3
PHẦN I. DINH DƯỜNG HỌC cơ s ỏ
Chương 1. Sự phát triển của dinh dưởng học (Hà H uy Khôi)
7
Chương 2. Dinh dưỡng, sức khỏe và bệnh tậ t (Hà H uy Khôi)
15
Chương 3. Cấu trúc cơ thể (Phạm Duy Tưởng)
27
Chương 4, Năng lượng (Phạm Duy Tường)
35
Chương 5. Protein (Phạm Duy Tường)
46
Chương 6. Lipid (Phạm Duy Tường)
58
Chương 7. Glucid (Phạm Duy Tường)
70
Chương 8. Vitamin tan trong dầu (Nguyễn Xuân Ninh)
78
Chương 9. Vitamin tan trong nước (Nguyễn Xuân Ninh)
97
Chương 10. Chất khoáng đa lượng (Nguyễn Xuân Ninh)
113
Chương 11. Chất khoáng vi lượng (Nguyễn Xuân Ninh)
119
Chương 12. Nưâc và điện giải (Nguyễn Xuân Ninh)
129
PHẨN II. DINH DƯỠNG CHO CÁC Đ ố l TƯỢNG VÀ LỨA TUỔl
Chương 13. Dinh dưdng cho phụ nữ có thai và cho con bú (Phạm Duy Tường) 141
Chường 14. Dinh dưõng cho trẻ em (Phạm Duy Tường)
148
Chương 15. Dinh dưỡng cho người trưởng thành (Hà Huy Khôi, Phạm Văn Phú)
158
Chương 16. Dinh dưỡng cho người cao tuổi (Nguyễn Công Khấn)
167
Chương 17. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng (Lê Thị HỢp)
173
PHẨN III. THỰC PHẨM
Chương 18. Thịt, cá, sữa, trứng (Hà Thị A nh Đào)
Chương 19. Đậu đỗ và các h ạt có dầu (Hà Thị A nh Đào)
Chương 20. Lương thực và khoai củ (Hà Thị A nh Đào)
191
216
219
Chương 21. Rau - quả (Hà Thị A nh Đào)
225
Chương 22. Chất béo, đồ ngọt và thức uốhg (Há Thị A nh Đào)
228
Chương 23. Thực phẩm chức năng (Phạm Duy Tường, Nguyễn Thanh Tuấn) 235
PHẦN IV. DINH DƯỠNG CỘNG ĐỒNG
Chương 24. Suy dinh dưõng protein - năng lượng (Nguyễn Công Khẩn)
242
Chương 25. Thiếu vitamin A và bệnh khô m ắt (Nguyễn Công Khàn)
253
Chương 26. Thiếu m áu dinh dưỡng do thiếu sắt (Nguyễn Công Khẩn)
261
Chương 27. Các rôĩ loạn do thiếu iod (Nguyễn Công Khẩn)
267
Chương 28. Thừa cân và béo phì (Nguyễn Thị Lăm)
274
PHẦN V. DINH DƯỔNG VÀ CÁC BỆNH MẠN TÍNH
Chương 29. Dinh dưõng và bệnh đái tháo đường (Hà H uy Khôi)
283
Chương 30. Dinh dưõng và bệnh tim mạch (Hà Huy Khôi)
289
Chương 31. Dinh dưỡng và ung thư (Hà Huy Khôi)
303
PHẦN VI. DINH DƯỜNG ĐIỀU TRỊ
Chương 32. Nguyên tắc dinh dưỡng điều trị
(Nguyễn Thị Lăm, Trần Thị Phúc Nguyệt)
Chương 33. Chế độ ăn trong một sô' bệnh (Nguyễn Thị Lâm)
314
328
PHẨN VII. BỆNH DO THựC PHẨM v à NGỘ ĐỘC TH ựC PHẨM
Chương 34. Các bệnh do thực phẩm (Đỗ Thị Hoà)
353
Chương 35. Ngộ độc thực phẩm do vi khuẩn (Đỗ Thị Hoà)
358
Chương 36. Ngộ độc thực phẩm không do vi khuẩn (Đỗ Thị Hoà)
370
Chương 37. Điều tra ngộ độc thực phẩm (Đỗ Thị Hoà)
383
PHẦN VIII. KIỂM SOÁT VỆ SINH TH ựC PHẨM
Chương 38. Bảo quản thực phẩm (Đỗ Thị Hoà)
388
Chương 39. Vệ sinh ăn uống công cộng (Đễ Thị Hoà)
397
Chương 40. Kiểm soát vệ sinh thực phẩm (Đỗ Thị Hoà, Trịnh Bảo Ngọc)
408
PHẦN Dí. CAN THIỆP DINH DƯỠNG
Chương 41. Đại cương về can thiệp dinh dưỡng
(Phạm Duy Tường, Nguyễn Thanh Tuấn)
422
Chương 42. Đường lốì dinh dưõng (Hà H uy Khôi)
435
Chương 43. Cải thiện dinh dưỡng dựa vào thực phẩm (Nguyễn Công Khẩn)
445
Chương 44. Truyền thông giáo dục dinh dưõng (Lê Thị Hợp, Lê Thị Hương)
455
Chương 45. Giám sát dinh dưõng (Từ Ngữ)
463
Tài liệu tham k h ảo '
473
T ra cứu
475
PHẨN I
DINH DƯỠNG HỌC
cơ sở
Chương 1
S ự PHÁT TRIỂN CỦA DINH »ƯỠNG HỌC
Từ thê kỷ XIX, dinh dưỡng học đã trở thành một bộ môn khoa học độc lập. Tuy
nhiên, th ế kỷ XX mói thực sự là “T hế kỷ của Dinh dưỡng học” vói nhiều th àn h tựu
nổi b ật trong việc phát hiện ra vai trò dinh dưỡng của các vitam in, các acid amin,
các acid béo cần thiết và mối liên quan giữa chê độ ăn và các bệnh mạn tính.
Trong vòng 50 năm trỏ lại đây, các nghiên cứu và ứng dụng dinh dưỡng trong
hoạt động cải thiện sức khoẻ cộng đồng đã được p h át triển m ạnh mẽ. Trong thập
kỷ 90 của th ế kỷ XX, cải thiện dinh dưõng cộng đồng đã trở th àn h đường lối chính
sách của nhiều quốc gia, thể hiện những bưóc tiến bộ vượt bậc về m ặt ứng dụng
xã hội của dinh dưỡng học.
1. ĐỐI TƯỢNG CỦA DINH DƯỠNG HỌC
Dinh dưỡng học là bộ môn khoa học nghiên cứu mốì quan hệ giữa thức àn với
cơ thể, đó là quá trình cơ thể sử dụng thức ăn để duy trì sự sốhg, tăng trưởng, các
chức phận bình thường của các cơ quan và các mô, và để sinh năng lượng, cũng
như phản ứng của cơ thể đốì vói ăn uô'ng, sự thay đổi của khẩu phần và các yếu tô’
khác có ý nghĩa bệnh lý (WHO/FAO/IUNS 1974).
Dinh dưỡng người là một bộ môn khoa học nghiên cứu dinh dưõng ở ngưòi.
Dinh dưỡng người quan tâm đặc biệt đến nhu cầu dinh dưdng, tiêu thụ thực
phẩm, tập quán ăn uô'ng, giá trị dinh dưỡng của thực phẩm và chế độ ăn, mô’i liên
quan giữa chê độ ăn và sức khoẻ và các nghiên cứu trong các lĩnh vực đó.
Ngày nay, dinh dưdng người thường bao gồm các phân khoa sau đây:
1. S in h lý d in h d ư ỡ n g và h o á s in h d in h dưỡng: nghiên cứu vai trò các chất
dinh dưỡng đô’i với cơ thể và xác định nhu cầu các châ’t đó.
2. B ệ n h lý d in h dưỡng: tìm hiểu môi liên quan giữa cách dinh dưỡng và sự p h át
sinh các bệnh khác nhau do hậu quả của dinh dưông không hợp lý.
3. D ịch tễ h ọ c d in h dưỡng: nghiên cứu, chẩn đoán, phân tích các vấn đề dinh
dưỡng ỏ cộng đồng, tì'm hiểu vai trò của yếu tô’ ăn uốhg đổi vối các vấn đề sức khoẻ
cộng đồng và hậu quà của dinh dưỡng không hỢp lý. Bên cạnh đó, một lĩnh vực khác
là dịch tễ học nhiễm trùng, nhiễm độc thực phẩm cùng ngày càng được quan tầm.
4. T iế t chê’ d in h d ư ỡ n g v à d in h d ư ỡ n g đ iề u tr ị: nghiên cứu ăn uốhg che người
bệnh, chủ yếu nói đến điều trị bằng thay đổi chê’ độ ăn.
5. C a n th iệ p d in h d ư ỡ ng : nghiên cứu ứng dụng các giải pháp khác n h au nhằm
thực hiện dinh dưỡng hợp lý, tăn g cường sức khoẻ. Bộ môn này bao gồm khoa
học th ay đổi hành vi dinh dưỡng, giáo dục và đào tạo dinh dưdng. M ột phân
ngành khác là “dinh dưỡng tập thể”: áp dụng các th à n h tựu khoa học về sinh lý,
tiết chê và kỹ th u ậ t vào ăn uống công cộng, th iết k ế cơ sở, tran g th iê t bị, tổ chức
lao động...
6. K h o a h ọ c về th ự c p h ẩ m v à vệ s in h a n to à n th ự c p h ẩm : nghiên cứu giá trị
dinh dưỡng của thực phẩm, nguyên nhân ô nhiễm thực phẩm và cách phòng
chông. Ảnh hưởng của quá trình sản xuất, trồng trọt và chăn nuôi tới giá trị dinh
dưỡng và đặc điểm vệ sinh của thực phẩm.
7. C ông n g h ệ th ự c p h ẩ m và kỹ th u ậ t c h ế b iế n th ứ c ăn: xác định phương pháp
chế biến, bảo quản, lUu thông thực phẩm và các sản phẩm. Nghiên cứu các biến đổi
lý hoá xảy ra trong quá trình đó. Xác định cách chê biên thức ăn cho phép sử dụng
tối đa các chất dinh dưỡng trong thực phẩm và có mùi, vỊ, hình thức hấp dẫn.
8. K in h t ế h ọ c v à k ế h o ạ c h h o á d in h d ư ỡ ng: xây dựng kế hoạch sản x u ất thực
phẩm trong chính sách phát triển nông nghiệp cũng như chính sách vĩ mô về sản
xuất và bảo đảm an ninh thực phẩm quốc gia và hộ gia đình.
2. Ý NGHĨA KINH TẾ XÀ HỘI VÀ sức
KHOỄ CỬA KHOA HỌC DINH DƯỠNG
2.1. Ý n g h ĩa k in h t ế
G ần 60% công nhân trên th ế giới lao động trong nông nghiệp và sản xuất thực
phẩm. Trên th ế giới trung bình cứ 50% thu nhập chi cho ăn uống. Lượng chi tiêu
đó dao động từ 30% ở các nuỏc giàu, đến 80% ở các nuốc nghèo.
2.2. Ý n g h ĩa xã hội
Chi tiêu cho ăn uôhg càng nhiều thì chi cho nhà â, mặc, văn hoá càng ít. Điểu
đó có ý nghĩa xã hội lớn. NgUỢc lại tiết kiệm ăn cho các nhu cầu khác nhiều quá sẽ
ảnh hưởng tối tình trạng sức khoẻ, kém sáng kiến và giảm năng su ất lao động.
Điều đó ảnh hưởng tối kinh tế đất nuốc. Dinh dưdng không hỢp lý ảnh hưởng
nhiều tối trẻ em, thanh thiếu niên, phụ nữ có thai và cho con bú. Dinh dưỡng
không hỢp lý ở các cơ sở ăn uống công cộng ảnh hưởng tới sức khoẽ của một tập
thể người.
2.3. Ý n g h ĩa sứ c kh o ẻ
Ngày nay, đã biết đến nhiều bệnh có nguyên nhân dinh dưõng như: còi xương,
beri beri, quáng gà, pellagra, scorbut, bướu cổ, héo phì. Kwashiorkor, một sô bệnh
thiếu máu.
Người ta biết rằng dinh dưõng không hỢp lý có th ể ảnh hưởng nhiều tổi sự
p h át triển các bệnh khác như một số bệnh gan, vữa xơ động mạch, sâu răng, đái
đưòng, tăng huyết áp, giảm bốt sức đề kháng vối viêm nhiễm ... Những bệnh dinh
dưỡng điển hình ngày càng ít đi, thường gặp là sự thiếu h ụ t các chất dinh dưỡng
từng phần gây ra những triệu chứng âm thầm kín đáo.
Ngày nay kiến thức dinh dưỡng cho phép xây dựng các khẩu phần hợp lý cho
tấ t cả các nhóm ngưòi. Các nhà ăn công cộng có trách nhiệm rấ t lớn trong vấn để
n âng cao tình trạn g dinh dưỡng của những người ăn.
Cùng với quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đất nước hàng vạn người ròi
khỏi quê hương đi tới những nơi lao động mới, sông trong các điều kiện hoàn toàn
khác và bước đầu còn tạm bợ. Điểu đó đòi hỏi các hoạt động hỢp lý về m ặt cung
cấp thực phẩm, tổ chức các cơ sở ăn uốhg công cộng.
Do quá trình phát triển kỹ nghệ thực phẩm, ngày càng có nhiều thực phẩm đã
tin h chế (đường, m ật ong n hân tạo, bột trắng) cũng như đồ hộp, các loại đó có giá
trị dinh dưõng thấp hơn các sản phẩm ban đầu. Do dễ dàng trong việc sử dụng
nên tiêu thụ các loại đó ngày càng tăng, dẫn tới các hậu quả xấu về sức khoẻ.
Một số vấn đề mối đặt ra cho khoa học dinh dưỡng do áp dụng nhiều chất hoá học
mới trong nông nghiệp, chăn nuôi, chế biến và luân chuyển thực phẩm, những chất
này có thể có hại đôi vâi cơ thể. Các cơ quan y tế có nhiệm vụ nghiên cứu ảnh hưởng
các yếu tô’ ngoại lai đó đôi với cơ thể và bảo vệ con người trưổc tác hại của chúng.
3. Sự PHÁT TRIỂN CỦA DINH DƯỠNG HỌC
Con người từ xa xưa đã quan tâm đến mô’i quan hệ giữa thức ăn với sức khoẻ.
Hypocrate (460 - 377 trưốc công nguyên) đã từng w'\ết "Mong cho thức ăn của
a n h là thuốc và loại thuốc duy nhất của anh là thức ăn". Ong cho răng cơ thê khi
còn non cần nhiều nhiệt hơn khi già, vì vậy khi còn trẻ phải được ăn nhiều hơn.
Theo ông, chê độ ăn chỉ có tác dụng khi cùng thực hiện vối lốl sốhg hỢp lý và ông
chia thức ăn ra hai loại: loại khô và loại chứa nhiều nưốc. Lôi sông hợp lý đế duy
trì cân bằng nước trong cơ thể. Hypocrate đã khuyên dùng gan đê chữa bệnh
quáng gà, điều đó mãi 2200 năm sau mối được chứng minh một cách khoa học,
Aristote (384 - 322 trưâc công nguyên) đã viết rằng thức àn đưỢc nghiền n át
một cách cơ học ở miệng, pha chế ở dạ dày rồi phần lỏng thấm qua thành ruột vào
máu nuôi cơ thể còn phần rắn đưỢc bài xuất theo phân. Theo ông "Chẽ độ nuôi
dưỡng tốt thi nhiều thịt được hình thành và khi quá thừa sẽ chuyên thành mỡ qua nhiều mơ là cò hại".
Bậc thầy lốn của y học cổ là Galen (129 - 199) đã từVig phân tích tử thi và đã
dùng sữa mẹ để chữa bệnh lao. ô n g viết:" Dinh dưdng là một quá trinh chuyển
hoá xảy ra trong các tổ chức, thức ăn phải được chế biến và thay đổi bời tác dụng
của nước bọt và sau đó ở dạ dày" ông coi đó là một quá trìn h thay đổi về chất. Ong
cho rằng b ất kỳ một rối loạn nào trong quá trình liên hợp của hấp thu, đồng hoá,
chuyển hoá, phân phối và bài tiết đều có thể phá võ mối cân bằng tê nhị trong cơ
th ể và dẫn tới gầy mòn hoặc béo phì. ô n g cũng khuyên rằng một bài tập m au lẹ
như chạy là một phương pháp để giảm béo - một quan niệm mà chỉ gần đây mới
được phát hiện lại.
Đại danh Y Việt Nam Tuệ Tĩnh (Thế kỷ XIV) đã chia thức ăn ra các loại hàn,
n hiệt và ông cũng đã từng viết "Thức ăn là thuốc, thuốc là thức ăn".
Tuy nhiên, mãi đến thê kỷ XVIII dinh dưỡng học mói có được những p h át hiện
để dần dần tự khẳng định là một bộ môn khoa học độc lập. Có thể hệ thống các
p hát hiện theo từng nhóm như sau:
3.1. Tiêu hoá và hô hấp là các q uá trìn h h oá học
Mãi đến giữa th ế kỷ XVIII, người ta vẫn cho rằng quá trìn h tiêu hoá ở dạ dày
chỉ là một quá trìn h cơ học. R éaum ur (1752) đã chứng m inh nhiều biến đổi hoá
học xảy ra trong quá trìn h tiêu hoá và sau đó ngưòi ta đã phân lập được trong dạ
dày có acid clohydric (Prout 1824) và pepsin (Schwann 1833), mở đầu cho sự hiểu
biết khoa học về sinh lý tiêu hoá.
Cũng như vậy, hô hấp là một quá trìn h hoá học và tiêu hao năng lượng có thể
đo lưòng đưỢc. Năm 1783, Lavoisier cùng với Laplace đã chứng m inh trên thực
nghiệm hô hấp là một dạng đốt cháy trong cơ thể. Sau đó ông đã đo lưòng được
lượng oxygen tiêu th ụ và lượng CO2 th ả i ra ở người khi nghỉ ngơi, lao động và sau
khi ăn. P h át minh đó đã mở đầu cho các nghiên cứu về tiêu hao năng lượng, giá
trị sinh năng lượng của thực phẩm và các nghiên cứu chuyển hoá.
Dụng cụ đo tiêu hao năng lượng đầu tiên được Liebig sử dụng ỏ Đức năm 1824
và sau đó đưỢc các th ế hệ học trò như Voit, Rubner, A tw ater tiếp tục nâng cao và
sử dụng trong các nghiên cứu về chuyển hoá trung gian.
3.2. Các ch ất d inh dưỡng là các ch ấ t hoá học th iế t yếu cho sứ c khoẻ người
và đ ộng vật
Q uan niệm của Hypocrate cho rằn g tấ t cả mọi thức ăn đều chỉ chứa một chất
dinh dưỡng duy n h ất nói chung được thừa nhận cho đến đầu th ế kỷ XIX.
Năm 1824 thầy thuốc người Anh là Prout (1785 - 1850) là ngưòi đầu tiên chia
các chất hữu cơ thàn h 3 nhóm, ngày nay gọi là nhỏm protein, lipid, glucid.
P ro te in
M agendie năm 1816 qua thực nghiệm trên chó đã chứng minh các thực phẩm
chứa nitơ cần th iế t cho sự sống. Lúc đầu ngưòi ta gọi chất này là album in và
album in - lòng trắn g trứng là protein nhiều ngưòi biết hơn cả. Năm 1838 nhà hoá
học H à Lan M ulder đã gọi album in là protein (protos: chất quan trọng số một).
Năm 1839, Boussingault ở Pháp đã làm thực nghiệm cân bằng nitơ ỏ bô và
ngựa vì thấy rằng các loài động vật không thể trực tiếp sử dụng nitơ (đạm) trong
không khí mà cần th iết phải ăn các thức ăn cố chứa đạm thực v ật (albumin thực
vật) để duy trì sự sống.
Vào những năm 1850, người ta đã nhận thấy các protein không giống nhau về
châ’t lượng nhưng phải vào đầu thê kỷ thứ XX, khái niệm đó mối được khẳng định
nhò các thực nghiệm của Osborne và Mendel ở Trưòng Đại học Yale. Theo đó Thomas
(1909) đưa ra khái niệm giá trị sinh học, Block và Mitchell (1946) đã xây dựng thang
hoá học dựa theo thành phần acid am in để đánh giá chất lượng protein.
Sự p h át hiện các acid am in đã làm sáng tỏ điều đó dần dần và các công trình
của Rose và cộng sự (1938) đã xác định được 8 acid am in cần th iế t cho ngưòi
trưởng thành.
Bác sĩ Cicely Williams ngưòi Anh đã mô tả và dùng th u ậ t ngữ Kwashiorkor
vào năm 1931 nhưng trong một thòi gian dài ngưòi ta vẫn nhầm bệnh
Kwashiorkor vói bệnh pellagra. Sau các báo cáo khảo sá t của Brock và A utret ở
nhiều nước châu Phi (1951) và Trowell, Davies và Dean ở U ganda (1954) thì th u ậ t
ngữ Kwashiorkor mới chính thức x uất hiện trên các sách giáo khoa và suy dinh
10
dưõng protein mới được công nhận là bệnh dinh dưõng quan trọng n h ất của loài
ngưòi. Năm 1959 Jelliffe dùng th u ậ t ngữ suy dinh dưõng protein năng lượng
(PEM) vì n hận thấy mối liên quan chặt chẽ giữa Kwashiorkor và M arasmus.
Cuộc chiến nhằm loại trừ thiếu protein năng lượng trước h ết ở bà mẹ và trẻ
em vẫn đang là vấn đê' thòi sự ỏ nưốc ta và nhiều nưóc đang p h át triển.
L ip id
Tác phẩm "Nghiên cứu khoa học về các chất héo nguồn gốc động vật" công bô’
năm 1828 của Chevreul ỏ Pháp đã xác định chất béo là hợp chất của glycerol và các
acid béo và ông cũng đã phân lập được một sô’ acid béo. Năm 1845, Boussingault đã
chứng minh được rằng trông cơ thể glucid có thể chuyển thành chất béo. Trong thòi
gian dài người ta chỉ coi chất béo là nguồn năng lượng cho đến khi p h át hiện trong
chất béo có chứa các vitam in tan trong chất béo (1913 - 1915) và các thực nghiệm
của B urr và Burr (1929) đã chỉ ra rằng acid linoleic là một chất dinh dưdng cần
thiết. Sau những năm 50 của thê’ kỷ XX vai trò của các chất béo lại được quan tâm
nhiều khi có những nghiên cứu chỉ ra khả năng có mốl liên quan giữa sô' lưọng và
chất lượng chất béo trong khẩu phần vối bệnh tim mạch.
G lu cỉd
Cho đến nay, glucid vẫn được coi là nguồn năng lượng chính. Năm 1844, Schmidt
phân lập được glucose trong m áu và năm 1856, Claude Bernard phát hiện glycogen ỏ
gan đã mở đầu cho các nghiên cứu về vai trò dinh dưõng của chúng.
C h ấ t kh o á n g
Sự thừa nhận các chất khoáng là các chất dinh dưõng b ắt nguồn từ sự phân
tích th à n h phần cơ thể. Tuy vậy, quá trìn h p h át hiện tính th iết yếu và vai trò
dinh dưông của các chất khoáng không theo một con đường và thứ tự n h ất định.
Từ năm 1713, ngưòi ta đã p hát hiện Fe trong máu và năm 1812 đã phân lập được
iod nhưng mãi đến thê' kỷ XIX các nghiên cứu phân tích và giá trị sinh học của
thực phẩm vẫn không để ý đến các th à n h phần có trong tro. Tuy nhiên vào nửa
sau thê' kỷ XIX, các nhà chăn nuôi đã chứng minh được sự cần thiết của chất
khoáng trong khẩu phần. Vào thê' kỷ XX nhò các phương pháp thực nghiệm sinh
học vai trò dinh dưổng của các chất khoáng càng sáng tỏ dần và sự phát hiện các
nguyên tô' vi lượng như là các chất dinh dưỡng thiết yếu nhò các phương pháp phân
tích hiện đại đang là một lĩnh vực thời sự của Dinh dưõng học.
V ita m in
Những p h át hiện đầu tiên về vai trò của thức ăn đối vôi bệnh tậ t phải kể đến
các quan sa t của Lind (1753) về tác dụng của nước chanh quả đối với bệnh hoại
huyêt, một bệnh đã cướp đi sinh mạng rấ t nhiều thuỷ th ủ thòi bấy giò.
Tuy vậy những p hát hiện vĩ đại của P asteur về vai trô của vi k h uẩn đã làm lu
mò đi vai trò các nhân tô' trong thức ăn đối với bệnh tật. Năm 1886, ngưòi ta mòi
thầy thuốc H à Lan là Eijkm ann đến Java (Indonesia) để chống bệnh tê phù. Là
người tin vào lý thuyết vi khuẩn của Pasteur nên Eijkm ann cho rằng bệnh tê phù
là do vi k huẩn gây ra. Tuy vậy trong quá trình thực nghiệm trên gà, ông đã phát
hiện thấy gà mắc bệnh như tê phù sau khi cho ăn gạo đã giã rấ t kỹ ở trong kho của
bệnh viện. Khi chuyển sang chế độ ăn ban đầu, gà hồi phục dần dần. Eijkmann đã
nhận ra rằng có thể gây ra hoặc chữa bệnh tê phù bằng cách thay đổi đơn giản
11
khẩu phần thức àn. Giả thiết vê' sự có mặt trong thức ăn của một số chất cần thiết
với lượng nhỏ mà khi thiếu có thể gây bệnh đã được chứng minh hỏi các công trình
của Funk (1912) tách được thiam in từ cám gạo. Do nghĩ rằng nhóm chất này có liên
quan với các acid am in nên ông gọi là vitamin/amin cần cho sự sống, mặc dù sau
này đã thấy rằng vitamin là một nhóm chất dinh dưdng độc lập. Cùng vối Funk, các
công trìn h thực nghiệm của Hopkins (1906 - 1912) đã chứng minh một số châ't cần
thiết cho sự phát triển và sức khoẻ của động vật thực nghiệm.
Vai trò thiết yếu của các vitam in đã được công nhận và trong ba mươi năm
đầu của th ế kỷ XX đã chứng minh rằng có thể chữa khỏi nhiều bệnh khác nhau
bằng cách đổi khẩu phần và chế độ dinh dưõng hợp lý. Năm 1913, nhà hoá sinh
học Mỹ là Mc Collum đã đề nghị gọi vitam in theo chữ cái và như vậy xuâ't hiện
vitam in A, B, c, D và sau này người ta thêm vitam in E và K.
Sự p hát hiện về số lượng các vitam in cần th iết hầu như không tăng thêm
trọng mấy chục năm gần đây nhưng vai trò sinh học của chúng không ngừng được
tiếp tục p h át hiện. Lý luận về vai trò các gốc tự do và các chất chông oxy hóa đôi
với sức khoẻ mà trong đó nhiều vitam in có vai trò quan trọng đang là một lĩnh
vực nghiên cứu và ứng dụng hâ'p dẫn của dinh dưõng học hiện đại. Ngày nay vối
sự hiểu biết của sinh học phân tử, dịch tễ học và dinh dưõng lâm sàng người ta
đang từng bưóc hiểu vai trò của chê độ ăn, các chất dinh dưõng đôi với các tình
trạn g bệnh lý mạn tính như tăng huyết áp, tim mạch, đái đưòng và ung thư. Các
th à n h phần không dinh dưõng trong thức ăn thực vật cũng thu h ú t sự quan tâm
ngày càng lón.
3.3. Quan hệ tương hỗ giữa các ch ất d inh dưỡng trong cơ th ể và nhu cầu
d inh dưõng
Trong một thòi gian dài, khoa học dinh dưông p hát triển chủ yếu là nhò các
thực nghiệm trên động vật chăn nuôi và chuột cống trắng. Tính chất thiết yếu của
các nhóm chất dinh dưõng dần dần được khẳng định. Nhưng trong cơ thể, các chất
dinh dưỡng không hoạt động một cách độc lập mà có mối quan hệ vói nhau chặt
chẽ. Protein có tác dụng tiết kiệm lipid và glucid, vitam in Bi cần th iết cho chuyển
hoá glucìd, lượng calci bài xuâ't ra khỏi cơ thể tăng lên khi k h ẩ u p h ẩ n tăng
protein, ơác quan hệ giữa phospho/calci, kalKnatri là các thí dụ cụ thể. Việc áp
dụng các chất đồng vỊ phóng xạ vào nghiên cứu chuyển hoá tru n g gian ở đầu th ế
kỷ XX đã cho thấy thàn h phần cấu trúc của cơ thể luôn luôn ỏ th ế cân bằng động
mà các chất dinh dưõng cần th iết để duy trì sự cân bằng đó. Thiếu các chất dinh
dưõng có thể gầy nên các bệnh đặc hiệu mà mọi người đều biết như thiếu protein năng lứợng, bưốu cổ do thiếu iod, thiếu máu do thiếu sắt, khô m ắt do thiếu
vitam in A. Bên cạnh đó, thừa các chất dinh dưỡng cũng có thể gây độc. Người ta
đã mô tả các tình trạn g ngộ độc do liều cao các vitam in A, D, một sô’ vitam in tan
trúng nứâc cũng có thể gây độc n h ất định. Tính gây độc của nhiều yếu tố vi lượng
như selbh, fluo, sắt, đồng và kẽm cũng đã được ghi nhận.
NỊiự vậy một vấn đề quan trọng của dinh dưõng học là xây dựng một hành
lang gn toàn thích hỢp n h ất đốỉ với sự phát triển và sức khoẻ của con ngưòi, đó là
lĩnh yực nghiên cứu về nhu cầu dinh dưõng.
, ;Có tìiể nói Voit, nhà dinh dưỡng học Đức cuối th ế kỷ XIX là người đầu tiên đề
x u ất nhu cầu dinh dưõng cho người trưởng thành. Lúc điều tra k hẩu phần thực tế
12
của những người lao động khoẻ mạnh, ông đê' xuất khẩu phần trung bình hàng
ngày đôì với người lao động trung bình nên đạt 3000 kcal và 118 g protein.
C hittenden (1904) Sherm an và nhiều tác giả khác tìm cách dựa vào các nghiên
cứu vể cân bằng sinh lý để xác định nhu cầu protein và các chất khoáng.
C hittenden đã cùng học trò thực nghiệm trên bản th ân mình đê đi đến kết luận là
người trưởng thàn h chỉ cần 0,5 g protein/kg cân nặng để duy trì cân bằng nitơ.
Đối với vitam in vào khoảng những năm 30 của th ế kỷ XX người ta áp dụng cách
thực nghiệm, các test bão hoà và điều trị dự phòng các hội chứng thiêu vitam in đế
lượng hoá nhu cầu các chất này.
Năm 1943, Viện H àn lâm khoa học Hoa Kỳ đã công bố lần đầu bảng nhu cầu
các th àn h phần dinh dưỡng và từ đó cứ 5 năm lại xem xét lại một lần theo các tiến
bộ khoa học. N hiều nưóc khác cũng lần lượt công bố các bảng nhu cầu dinh dưõng
của nưóc mình. Từ năm 1950, Tổ chức Y tế T hế giới (WHO), Tổ chức Nông nghiệp
và Thực phẩm th ế giới (FAO) đã phối hỢp vối nhau trong hoạt động này trên
phạm vi toàn cầu. ở Việt Nam, năm 1996, Bộ Y tê đã phê duyệt “Bảng nhu cầu
dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt N am ” làm tài liệu chính thức củà ngành
trong công tác chăm sóc dinh dưỡng, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ n hân dân.
3.4. Can th iệp d inh dưỡng
Nếu dinh dưdng học chỉ phát hiện ra các bí m ật của thức ăn để con người sống
một cách thông thái th ì nó không thể phát triển được và có lẽ chỉ dừng lại ở vỊ trí
một ngành của sinh th á i học.
Nhưng từ xa xưa, con người đã tìm cách dùng thức ăn để chữa bệnh và Hải
Thượng Lãn ô n g đã từng dạy “Hãy dùng thức ăn thay thuốc bô có phần lợi hơn”.
Nhu cầu ăn uống là một trong các nhu cầu cơ bản của con người. Sau cách mạng
tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi cần tiêu diệt giặc đói, giặc dốt,
giặc ngoại xâm.
Đói, thiếu dinh dưỡng là giặc, là tai họa phá huỷ hoặc chí ít là kìm hãm tiềm
năng p h át triển của con người. Những hiểu biết về dinh dưỡng đã tạo cơ sở khoa
học để tìm tòi các can thiệp về dinh dưỡng.
Tăng cường các chất dinh dưỡng vào thức ăn là một trong các hưống ưu tiên.
Năm 1924, ở Hoa Kỳ người ta đã tăng cường iod vào muối ăn, năm 1939 tăng
cưòng vitam in A vào m argarin và vitam in D được tăng cường trong sữa vào
những năm 30.
Các nghiên cứu chọn các giống cây trồng có lượng protein cao và chất lượng
tốt, có nhiều lysin như giông ngô opaque - 2, các loại chế phẩm giàu protein như
sữa gầy, bột đậu nành, bột cá là các thành tựu quan trọng trong những năm 60.
Giáo dục dinh dưỡng cũng được quan tâm. Năm 1941, trong thời kỳ Hà Lan bị
Đức chiếm đóng, khẩu phần trung bình chỉ dưới 1300 kcal thì các nhà dinh dưỡng
học nước này đã xin phép thàn h lập trung tâm thông tin giáo dục dinh dưõng hoạt
động có hiệu quả từ đó đến nay.
Sự khẳng định ý nghĩa cộng đồng quan trọng của nhiều bệnh và rối loạn đặc
hiệu do nguyên nhân dinh dưõng đã tạo điều kiện ra đời nhiều tổ chức như tổ
chức tư vấn quốc tế về vitam in A — IVACG (1975), thiếu máu dinh dưõng —
INACG (1977) và các rối loạn thiếu iod - ICCIDD (1985).
13
V ấn đề quan trọng then chốt là các quốc gia có được đường lối chính sách dinh
dưông thích hỢp. Năm 1992, Hội nghị cấp cao th ế giới về dinh dưỡng đã kêu gọi
các quốc gia xây dựng đưòng lối và chương trìn h hành động dinh dưỡng cho những
năm sắp tới.
Khoa học dinh dưõng đang không ngừng phát triển cả về lý thuyết lẫn ứng dụng.
4. Sự PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC DINH DƯỠNG ở VIỆT NAM
Sống trên mảnh đất Việt Nam, ông cha ta đã hình th à n h một cách ăn dân tộc
để duy trì và phát triển giống nòi. Người V iệt Nam từ xưa đã quan tâm đến cách
ăn hỢp lý và dùng thức ăn để chữa bệnh.
Trong tác phẩm nổi tiếng “N am dược thần hiệu" của mình, Danh y Tuệ Tĩnh
đã nghiên cứu 586 vị thuốc nam, 3873 phương thuốc uốhg điểu trị 184 loại chứng
bệnh. Trong số 586 vỊ thuốc nam do ông sưu tầm, tổng kết có gần một nửa gồm
246 loại là thức ăn và gần 50 loại có thể dùng làm đồ uốhg. Tuệ Tinh còn đ ặt nền
móng cho việc trị bệnh bằng ăn uô'ng.
H ải Thượng Lãn ông- Lê Hữu Trác đã xác định r ấ t rõ tầm quan trọng của vấn
đề ăn so với thuốc. Theo ông, “Có thuốc m à không có ăn th ì củng đi đến chỗ chết".
Trong bộ “Hải Thượng Y tông tăm lĩnh", ông đã dành trọn một cuốn “N ữ công
thắng lăm" sưu tầm cách chê biến nhiều loại thức ăn dân tộc có tiếng đương thòi.
Sách “Vệ sinh yếu quyết" chứa đựng những lòi khuyên quý báu về giữ gìn sức khoẻ
bao gồm cả dinh dưỡng hỢp lý và vệ sinh thực phẩm.
Thời kỳ Pháp thuộc, một số nhà khoa học người Pháp và Việt Nam đã có các
công trìn h về thức ăn Việt Nam. Đáng chú ý là đóng góp của M. A utret và Nguyễn
Văn M ậu trong việc xuất bản bảng thàn h phần thức ăn Đông Dương gồm 200 loại
thức ăn năm 1941.
Từ ngày Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, mặc dù trả i qua những
năm chiến tran h lâu dài vè gian khổ nhưng khoa học dinh dưỡng đã có nhiều bưốc
p h át triển và đóng góp cụ thể. Các cơ sở nghiên cứu, giảng dạy và triển khai về
dinh dưõng đã lần lượt hình thàn h ở Viện Vệ sinh dịch tễ học, Trường Đại học Y
H à Nội (Bộ m ôn Vệ sinh dịch tễ học, Bộ m ô n Sinh lý học, Bộ m ôn Nhi), Học viện
Q uân y (Bộ môn Vệ sinh quân đội), Viện nghiên cứu ăn mặc quân đội (Bộ Quốc
phòng) và một số trưòng đại học khác. N hiều nghiên cứu ứng dụng đã góp phần
vào việc đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cho ngưòi Việt Nam, nghiên cứu bảo quản
gạo, ra u và các công thức lương khô phục vụ bộ đội ở chiến trường. Từ năm 1977,
trường Đại học Y Hà Nội đã mỏ chuyên ngành “Dinh dưõng điều trị” để cung cấp
bác sĩ dinh dưdng cho nhu cầu của các bệnh viện.
Sự ra đời của Viện D inh dưỡng (1980), Bộ môn Dinh dưỡng và An toàn thực
phẩm Đại học Y H à Nội (1990) cũng như Bộ môn Dinh dưdng ở nhiều trưòng đại
học khác, quyết định của Bộ Giáo dục - Đào tạo mở cao học về dinh dưõng (1994)
và việc Thủ tướng chính phủ phê duyệt Kê hoạch hành động quổc gia về dinh
dưõng 1995 - 2000 và gần đây n h ất Chiến lược Quốc gia về dinh dưõng 2001 2010 là các mốc quan trọng của sự p h át triển ngành Dinh dưõng ỏ nước ta.
Hiện nay, trên bản đồ học th u ậ t nước nhà, ngành Dinh dưõng đã có một chỗ
đứng riêng và đang từng bưốc tự khẳng định.
14
Chương 2
DINH DƯỠNG, SỨC KHOẺ VÀ BỆNH TẬT
Ấn uô"ng là một trong các bản năng quan trọng n h ấ t của con người và các loài
động v ật khác. Nói ăn uống cần thiết đôì vối sức khoẻ h ầu như đó là một chân lý
hiển nhiên. Thê nhưng trong cả quá trình tồn tại lâu dài cho mãi đến th ế kỷ
XVIII, loài người vẫn chưa hiểu được mình cần gì ở thức ăn. D anh y Hypocrate
quan niệm các thức ăn đều chứa một chất sông giốhg nh au và chỉ khác nhau về
m àu sắc, mùi vị, ít hay nhiều nưóc. Nhò các phát hiện của dinh dưỡng học, ngưòi
ta lần lượt biết trong thức ăn có chứa các thành phần dinh dưỡng cần th iết đôl với
cơ thể, đó là các protein, lipid, glucid, các vitamin, các chất khoáng và nước. Sự
th iếu một trong các chất này có thể gây ra nhiều bệnh tậ t thậm chí chết ngưòi ví
dụ như bệnh Scorbut do thiếu vitam in c đã lấy đi sinh m ạng 100 trong 8Ô" 160
thuỷ th ủ theo Vasco de Gama tìm đường sang phương Đông, bệnh viêm da
Pellagra hay gặp ở các vùng àn toàn ngô do thiếu vitam in p p , bệnh tê phù beri be
ri do thiếu vitam in B,...
Người ta gọi đó là các bệnh thiếu dinh dưỡng đặc hiệu bởi nguyên nhân chủ
vếu do thiếu một th à n h phần dinh dưỡng nào đó. Nhờ áp dụng kiến thức dinh
dưỡng vào chăm sóc sức khoẻ, nhiều loại bệnh hiện nay đã lui về quá khứ, tuy vậy
ở các nưốc nghèo vẫn còn nổi trội lên các vấn đê sức khoẻ do thiếu dinh dưỡng như
thiếu protein năng lượng, thiếu vitam in A và bệnh khô mắt, thiếu máu dinh
dưõng và thiếu iod. Hơn nữa khoa học dinh dưỡng ngày càng khám phá thêm vai
trò nhiều th àn h phần dinh dưõng trưốc đây chưa biết rõ đặc biệt là các vi chất
dinh dưõng, vì vậy danh mục các bệnh thiếu dinh dưỡng còn thêm các bệnh do
thiếu kẽm (Zn), thiếu selen và do thiếu các chất khác.
Đói và các bệnh thiếu dinh dưỡng, hiển nhiên là đặc điểm của các nưốc nghèo
nhưng liệu ỏ các nước da no, dư thừa về thực phẩm vâ'n đỂ về dinh dưỡng có gl
đáng quan tâm nữa không? Trưâc thập kỷ 60 của th ế kỷ XX, nhiều người cũng
từng nghĩ rằn g vấn đề dinh dưỡng không có gì đáng quan tâm nhiều ở các nưóc,
các tầng lóp đã no đủ.
Sự th ậ t không như thế. Các thông kê dịch tễ học so sánh ở từng nưốc trong
các thòi kỳ khác nh au và so sánh các quần thể di cư từ vùng này sang vùng khác
cho thây mô hình bệnh tậ t thay đổi theo lối sốhg và cách ăn uốhg. ở các nưốc
giàu, tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch, bệnh ung thư, bệnh đái đường tăn g lên.
Bệnh béo phì chiếm 20 - 40% sô’ dân trưởng thành ở nhiều nước p h át triển là một
nguy cơ quan trọng của nhiều bệnh khác.
Trong vài thập kỷ gần đây, các yếu tô' dinh dưỡng đã được xem xét, nghiên
cứu râ't nhiều và mặc dù nhiều điều còn chưa sáng tỏ nhưng các chuyên gia y tế
cũng rú t ra được nhiều khuyến nghị quan trọng về chế độ ăn uốhg để đề phòng
các bệnh m ạn tính.
15
N hư vậy cả thiếu ăn lẫn thừa ăn nên hiểu là thừ a về sô’ lượng và thiếu về chất
lượng đều có thể gây bệnh. Một chế độ ăn cân đối, hỢp lý là cần th iế t để con người
sổhg khoẻ m ạnh và lâu.
Nước ta đang ỏ trong thời kỳ kinh tế chuyển tiếp. Bên cạnh mô hình bệnh tậ t
của một nước kém phát triển trong đó suy dinh dưõng và nhiễm k huẩn là phổ biến
đang xuất hiện sự gia tăng nhiều loại bệnh hay gặp ở các nước p h át triển. Bệnh béo
phì đang có xu hưóng tăng ở một số đốì tượng dân cư, bệnh tăng huyết áp đang
tăn g rõ rệt, hiện nay trên 10% 80 vối năm 1960 chỉ vào khoảng 1% dân sô’,
Bài học về chăm sóc sức khoẻ trong đó có chăm sóc dinh dưỡng của nhiều nước
p h át triển đạt thàn h tựu cao về m ặt này r ấ t đáng cho chúng ta học tập để không
vấp phải những sai lầm đã được thử nghiệm.
1. DINH DƯỠNG VÀ TẰNG TRƯỞNG
1.1. Quá trình tăn g trưồng và phát triển ch ịu ảnh hưởng sâu sắc của điều
k iện dinh dưỡng trong bào th ai và sau này
Thông qua thòi kỳ có thai, bào thai p h át triển từ một tế bào (trứng đã th ụ
tinh) cho đến 2 X 10'^ tê'bào khi đẻ và sau đó cho đến khi trưỏng thàrih còn tăng
lên 30 lần nữa. Một thương tổn nặng nề vê' dinh dưỡng và chuyển hoá ở một thời
điểm n h ất định sẽ gây suy yếu ở các hệ thốhg chức phận đang p h át triển mà sau
này ít hoặc không có thể hồi phục được. Thiêu dinh dưõng trong bào th ai dẫn đến
cân nặng sơ sinh thấp, vòng đầu và chiều dài cơ thể thấp hơn. Trẻ sơ sinh có cân
liặng thấp thưòng có tỷ lệ tử vong cao và có th ể trỏ nên thâ'p nhỏ về sau. Có nhiều
bằng chứng cho thấy trẻ sơ sinh nhẹ cân do mẹ bị thiếu dinh dưỡng là yếu tô' nguy
cơ chính của bệnh tim mạch sau này.
Vòng đầu là một sô' đo có giá trị về kích thước của não. Sô' lượng tế bào não
gần hoàn thàn h khi sinh, sau đó chủ yếu là sự hình thành các nô'i tiếp giữa các
nơron. Thiếu dinh dưỡng bào thai có thể dẫn tôi giảm bốt sô' lượng tế bào não và
trí thông minh V Ể sau.
Sự p hát triển nói chung phụ thuộc vào nhiều yếu tố: di truyền, nội tiết, thần
k inh thực vật và dinh dưõng. Ba yếu tô' đầu bảo đảm tiềm nàng p h át triển n h ất
định, dinh dưỡng hợp lý cung cấp các chất liệu cần th iế t để lợi dụng tiềm năng
p h á t triển đó. H iệu su ấ t đô'i vối p hát triển của các thức ăn có thể thay đổi không
những giữa ngưòi này vối ngưòi khác mà ngay cả ở một người trong những điều
kiện ăn uốhg khác nhau. Khi thiếu ăn tạm thòi cơ th ể p h át triển chậm lại nhưng
tìn h trạn g đó có thể được phục hồi khi ăn đầy đủ. Tuy nhiên, trong trưòng hợp
dinh dưõng không hỢp lý kéo dài có thể cản trở quá trìn h phục hồi đó. Vì thê' cần
quan tâm đặc biệt đến dinh dưõng của trẻ em.
Cấu trúc cơ thể thay đổi không ngừng theo quá trìn h tàn g trưởng, nói chung
hàm lượng protein trong các mô tăng gấp đôi từ sơ sinh đến tuổi trưởng thành.
16
B ảng 1. Thay đổi hàm lượng protein trong các mô theo tuổi
Tỷ s ố p ro tein /n u ứ c
Sơ sinh
Trưởng thành
Tổ chức cơ xương
0,16
0,27
Tổ chức mỡ
0,11
0,05
Da
0,20
0,48
Xương
0,27
1,10
Gan
0,18
0,25
Tim
0,15
0,17
Trung bình các loại mô
0,17
0,39
1.2. Các quần th ể tham k hảo về tăn g trưởng
Một vấn đê vẫn đang còn tra n h cãi là các quốc gia và chủng tộc có cần xây
dựng các tiêu chuẩn về tăng trudng riêng hay là một quần thể chuẩn đơn lẻ có thể
áp dụng cho mọi chủng tộc. N hiều nghiên cứu thây rằng sự khác nhau về tiềm
năng tăng trưởng giữa các chủng tộc có th ể do dinh dưõng và môi trường hơn là do
di truyền.
Theo H abicht và Cs (1974) qua so sánh sô’ liệu từ một sô nuđc p h át triển và
kém phát triển nh ận thây ở các vùng đô th ị với quần dân cU được nuôi dưỡng tô’t
thì chỉ 3% sự khác nhau về chiều cao và 6% về cân nặng là có thể quy cho chủng
tộc. Ngược lại, sự khác nhau về điều kiện kinh tế xã hội và tình trạn g dinh dưõng
giữa nông thôn và thàn h th ị có thể lên đến 12% vê' chiều cao và 30% về cân nặng
trong cùng một nhóm chủng tộc.
Trong thập kỷ 60 và 70 của thê kỷ XX, hai quần thể tham khảo sau đây hay
dược dùng:
- Quần thể tham khảo H arvard là sô’ liệu từ trẻ em ỏ Iowa và Boston thập kỷ
1930 (Hoa Kỳ).
- Quần thể T anner dựa trên các sô’ đo của trẻ em ỏ Anh quốc thập kỷ 1960.
Từ thập kỷ 1980 tới nay, Tổ chức Y tê’ Thê giâi (WHO) khuyên nghị dùng sô'
liệu của Trung tâm Quốc gia vệ' thống kê sức khoẻ của Hoa Kỳ (NCHS) làm quần
thể tham khảo để đánh giá ivẠI {JBfilí‘lớạlỊ0ttlEK[rạng dinh dưỡng trẻ em. Tuy vậy,
các công trình nghiên cứui^ctằÍB í(ỉ§jiáýìỢ Íj3Ếị)è tiếp tục.
2. DINH DƯỠNG, ĐÁP ỨNŨjyil|ỉ)l DỊCH VÀ NHIỄM KHUẨN
2.1. Mô'i quan h ệ giữa d in h dưỡng và b ệnh n hiễm khuẩn
Mô'i quan hệ giữa tình trạ n g dinh dưõng của một cá thể với các nhiễm khuẩn
theo hai chiều:
17
Một mặt, thiếu dinh dưỡng làm giảm sức đề kháng của cơ thể.
M ặt khác, các nhiễm khuẩn làm suy sụp thêm tìn h trạng suy dinh dưõng sẵn
có. Đó là một vòng xoắn luẩn quẩn như sau:
Tuy nhiên, ảnh hưởng của tìn h trạn g dinh dưỡng đốì vối tiến triển các bệnh
nhiễm khuẩn không giống nhau, ở bệnh lao ảnh hưởng này r ấ t lốn còn ở bệnh uốn
ván lại không đáng kể. Có thể tóm tắ t mối quan hệ này ở bảng 1 dưói đây:
B ảng 2. Các bệnh nhiễm k huẩn ảnh hưởng tới tình trạng dinh dưõng.
Bệnh do vi khuẩn
Bệnh do virus
Nhiễm ký sinh
trùng
Nhiễm nấm
Bệnh khác
18
N hléu
Trung bình
ít
Lao
Tiêu chảy nhiễm khuẩn
Tả
Ho gà
Nhiễm khuẩn hô hấp
SỎI
Tiêu chảy do rota virus
Nhiễm khuẩn hô hấp
Kén ỏ phổi
Kỷ sinh trùng đường ruột
Trypanosomiase
Leishmaniose
Bilharziose
Candidose
Aspergillose
Bạch hẩu
Nhiễm tụ cẩu
Nhiễm llồn cầu
Thương hàn
Uốn ván
Nhiễm độc tố vi khuẩn
Cúm
Đậu mùa
Sốt vàng
Bai llêt
Sốt rét
Giardia
Giun chỉ
Độc tố nấm
Giang mai
Sốt Rickettsia
2.2. T hiếu d in h dưỡng p rotein -n ăn g lưựng và m iễn dịch
Phần nhiều trẻ em trong 3 tháng đầu được bú sữa mẹ đều phát triển tốt, sau
đó tìn h trạn g dinh dưõng bỗng xấu đi một phần do chê độ ăn bổ sung không hỢp
lý, một phần do các nhiễm khuẩn lặp đi lặp lại. Bệnh Kwashiorkor thường xuất
hiện sau sởi và tiêu chảy kéo dài.
Thiếu protein và năng lượng có ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thông miễn dịch,
đặc biệt là miễn dịch qua trung gian tế bào, các chức phận diệt khuẩn của bạch
cầu đa nhân tru n g tính, bổ thể và bài xuất các globulin miễn dịch nhóm IgA.
Người ta n hận thấy ở trẻ em suy dinh dưõng, tuyến ức giảm cả thể tích và có biến
đổi hình thái. Các mảng Peyer ở ruột non cũng bị teo đét cùng vối giảm các nang
lympho bào. Thiếu protein năng lượng hay gặp n h ất ở trẻ em trưâc tuổi đi học, bà
mẹ có th ai (ảnh hưởng tối thai nhi), các em gái ở tuổi vị thàn h niên.
Chúng ta biết rằng các lympho bào T (trưởng thành ở tuyến ức) có vai trò
trong miễn dịch trung gian tế bào và các lympho B (trưởng th àn h ở tuỷ xương)
chịu trách nhiệm về miễn dịch dịch thể, nghĩa là tạo ra các kháng thể đặc hiệu
của các kháng nguyên tấn công cơ thể. Người ta nhận thấy ỏ các trẻ em suy dinh
dưõng, đặc biệt là Kwashiorkor, số lượng lympho T luân chuyển giảm sút và quá
trình trưởng thàn h của chúng bị rốỉ loạn.
Mặc dù ý kiến đôi với miễn dịch dịch thể vẫn còn chưa hoàn toàn n h ất trí,
nhưng phần đông các tác giả đều cho rằng ngay khi có giảm đáp ứng miễn dịch
dịch thể vẫn cần tổ chức tiêm chủng cho các em này, đặc biệt là sởi và ho gà là hai
bệnh ản h hưởng nhiều đến tình trạng dinh dưỡng.
2.3. Vai trò củ a m ột số vitam in và m ien dịch
Trong các vitam in ta n trong châ't béo, chỉ có vitam in A và vitam in E là có vai
trò đôì vối hệ thông miễn dịch.
V ita m in A
Còn
cổ
t ê n gọi lò “V i t a m i n c h ố n g n h i ễ m k h u a n ” cổ v a i t r ò r õ r ệ t c ả vổi m i ễ n
dịch dịch thể và miễn dịch tế bào. Mọi người đều biết tỷ lệ tử vong do nhiễm
khuẩn ở những trẻ em bị khô m ắt nặng rấ t cao. Cơ chế về vai trò của vitam in A
đôì vói các đáp ứng miễn dịch vãn chưa sáng tỏ, vai trò của vitam in này đôi vói
tính toàn vẹn các biểu mô chỉ mói giải đáp được một phần.
V ita m in
c
Khi thiếu vitam in c, sự nhạy cảm đối vối các bệnh nhiễm k huẩn tăng lên,
mặt khác ở những người đang có nhiễm khuẩn, mức vitam in c trong máu thưòng
giảm. Một sô công trình thử nghiệm cho thâ'y ở chế độ ăn đủ vitam in c, các
globulin miễn dịch IgA và IgM tăng, tính cơ động và hoạt tính các bạch cầu tăng,
kích thích chuyển dạng các lympho bào và giúp đỡ tạo thàn h một trong các thành
phần của bổ thể: yếu tô' C 3 .
Các v ita m in nhóm B và m iễn dich
Trong các vitam in nhóm B, vai trò các folat và pyridoxin đáng chú ý hơn cả.
19
Thiếu folat làm chậm sự tổng hợp các tế bào tham gia vào các cơ chế miễn
dịch. Tương tự như thiếu sắt, miễn dịch dịch th ể ít bị ảnh hưởng hơn miễn dịch
qua tru n g gian tế bào. Thực nghiệm trên động vật thiếu acid folic cho th ây tuyến
ức bị teo đét và sô’ lượng các tê bào cũng giảm. T rên thực tế ở trẻ em và n h ất là ở
phụ nữ có thai, thiếu folat thường đi kèm thiếu sắ t là hai yếu tô’ gây thiếu máu
dinh dưõng.
Thiếu pyridoxin (vitamin Be) làm chậm trễ các chức phận miễn dịch, cả dịch
thể lẫn tru ng gian tê’ bào.
2.4. V ai tr ò c ủ a m ộ t sô' c h ấ t k h o á n g v à m ie n d ịc h
R ất nhiều chất khoáng và vi khoáng tham gia vào chức phận miễn dịch, trong
đó vai trò của sắt, kẽm, đồng và selen được nghiên cứu nhiều hơn cả.
Sắt
Cần thiết cho tổng hợp DNA, nghĩa là đối vối quá trìn h phân bào. Hơn nữa sắt
còn tham gia vào nhiều enzym can thiệp vào các quá trìn h phân giải các vi khuẩn
bên trong cơ thể. Khi thiếu sắt, tính nhạy cảm đô'i vói nhiễm khuẩn tăng. Thiếu
sắt hay đi kèm với thiếu protein - năng lượng, tuy vậy khi bổ sung sắt cho trẻ em
suy dinh dưõng cần khéo léo vì sắt cần được kết hỢp vâi các protein vận chuyển
đúng tiêu chuẩn, nếu không sắt tự do sẽ là yếu tô’ thu ận lợi cho phát triển các vi
khuẩn. Vì thế, ngưòi ta khuyên chỉ nên bổ sung sắt từ ngày thứ 5 hoặc th ứ 7 của
quá trìn h phục hồi dinh dưõng.
Trong tình trạng hiểu biết hiện nay, người ta nhận thấy thiếu sắt ản h hưỏng
đến miễn dịch qua trung gian tê’ bào hơn là m iễn dịch dịch thể. Do đó tiêm chủng
chống các bệnh nhiễm khuẩn vẫn còn có tác dụng ỏ những trẻ em bị thiếu sắt vừa
phải, ở những nơi có bệnh sốt rét, việc bổ sung sắ t cần đi kèm vói uốhg thuốc
phòng 8ô't rét.
K ẽm
Khi thiếu kẽm, tuyến ức nhỏ đi, các lympho bào giảm sô' lượng và kém hoạt động.
Thymulin, một hormon của tuyến ức có chứa kẽm. Kẽm là coenzym của một số men
như ADN và ARN polymerase, cũng như carbonic anhydrase của hồng cầu.
T hiếu kẽm thường ít gặp đơn thu ần m à hay kèm theo thiếu protein, sắ t và
các vitam in.
Đ ổng
Đồng là coenzym của cytochrom oxydase và superoxyt dism utase. Trẻ em
thiếu đồng bẩm sinh (bệnh Menkes) thường chết do nhiễm khuẩn, n h ất là bệnh
viêm phổi.
S e le n
Là th àn h phần th iết yếu của glutathion - peroxydase là men gốp phần giải
phóng sự hình thàn h các gốc tự do. Thiếu selen, n h ất là khi kèm theo thiếu
vitam in E làm giảm sản xuâ't kháng thể. Môi quan hệ giữa thiếu selen và vitam in
E đã được chứng minh trong sinh bệnh học cơ tim ở Keshan, một vùng ở Trung
Quốc m à lượng selen trong đất và nước quá thấp.
20
- Xem thêm -