Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ điều tra viên trong tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng...

Tài liệu điều tra viên trong tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn thành phố đà nẵng

.DOC
91
14
63

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng bản thân tôi. Các số liệu trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, độ tin cậy và trung thực. Những kết quả đưa ra trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA, HOẠT ĐỘNG CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................. 7 1.1. Điều tra viên, hoạt động của điều tra viên trong tố tụng hình sự ........................ 7 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Điều tra viên, hoạt động của điều tra viên ............................................................................................ 16 1.3. Quan hệ của Điều tra viên trong luật tố tụng hình sự....................................... 27 CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU TRA VIÊN VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG................................................................................................................... 34 2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về Điều tra viên, hoạt động điều tra viên tại Thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 - 2020 ................................................... 34 2.2. Thực tiễn hoạt động của Điều tra viên tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 2020 ...................................................................................................................... 41 CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................................ 59 3.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của Điều tra viên ................................................................................................... 59 3.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Điều tra viên và hoạt động điều tra .................................................................. 62 3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của Điều tra viên ............................... 66 KẾT LUẬN.......................................................................................................... DANH MỤC TÀI TIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 78 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Tiếng việt ANĐT An ninh điều tra ANND An ninh nhân dân ANQG An ninh quốc gia BLHS Bộ luật Hình sự BLTTHS Bộ luật Tố tụng hình sự CAND Công an nhân dân CQĐT Cơ quan điều tra CSĐT Cảnh sát điều tra CSĐTTP Cảnh sát điều tra tội phạm CSND Cảnh sát nhân dân ĐTV Điều tra viên KSV Kiểm sát viên TAND Tòa án nhân dân CQĐTHS Cơ quan điều tra hình sự TCĐTHS Tổ chức điều tra hình sự TTATXH Trật tự an toàn xa hội TTHS Tố tụng hình sự TTXH Trật tự xa hội VKS Viện kiểm sát VKSND Viện kiểm sát nhân dân XHCN Xa hội chủ ngh̃a MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong tố tụng hình sự Việt Nam, Điều tra viên (ĐTV) là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ Điều tra hình sự, là lực lượng trực tiếp tham gia trong giai đoạn tố tụng hình sự (TTHS) đầu tiên, giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự (VAHS). ĐTV có vai trò, vị trí rất quan trọng trong tố tụng hình sự, nhất là đối với giai đoạn phát hiện, khởi tố vụ án hình sự và giai đoạn điều tra vụ án hình sự. ĐTV là người chịu trách nhiệm chính trong việc ra các quyết định, thực hiện hành vi tố tụng hình sự đầu tiên có tính chất căn cứ, làm cơ sở nền tảng cho các giai đoạn tố tụng hình sự tiếp theo. Điều tra viên là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong quá trình làm rõ sự thật khách quan vụ án đa xảy ra, xác định và chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội. Hiện nay mỗi ngành đều có quy định riêng về ĐTV của mình, các quy định pháp lý về chức danh tư pháp này vẫn chưa được cụ thể hóa trong một văn bản pháp quy mang tính thống nhất. Tình hình này dẫn đến thực tế là địa vị pháp lý của ĐTV trong tố tụng hình sự chưa được khẳng định cụ thể, dẫn đến trong thực tiễn điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự, ĐTV đa gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Bên cạnh đó, ĐTV điều tra vụ án hình sự vừa phải có những tiêu chuẩn chung theo quy định của Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự (CQĐTHS), vừa phải có được tiêu chuẩn đặc thù mà mỗi ngành, mỗi l̃nh vực quy định. Đồng thời, mỗi ĐTV cần trải qua một quá trình đào tạo, bồi dưỡng và trải nghiệm thực tiễn mới có thể đáp ứng được tiêu chuẩn của một ĐTV, đủ khả năng để hoàn thành nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự và các nhiệm vụ khác mà pháp luật và mỗi ngành quy định. Đà Nẵng là thành phố trực thuộc Trung ương, là trung tâm kinh tế chính trị xa hội của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Nơi phức hợp đa dạng các ngành, các l̃nh vực như công nghiệp, tài chính, dịch vụ, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ. Thành phố mở ra như là cửa ngõ, đóng vai trò hạt nhân quan trọng 1 trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Về mặt giao thương, thành phố Đà Nẵng nằm ở trung độ của trục giao thông Bắc - Nam về đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không, là cửa ngõ quan trọng ra biển để giao lưu với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đà Nẵng có nhiều danh lam thắng cảnh, khu du lịch nổi tiếng trong và ngoài nước, nằm trong chuỗi liên kết du lịch Huế - Đà Nẵng - Quảng Nam. Dân số của thành phố là 1.134.310 người (theo kết quả điều tra dân số vào ngày 01/04/2019) và tăng trưởng dân số bình quân hàng năm đạt 2,45%. Với tốc độ phát triển kinh tế cao so với các tỉnh trong khu vực, đây là nơi tập trung mật độ lao động ở các địa phương khác đến để làm ăn, sinh sống. Đà Nẵng cũng thu hút một lượng du khách trong và ngoài nước như là một điểm hẹn du lịch trên bản đồ Việt Nam. Trước tốc độ phát triển nhanh chóng của thành phố trong thời gian qua không chỉ tạo nên cảnh quan khang trang mà kéo theo đó là một nhịp sống mới đang chuyển mình từng ngày, năng động hơn và đa dạng hơn, được đánh giá là thành phố đáng sống. Trong khi đó, công tác quản lý nhà nước của thành phố trên các l̃nh vực của đời sống xa hội lại tồn tại nhiều hạn chế. Từ những bất cập đó đa và đang tạo điều kiện thuận lợi để các loại tội phạm phát sinh và phát triển không chỉ về số lượng mà tính chất các vụ việc ngày càng tinh vi, nguy hiểm và nghiêm trọng hơn. Trong 05 năm (2015-2019), thành phố đa xảy ra 2.577 vụ phạm pháp hình sự, trong đó nổi lên là tội trộm cắp tài sản; cố ý gây thương tích và cướp giật tài sản có tính chất ngày càng manh động; hoạt động của các băng, nhóm sử dụng công nghệ cao để lừa đảo chiếm đoạt tài sản diễn biến phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi, số tiền chiếm đoạt lớn; tội phạm và vi phạm pháp luật Việt Nam do người nước ngoài, nhất là người Trung Quốc thực hiện trên địa bàn thành phố có xu hướng gia tăng, đa dạng về hành vi phạm tội; tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia cũng diễn biến phức tạp. Nhìn chung, tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố đều gia tăng cả về số lượng lẫn quy mô, tính chất. Những thành tựu, kết quả đạt được trong công tác bảo vệ an ninh chính trị (ANCT), bảo đảm trật tự, an toàn xa hội (TTATXH) trong thời gian qua có sự đóng 2 góp to lớn của Cơ quan điều tra (CQĐT), cụ thể là lực lượng ĐTV. Thực tế, lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng nói chung, lực lượng ĐTV của CQĐT Công an thành phố thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống, điều tra xử lý tội phạm vẫn còn mỏng. Với số lượng 163 ĐTV (gồm cả Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT các cấp) như hiện nay thì việc đáp ứng yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian đến là vấn đề không hề đơn giản. Bên cạnh đó, năng lực đội ngũ ĐTV vẫn còn nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống, điều tra, xử lý tội phạm nhất là trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay. Để khắc phục những vấn đề bất cập trên, trong giai đoạn vừa qua thành phố đa đặc biệt đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐTV như là khâu đột phá để xây dựng một đội ngũ ĐTV đáp ứng cả về số lượng và chất lượng. Đây cũng là khâu quan trọng trong việc tạo ra một đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp phục vụ yêu cầu của chiến lược cải cách tư pháp trên địa bàn thành phố. Tuy nhiên, công tác đào tạo bồi dưỡng ĐTV hiện nay còn bộc lộ nhiều thiếu sót, hạn chế về nội dung, phương pháp giảng dạy và điều kiện học tập nên chưa đủ sức để có thể đào tạo được một đội ngũ ĐTV có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ năng lực, chưa đủ điều kiện để Công an thành phố có thể tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng nhằm giải quyết nhu cầu về ĐTV của Công an thành phố Đà Nẵng hiện nay. Từ thực trạng công tác tố tụng hình sự và những vấn đề đang đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ ĐTV trên địa bàn Đà Nẵng, cho thấy thực tế chưa xác định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ĐTV trong tố tụng hình sự. Từ đó chưa có những giải pháp gắn với điều kiện cụ thể của thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, để góp phần làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn cho việc xác định vị trí, vai trò, quyền hạn, ngh̃a vụ và trách nhiệm của ĐTV trong tố tụng hình sự cũng như việc đảm bảo các điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động của ĐTV trong giải quyết vụ án hình sự. Xuất phát từ tính cấp thiết đó, tác giả chọn đề tài: “Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” làm đề tài nghiên cứu Luận văn Thạc s̃ của mình. 3 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Nghiên cứu về ĐTV trong tố tụng hình sự là một yêu cầu khách quan, mang tính thời sự và cấp bách, trước yêu cầu về vấn đề cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay như: - Sách tham khảo và chuyên khảo đề cập đến ĐTV như: Sách chuyên khảo “Sổ tay pháp luật của Điều tra viên” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh, năm 2006; Sách chuyên khảo “Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan điều tra trong Công an nhân dân theo tiến trình cải cách tư pháp” của GS.TS Nguyễn Ngọc Anh. - Luận văn “Địa vị pháp lý của Điều tra viên trong tố tụng hình sự nước ta” của Th.S Phùng Như Thịnh, năm 2000; luận văn “Điều tra viên và Thủ trưởng Cơ quan điều tra theo pháp luật TTHS Việt Nam” Th.S Nguyễn Thái Bình, năm 2015. - Luận án Tiến s̃ Luật học “Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra và Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của TS Bùi Thế Tỉnh, năm 2018. - Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 1997: “Đào tạo điều tra viên trong lực lượng Cảnh sát nhân dân - Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng” của Mai Đức Hải; Một số bài báo như: “Bàn về địa vị pháp lý của Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Trần Ngọc Đức đăng trên Tạp chí Công an nhân dân năm 2004; “Nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng Điều tra viên” của Th.S Trần Quốc Hùng đăng trên Tạp chí Công an nhân dân năm 2013; “Nâng cao hiệu quả hoạt động của Điều tra viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Th.S Nguyễn Việt Hà đăng trên Tạp chí khoa học và chiến lược năm 2014; Các đề tài, luận án, luận văn, công trình nghiên cứu khoa học nêu trên là những tài liệu hữu ích giúp tác giả nghiên cứu về vấn đề ĐTV, tuy nhiên cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào cụ thể về ĐTV trong tố tụng hình sự tại thành phố Đà Nẵng, hoặc có nhưng đa lâu. Vì vậy, có thể khẳng định việc nghiên cứu đề tài “Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” là cần thiết, vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn và không trùng lặp với các công trình nghiên cứu khoa học đa công bố trong thời gian qua. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4 3.1. Mục đích nghiên cứu: - Tổng hợp một cách có hệ thống lý luận về điều tra viên trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Nâng cao chất lượng Điều tra viên, hiệu quả hoạt động của Điều tra viên trong lực lượng Công an thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về Điều tra viên và hoạt động điều tra của Điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam. - Đánh giá, phân tích thực trạng của Điều tra viên và hoạt động điều tra của Điều tra viên theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn Đà Nẵng. - Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng về đội ngũ Điều tra viên và hiệu quả hoạt động của Điều tra viên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Các quy định về điều tra viên trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. - Mô hình tổ chức, Điều tra viên và hoạt động của Điều tra viên thuộc Cơ quan điều tra của Công an thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Các quy định của Luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên. - Thực tiễn hoạt động của điều tra viên thuộc Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng trong công tác điều tra vụ án hình sự tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nghiên cứu các quan điểm, phương pháp luận của Chủ ngh̃a Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về tố tụng hình sự. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 5 Quá trình nghiên cứu luận văn tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn dịch, quy nạp, lô gíc,… để làm rõ nội dung các vấn đề cần nghiên cứu của đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về Điều tra viên nhằm đảm bảo điều tra viên có tầm quan trọng với vị trí xứng đáng trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Từ đó, góp phần hoàn thiện lý luận chung về điều tra viên trong tố tụng hình sự nói chung. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về cơ sở pháp lý về Điều tra viên, hoạt động điều tra của Điều tra viên, có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác, nghiên cứu, học tập, góp phần vào việc xây dựng, hoàn thiện lý luận về đào tạo, bồi dưỡng Điều tra viên, phục vụ công tác cải cách tư pháp. Từ thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng để đưa ra các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng, đội ngũ điều tra viên đáp ứng yêu cầu công tác. Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng chống, điều tra, xử lý tội phạm ở Đà Nẵng nói riêng và nước ta hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 chương và 8 tiết, trong đó: Chương 1: Những vấn đề lý luận về điều tra, hoạt động của điều tra viên trong tố tụng hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định của pháp luật về Điều tra viên và thực tiễn hoạt động điều tra viên thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của điều tra viên trong giải quyết vụ án hình sự 6 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA, HOẠT ĐỘNG CỦA ĐIỀU TRA VIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Điều tra viên, hoạt động của điều tra viên trong tố tụng hình sự 1.1.1. Khái niệm về Điều tra viên Hiện nay, trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự (CQĐTHS) năm 2015 và các văn bản pháp luật tố tụng hình sự có liên quan nêu ra một số khái niệm nhưng chưa cụ thể, đầy đủ về Điều tra viên (ĐTV). Theo một số tài liệu có liên quan đa đưa ra nhiều quan điểm khác nhau về ĐTV như sau: - Theo tiếng Hán, thì có thể hiểu về “điều tra” là tìm tòi, xét hỏi người, việc để tìm ra sự thật; còn “viên” là viên chức, người nhận lanh chức vụ của nhà nước, [28, tr.572, 2332]. Do đó, ĐTV được hiểu một cách đơn giản là những viên chức nhà nước được giao nhiệm vụ chuyên tìm tòi, xét hỏi người, việc để tìm ra sự thật. Đây là một khái niệm theo cách giải ngh̃a đơn giản, thông thường trong cuộc sống không có căn cứ pháp lý. - Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân (CAND), thì Điều tra viên được hiểu là một chức danh Nhà nước để chỉ cán bộ làm trong cơ quan điều tra, có nhiệm vụ tiến hành các biện pháp điều tra do Luật Tố tụng hình sự (TTHS) quy định và phải chịu trách nhiệm về những hoạt động điều tra của mình, [44, tr.459]. Khái niệm này cũng chưa bao quát đầy đủ, chưa thể hiện rõ vị trí pháp lý của ĐTV trong hoạt động TTHS. Một số giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam ở các cơ sở đào tạo của nước ta cũng đề cập đến khái niệm ĐTV theo nhiều khía cạnh khác nhau, đó là: - Giáo trình Luật TTHS Việt Nam dành cho hệ đào tạo sau đại học của Học viện Cảnh sát nhân dân đề cập đến khái niệm ĐTV như sau: “Điều tra viên là người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ được phân công của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự nhằm thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm có xảy ra hay không, ai là người thực hiện tội phạm và 7 những tình tiết khác của vụ án”, [31, tr.43]. - Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, đưa ra khái niệm về ĐTV khá ngắn gọn: “Điều tra viên là người trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra trong tố tụng hình sự”, [45, tr.43]. Pháp lệnh về TCĐTHS năm 2004 (Điều 29) đưa ra khái niệm về ĐTV: “Điều tra viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự”. Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015 (Điều 45) thì có khái niệm ngắn gọn hơn là: “Điều tra viên là người được bổ nhiệm để làm nhiệm vụ điều tra hình sự”. ĐTV gồm có các ngạch sau: ĐTV sơ cấp, ĐTV trung cấp, ĐTV cao cấp. Từ các khái niệm về ĐTV đa nêu ở trên, có thể rút ra được những đặc điểm của Điều tra viên như sau: Thứ nhất, ĐTV là chức danh tư pháp, là người tiến hành tố tụng trong CQĐT, được lựa chọn theo tiêu chuẩn luật định về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, năng lực thực tế và các chứng chỉ nghề nghiệp để phục vụ cho hoạt động điều tra hình sự và được người có thẩm quyền bổ nhiệm. Thứ hai, ĐTV được tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật và theo sự phân công của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT. Thứ ba, trong hoạt động điều tra hình sự ĐTV có các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm theo quy định của Luật TTHS và Luật Tổ chức CQĐTHS, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐ về hành vi, quyết định của mình. Từ những phân tích các quan điểm khác nhau về khái niệm ĐTV, đặc điểm của ĐTV, theo quan điểm của cá nhân có thể đưa ra khái niệm khoa học đầy đủ về ĐTV như sau: “Điều tra viên là người tiến hành tố tụng trong CQĐT, có đủ các tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định của pháp luật, được cơ quan cấp có thẩm quyền bổ nhiệm có thời hạn, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ điều tra vụ án hình sự, sử dụng các biện pháp điều tra để xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ theo sự phân công của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT và chịu trách nhiệm 8 trước pháp luật, trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT về các hoạt động của mình” 1.1.2. Địa vị pháp lý của Điều tra viên Địa vị pháp lý của ĐTV hiện nay được xác định thông qua các quy định của Bộ Luật TTHS năm 2015, Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015, có thể khái quát như sau: Theo Điều 34 Bộ luật TTHS năm 2015 (trước đây ở Điều 33 Bộ luật TTHS năm 2003) đa quy định cụ thể ĐTV là một trong số những người tiến hành tố tụng. Điều luật này đa xác định địa vị pháp lý của ĐTV là “người tiến hành tố tụng” thuộc Cơ quan điều tra, tương tự các chức danh tư pháp khác thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng khác như: Viện kiểm sát, Tòa án... Các văn bản quy định khác có liên quan cũng chưa có điều khoản nào quy định cụ thể hơn, giải thích rõ hơn về quy định này, hoặc khái niệm về người tiến hành tố tụng. Theo giải thích về mặt khoa học của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Anh thì “người tiến hành tố tụng” là khái niệm dùng để chỉ những người được bổ nhiệm, được bầu hoặc được phân công để thực hiện các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, kiểm sát và xét xử theo quy định của pháp luật, [1, tr.181]. Khi thực hiện nhiệm vụ được phân công, người tiến hành tố tụng có những nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 49 Bộ luật TTHS năm 2015 (trước đây là Điều 42 Bộ luật TTHS năm 2003) nhằm đảm bảo tính khách quan khi thực hiện nhiệm vụ được phân công. Cách giải thích này là phù hợp với các quy định khác về địa vị pháp lý của ĐTV, [43, tr.47]. Nhiệm vụ, quyền hạn của ĐTV được quy định chi tiết tại Điều 37 Bộ LTTHS năm 2015 như sau: - Trực tiếp kiểm tra, xác minh và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; - Lập hồ sơ vụ án hình sự; - Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa, yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; 9 - Triệu tập và hỏi cung bị can, triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, bị hại, đương sự; - Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát, quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; - Thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, xử lý vật chứng; Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra; - Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan điều tra theo quy định của Bộ luật TTHS. ĐTV phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra về hành vi, quyết định của mình. Điều luật này đa quy định cụ thể “những nhiệm vụ và quyền hạn” của ĐTV tương xứng với Điều 34 BLTTHS năm 2015 quy định ĐTV là “người tiến hành tố tụng” tương tự các chức danh tư pháp thuộc các cơ quan tố tụng khác, như: Kiểm sát viên của Viện Kiểm sát, Thẩm phán của Toà án,... Các nội dung quy định tại Khoản 1 về “những nhiệm vụ và quyền hạn” của ĐTV chủ yếu quy định về các biện pháp điều tra mà ĐTV được phép thực hiện. Khoản 2 của điều luật cũng quy định rất chung về trách nhiệm của ĐTV là “phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT về hành vi, quyết định của mình”. Bên cạnh đó tại các điều 45, 46, 47, 48, 49, 50, 51, 54, 56 Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015 đa quy định: về khái niệm ĐTV; tiêu chuẩn chung của ĐTV; tiêu chuẩn bổ nhiệm ĐTV sơ cấp, trung cấp, cao cấp; bổ nhiệm ĐTV trong trường 10 hợp đặc biệt; nhiệm kỳ của ĐTV; về những việc ĐTV không được làm; về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức ĐTV. Như vậy, có thể xác định địa vị pháp lý của ĐTV tương tự các chức danh tư pháp thuộc các cơ quan tố tụng khác, như: Kiểm sát viên, Thẩm phán... ĐTV là một trong số những người tiến hành tố tụng, được tiến hành áp dụng một số biện pháp điều tra theo quy định của luật tố tụng hình sự khi được Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra phân công điều tra vụ án hình sự, phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình. 1.1.3. Hoạt động của Điều tra viên Điều tra là hoạt động thu thập tin, tài liệu, tình hình… phản ánh sự thật về một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, l̃nh vực phục vụ nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều tra được tiến hành dưới nhiều hình thức: Trực tiếp hoặc gián tiếp; công khai hoặc bí mật; trên phạm vi rộng (diện) hay hẹp (điểm), [47, tr.455]. Hoạt động điều tra là hoạt động ban đầu rất quan trọng và hết sức cần thiết đối với tất cả các vụ án hình sự, để buộc những “dấu vết” của vụ án phải “lên tiếng”. Theo Pháp luật của nhiều nước và Việt Nam đều quy định những cơ sở pháp lý đối với hoạt động điều tra như: Hệ thống các CQĐT, thẩm quyền điều tra, thời hạn điều tra, các biện pháp điều tra, người tiến hành điều tra... Nhưng việc đưa ra khái niệm chính thức, tổng quát về “hoạt động điều tra” chưa được quy định trong Bộ luật TTHS. Hiện nay về mặt lý luận, có một số quan điểm khác nhau về khái niệm “hoạt động điều tra” như sau: Quan điểm thứ nhất: Điều tra là hoạt động tìm tòi, xét hỏi người, việc để tìm cho ra sự thật, [28, tr.572]. Quan điểm thứ hai: Về hình sự, điều tra là các công cuộc truy tầm thủ phạm, thâu thập chứng cứ, ghi chép dấu tích, thường được các nhân viên cảnh sát làm ngay khi việc phạm pháp mới xảy ra, lắm khi chưa có vết tích khả nghi, hay còn bị dư luận bàn tán. Những công việc điều tra gồm: lấy lời khai nhân chứng, lấy khẩu cung nghi phạm, kiểm soát lý lịch, xét người, khám nhà, bắt giam, [26, tr.422] Quan điểm thứ ba: Điều tra là giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó cơ quan 11 Nhà nước có thẩm quyền áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật TTHS quy định để xác định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội làm cơ sở cho việc xét xử của Toà án, [46, tr.53] Quan điểm thứ tư: Điều tra là hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra và những cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm và người có hành vi phạm tội, lập hồ sơ để đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội hoặc vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can. Mọi hoạt động điều tra phải tuân theo pháp luật, chấp hành các nguyên tắc và thủ tục do Bộ luật TTHS quy định, [44, tr.808]. Trong số các quan điểm nêu trên thì quan điểm thứ tư là tương đối đầy đủ, toàn diện, thể hiện các yếu tố đặc trưng của hoạt động điều tra. Quan điểm này đa nêu được chủ thể áp dụng các biện pháp điều tra (CQĐT và những cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), nêu được các nhiệm vụ của hoạt động điều tra (xác định tội phạm và người có hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên nhân và điều kiện phạm tội để có những biện pháp khắc phục, ngăn ngừa), những cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra (BLTTHS, Luật Tổ chức CQĐTHS), và những nguyên tắc của hoạt động điều tra. Theo quan điểm của cá nhân thì khái niệm về hoạt động điều tra là hoạt động của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định hành vi phạm tội và người đa thực hiện hành vi phạm tội đó, lập hồ sơ đề nghị truy tố; xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục; tôn trọng sự thật, tiến hành điều tra một cách khách quan toàn diện, đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và những chứng cứ chứng minh vô tội, những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Thực chất hoạt động điều tra là hoạt động của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng, ĐTV, được áp dụng các biện pháp điều 12 tra do pháp luật TTHS cho phép. Mọi hoạt động điều tra phải tuân theo các nguyên tắc và thủ tục do pháp luật TTHS quy định, tức là tuân theo các quy định của BLTTHS và các văn bản hướng dẫn. Theo quy định của BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức CQĐTHS năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật khác thì để điều tra vụ án hình sự (VAHS), làm rõ những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS, CQĐT và ĐTV được tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật như: “khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, khám xét (người, chổ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện), thu giữ, tạm giữ (thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử), kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, lấy lời khai người làm chứng, lấy lời khai người bị hại, hỏi cung bị can, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra, trưng cầu giám định...” Khi được phân công tiến hành hoạt động khởi tố, điều tra VAHS, ĐTV có những nhiệm vụ, quyền hạn theo Điều 37 Bộ LTTHS năm 2015 như sau: Trực tiếp kiểm tra, xác minh và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; Lập hồ sơ vụ án hình sự; Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; Triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ; triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, bị hại, đương sự; Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; Thi hành lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp, lệnh hoặc quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, xử lý vật chứng; Tiến hành khám nghiệm hiện trường, khai quật tử thi, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra; Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tố tụng khác thuộc 13 thẩm quyền của CQĐT theo sự phân công của Thủ trưởng CQĐT theo quy định của BLTTHS. Bên cạnh những nhiệm vụ, quyền hạn nêu trên thì ĐTV còn có trách nhiệm như sau: Áp dụng các biện pháp theo quy định của BLTTHS và pháp luật khác có liên quan để điều tra, xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ; Tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT; Từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong các trường hợp do BLTTHS quy định; Chấp hành quy định của pháp luật về những việc cán bộ, công chức hoặc cán bộ, chiến s̃ lực lượng vũ trang nhân dân không được làm; Chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT về hành vi, quyết định của mình; Có mặt tại phiên tòa khi Hội đồng xét xử triệu tập đến phiên tòa để trình bày các vấn đề liên quan đến vụ án mà mình thụ lý. Không phải trong bất kỳ vụ án nào CQĐT, ĐTV đều phải sử dụng tất cả các hoạt động điều tra trong quá trình điều tra VAHS. Trong số các hoạt động điều tra, chỉ có hoạt động điều tra “khám nghiệm hiện trường” là hoạt động được BLTTHS quy định rõ là có thể tiến hành trước khi khởi tố VAHS, còn lại hầu như không quy định thời điểm có thể tiến hành. Tùy thuộc vào yêu cầu điều tra của từng vụ án cụ thể mà áp dụng các hoạt động điều tra phù hợp, có sự khác nhau về số lượng và thứ tự tiến hành các hoạt động điều tra. Trong quá trình điều tra VAHS, CQĐT, ĐTV cùng với việc tiến hành các hoạt động điều tra, còn được áp dụng các biện pháp ngăn chặn như: bắt người trong trường hợp khẩn cấp, quả tang, tạm giữ người, bắt bị can để tạm giam và tạm giam bị can, cấm đi khỏi nơi cư trú, cho người thân, tổ chức của bị can bảo l̃nh, cho đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của bị can theo giấy triệu tập. Đối với các biện pháp ngăn chặn, các hoạt động điều tra quan trọng khác thì ĐTV không có thẩm quyền quyết định mà chỉ có quyền đề xuất, tổ chức thi hành và trực tiếp thi hành, cụ thể như: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Bắt khẩn cấp, bắt tạm giam; Tạm giữ, tạm giam; Kê biên tài sản; Trưng cầu giám định… Hoạt động điều tra vụ án hình sự của CQĐT, ĐTV là hoạt động tố tụng, 14 đồng thời là hoạt động nghiệp vụ. Để đảm bảo công tác điều tra tội phạm đạt hiệu quả thì CQĐT vừa phải tuân thủ các quy định của pháp luật, vừa áp dụng các biện pháp nghiệp vụ. Nếu chỉ áp dụng các hoạt động điều tra tố tụng của BLTTHS cho phép mà không nắm được các biện pháp nghiệp vụ thì hiệu quả điều tra sẽ rất hạn chế. Ngược lại, nếu chỉ sử dụng biện pháp nghiệp vụ mà bỏ qua các quy định của BLTTHS thì sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật và các thông tin, tài liệu thu thập được sẽ không có giá trị chứng minh tội phạm. Tóm lại, hoạt động của Điều tra viên trong điều tra vụ án là hoạt động tố tụng hình sự, nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm cơ sở cho việc truy cứu hay không truy cứu trách nhiệm hình sự. Hoạt động của Cơ quan điều tra, Điều tra viên khi được giao nhiệm vụ tiến hành điều tra vụ án hình sự, trong giai đoạn điều tra phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự (từ Điều 7 đến Điều 19 và Điều 21 Bộ luật TTHS năm 2015), cụ thể các nguyên tắc sau: Bảo đảm pháp chế xa hội chủ ngh̃a trong tố tụng hình sự; Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích ích hợp pháp của cá nhân; Bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật; Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể; Bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân, danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân; Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân; Suy đoán vô tội; Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm; Xác định sự thật của vụ án; Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự; Trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; Trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự; Tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra. Hoạt động điều tra trong vụ án hình sự là một hoạt động của Cơ quan điều tra do Cơ quan có thẩm quyền điều tra vụ án hình sự tiến hành nhằm thu thập đầy đủ chứng cứ chứng minh về tội phạm. Các hoạt động điều tra chính thức được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố trên cơ sở quyết định khởi tố của cơ quan Nhà 15 nước có thẩm quyền. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến hành một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ; phát hiện chính xác, nhanh chóng mọi hành vi phạm tội, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người có hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Trong khi thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động điều tra, Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ: áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người đa thực hiện hành vi phạm tội; lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội; yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra là nguyên tắc mới được bổ sung trong BLTTHS năm 2015, theo đó Điều tra viên, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tuân thủ pháp luật khi tiến hành hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS năm 2015. 1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về Điều tra viên, hoạt động của điều tra viên 1.2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự trước năm 2015 1.2.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988 Thời kỳ từ 1945 đến 1953, sau khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, hoạt động phòng ngừa, điều tra các đối tượng phản cách mạng và tội phạm khác do các sở Cảnh sát, sở Liêm phóng ở các vùng miền thực hiện. (Sở Liêm phóng ở miền Bắc, Sở Trinh sát ở miền Trung, Quốc gia tự vệ cuộc ở miền Nam kiêm cả hoạt động điều tra vụ án hình sự). Để tăng cường đấu tranh chống các đối tượng phản cách mạng và tội phạm khác, ngày 21/02/1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đa ban hành Sắc lệnh số 23/SL hợp nhất các sở Cảnh sát và các sở Liêm phóng thành Việt Nam Công an vụ trực thuộc Bộ Nội vụ với nhiệm vụ: (1) Tìm kiếm và tập trung các tin tức và tài liệu liên can đến sự an toàn của quốc gia hoặc bề trong hoặc bề ngoài; (2) Đề nghị và thi hành các phương pháp đề phòng những hành động có thể làm rối việc trị an và mất trật tự trong nước, bất cứ sự hoạt động đó là do 16 người Việt Nam hay ngoại quốc; (3) Điều tra về những hành động trái phép nói trên và truy tầm người can phạm để giúp Tòa án trong sự trừng trị. Đến ngày 20/7/1946, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 131/SL quy định về tổ chức Tư pháp Công an thuộc Bộ Nội vụ, theo đó: “Tư pháp Công an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình, tiểu hình hoặc vi cảnh); sưu tập các tang chứng, bắt người phạm pháp giao cho các Tòa án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định”, [5, tr.19]. Người chịu trách nhiệm điều tra vụ án hình sự về tội phạm xảy ra thuộc “Ủy viên Tư pháp Công an”. Cán bộ trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ điều tra, xét hỏi chỉ là người giúp việc cho Ủy viên Tư pháp Công an, kiêm luôn vai trò chấp pháp, xét hỏi, [30, tr.165]. Thời kỳ này chưa có văn bản quy định cụ thể về địa vị pháp lý (quyền và ngh̃a vụ tố tụng) của Ủy viên Tư pháp Công an, nhưng thực tế thẩm quyền của tổ chức Tư pháp Công an là rất lớn. Người thi hành, thay mặt tổ chức Tư pháp Công an là Ủy viên Tư pháp Công an có thẩm quyền trực tiếp tổ chức thực hiện việc truy tầm tất cả sự phạm pháp, sưu tầm các tang chứng, bắt giao người phạm pháp cho các tòa án xét xử…, không cần thông qua Cơ quan kiểm sát hoặc Viện công tố thẩm định, xem xét trước. Trong hoạt động điều tra hình sự, các Ủy viên Tư pháp Công an không được độc lập, mà phải tuân thủ sự chỉ đạo của các viên chức có thẩm quyền của ngành Tòa án, còn cán bộ điều tra là người giúp việc cho Ủy viên Tư pháp Công an, kiêm vai trò chấp pháp, xét hỏi bị can. Thời kỳ từ 1953 đến 1981, khi bộ máy Công an thành lập Cơ quan Chấp pháp (theo sắc lệnh số 141/SL ngày 16/02/1953 của Chủ tịch Hồ Chí Minh) là cơ quan chuyên trách điều tra hình sự, có nhiệm vụ điều tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố các vụ phạm tội phản cách mạng và hình sự khác. Lúc này, trách nhiệm và quyền hạn điều tra hình sự thực chất thuộc về Cục trưởng, Trưởng ban, Trưởng phòng chấp pháp (người đại diện cho Cơ quan Chấp pháp), còn cán bộ làm nhiệm vụ trực tiếp điều tra thực tế thường được gọi là “cán bộ Chấp pháp”, nhưng chức danh “cán bộ Chấp pháp” gần như chưa được đề cập trong luật. Thời kỳ này, cán bộ Chấp pháp làm việc với tư cách giúp việc cho Cục 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan