Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dịch vụ Logistics và các cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam với WTO...

Tài liệu Dịch vụ Logistics và các cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam với WTO

.PDF
105
379
60

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THẾ ANH DỊCH VỤ Logistcs VÀ CÁC CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM VỚI WTO LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2012 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRẦN THẾ ANH DỊCH VỤ Logistcs VÀ CÁC CAM KẾT MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM VỚI WTO Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Ngọc Giao HÀ NỘI - 2008 2 MỤC LỤC Trang Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Lời mở đầu Chương 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LOGISTICS............................. 1.1.Khái niệm Logistics.................................................................................. 1.1.1. Các định nghĩa về Logistics................................................................. 1.1.2. Đặc điểm và phân loại logistics........................................................... 1.1.2.1. Đặc điểm của logistics...................................................................... 1.1.2.2. Phân loại logistics............................................................................. 1.1.3. Vai trò và xu hướng phát triển của logistics........................................ 1.1.3.1. Vai trò của logistics.......................................................................... 1.1.3.2. Xu hướng phát triển của logistics..................................................... 1.2. Một số quy định chung của pháp luật Việt Nam về logistics................. Kết luận chương 1......................................................................................... Chương 2 –MỞ CỬA THỊ TRƯỜNG DỊCH VỤ LOGISTICS VỚI WTO: MỘT SỐ CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VÀ TƯƠNG QUAN VỚI PHÁP LUẬT TRONG NƯỚC ................................................................................ 2.1. Các quy định chung của GATS/WTO về thương mại dịch vụ............... 2.1.1. Một số định nghĩa và nguyên tắc cơ bản............................................. 2.1.1.1. Các định nghĩa.................................................................................. 2.1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản của GATS: Tối huệ quốc và Minh bạch .... 2.1.2. Các nguyên tắc tự do hóa cụ thể: Tiếp cận thị trường và Đối xử quốc gia …………………………………………………………………………. 2.2. Các cam kết chung của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ (bao gồm cả dịch vụ logistics) theo GATS …...................................................... 2.2.1. Cam kết ở phương thức hiện diện thương mại ………….................. 2.2.2. Cam kết ở phương thức hiện diện thể nhân ……............................... 2.3. Cam kết của Việt Nam trong các ngành dịch vụ logistic cụ thể............ 2.3.1. Các cam kết trong lĩnh vực dịch vụ logistics liên quan đến vận tải… 2.3.1.1. Dịch vụ vận tải biển hàng hóa và hành khách …………………… 2.3.1.2. Dịch vụ vận tải hàng không………………………………………. 2.3.1.3. Nhóm các dịch vụ vận tải còn lại…………………………………. 2.3.2. Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ bốc xếp……………………………. 2.3.3. Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ thông quan………………………… 2.3.4. Cam kết trong lĩnh vực dịch vụ kho bãi…………………………….. 2.3.5. Các cam kết trong lĩnh vực dịch vụ phân phối: bán buôn và bán lẻ ... 2.3.6. Các cam kết về miễn trừ đối xử Tối huệ quốc theo điều II của GATS. Kết luận chương 2 ......................................................................................... Chương 3 – THỰC TRẠNG NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS VIỆT NAM VÀ CÁC KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS ……………………………………………………………………. 3.1.Thực trạng ngành dịch vụ logistics Việt Nam và các cơ hội khi hội nhập 3.1.1. Đánh giá pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics ............................. 3.1.1.1. Ưu điểm........................................................................................... 3.1.1.2. Hạn chế........................................................................ ................... 3.1.2. Hiện trạng ngành dịch vụ logistics Việt Nam .................................... 3.1.3. Cơ hội của dịch vụ logistics Việt Nam khi hội nhập.......................... 3.2. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics …… 3.2.1. Quan điểm và định hướng hoàn thiện pháp luật................................. 3.2.2. Các giải pháp và kiến nghị.................................................................. 3.2.2.1. Về lập pháp...................................................................................... 3.2.2.2. Về cơ chế, chính sách ...................................................................... Kết luận chương 3 ...................................................................................... KẾT LUẬN .................................................................................................. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………… DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt ASEAN Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CIF Cost, Insurance and Freight Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí CFR Cost and Freight Tiền hàng và cước phí CPC Central Product Clasification Bảng phân loại sản phẩm trung tâm của Liên Hợp quốc ESCAP Economic and Social Development in Asia and the Pacific Ủy ban kinh tế và xã hội châu Á – Thái Bình Dương của Liên Hợp quốc FCA Free Carrier Giao cho người vận tải FOB Free on Board Hết trách nhiệm khi hàng qua lan can tàu GATS General Agreement on Trade in Services Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO MFN Most Favoured Nation Đối xử Tối huệ quốc NT Nation Treament Đối xử quốc gia VTĐPT Vận tải đa phương thức XNK Xuất nhập khẩu WEF World Economic Forum Diễn đàn kinh tế thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Logistics với hình thức sơ khai là giao nhận vận chuyển đã có từ rất lâu trong lịch sử, và cùng với sự phát triển của kinh tế nói riêng và xã hội nói chung, ngày càng xuất hiện những hình thức thể hiện mới của logistics. Chính vì vậy mà các quan niệm về logistics trên thế giới rất đa dạng và mang nội hàm khác nhau tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu, nhưng nhìn chung đều thừa nhận tầm quan trọng của logistics với các hoạt động kinh tế. Với tính hiệu quả của mình, cùng xu hướng toàn cầu hóa và xu hướng chuyển sản xuất ra nước ngoài của kinh tế thế giới, logistics ngày càng được nhìn nhận như một công cụ hữu ích để đạt được mục tiêu hiệu quả cho doanh nghiệp và thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế quốc gia. Mỗi quốc gia đều mong muốn xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ logistics hoàn chỉnh và đồng bộ, gắn kết với chuỗi logistics toàn cầu, trên cơ sở bảo hộ sự phát triển của ngành dịch vụ logistics nội địa, tuy nhiên khi quốc gia tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế thì việc phải mở cửa thị trường là điều thể không tránh khỏi. Những mục tiêu trên đặt ra các yêu cầu đối với hệ thống pháp luật liên quan đến dịch vụ logistics của quốc gia về sự hoàn thiện, phù hợp các tập quán và thông lệ quốc tế, khuyến khích sự phát triển của ngành dịch vụ logistics nội địa và đảm bảo tuân thủ lộ trình mở cửa thị trường theo các cam kết. Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), và cũng đã cam kết mở cửa thị trường dịch vụ theo những lộ trình nhất định, trong đó có các phân ngành thuộc lĩnh vực dịch vụ logistics. Hệ thống pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics mặc dù khá bao quát, điều chỉnh nhiều lĩnh vực và tương đối phù hợp các cam kết quốc tế nhưng vẫn 1 còn khá nhiều bất cập cần sửa đổi và bổ sung cho phù hợp yêu cầu. Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và pháp lý về logistics, các cam kết mở cửa thị trường dịch vụ logistics với WTO và thực trạng pháp luật của Việt Nam để phát hiện những bất cập từ đó đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật lĩnh vực này là vấn đề hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Đề tài “ Dịch vụ Logistics và các cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam với WTO” được thực hiện nhằm mục đích quan trọng đó. Đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy phạm pháp luật đầy đủ, phù hợp với luật pháp quốc tế và là cơ sở pháp lý cho việc nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Những kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích vừa thực hiện đúng các cam kết quốc tế vừa khai thác tối đa tiềm năng phát triển dịch vụ logistics ở Việt Nam, xây dựng Việt Nam trở thành trung tâm logistics lớn của thế giới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Hiện nay ở Việt Nam chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về vấn đề khía cạnh pháp lý của dịch vụ logistics, ngoài một số bài viết đề cập hoặc nghiên cứu khía cạnh kinh tế của Logistics như “Logistics - những vấn đề cơ bản” và “ Quản trị logistics” của TS Đoàn Thị Hồng Vân. Các cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ logistics của Việt Nam với WTO cũng đã được công bố rộng rãi nhưng việc phân tích và đánh giá so sánh với lộ trình của một số thành viên WTO có những điểm tương đồng với Việt Nam, cũng như đối chiếu với các quy định pháp luật trong nước để thấy được cơ hội và khó khăn mà các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics của Việt Nam đang đối mặt là gần như chưa có. Ngoài ra, các sách báo viết về Logistics hầu hết đều là của các tác giả nước ngoài, rất nhiều trong số này được viết bằng tiếng nước ngoài và ít liên quan đến pháp 2 luật Việt Nam, lại chưa được dịch ra tiếng Việt. Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về logistics và cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam khi gia nhập WTO, phát hiện những điểm còn bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành ở nước ta, qua đó đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này nhằm tạo môi trường pháp lý ổn định, phù hợp thông lệ và các cam kết quốc tế, khuyến khích sự phát triển của dịch vụ logistics Việt Nam, xây dựng Việt Nam trở thành trung tâm logistics lớn của thế giới. Để đạt được mục đích trên, luận văn phải hoàn thành được các nhiệm vụ cơ bản sau: - Nghiên cứu, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn về logistics và quy chế pháp lý đối với dịch vụ logistics tại Việt Nam - Phân tích các cam kết về lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ logistics của Việt Nam trên cơ sở so sánh với lộ trình mở cửa của một số thành viên WTO, qua đó đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về dịch vụ logistics. - Xác định những cơ hội và thách thức của ngành dịch vụ logistics khi Việt Nam là thành viên của WTO, từ đó đề ra các phương hướng và giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật về dịch vụ logistics Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu: là những cam kết của Việt Nam về mở cửa thị trường dịch vụ logistics với WTO và một số quy định pháp lý của Việt Nam liên quan đến dịch vụ logistics. 3 Phạm vi nghiên cứu: trong khuôn khổ một Luận văn thạc sỹ, với một đề tài khá mới và có phạm vi rộng, khả năng nghiên cứu và nguồn tư liệu tham khảo còn hạn chế, công trình nghiên cứu này không nhằm cung cấp tất cả những vấn đề liên quan đến logistics và mở cửa thị trường dịch vụ logistics trong WTO, mà chỉ nghiên cứu những vấn đề cơ bản về logistics và các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO về mở cửa thị trường từng phân ngành dịch vụ logistics theo sự phân loại của pháp luật Việt Nam. Việc đánh giá thực trạng pháp luật thực định chỉ giới hạn trong một số phân ngành logistics cơ bản, và trên cơ sở đó luận văn đề xuất những phương hướng và kiến nghị chung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về dịch vụ logistics Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. 5. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tác giả vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; quán triệt quan đểm và chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu là phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh luật học... 6. Những đóng góp của Luận văn - Nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về dịch vụ logistics. - Góp phần làm sáng tỏ các yêu cầu pháp lý quốc tế về mở cửa thị trường thương mại dịch vụ nói chung và dịch vụ logistics nói riêng, cũng như phân tích và so sánh các cam kết về lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ logistics của Việt Nam khi gia nhập WTO với lộ trình của một số quốc gia thành viên khác 4 - Đánh giá một cách khách quan những bất cập của hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến dịch vụ logistics và thực trạng của ngành dịch vụ logistics trong nước. - Đề xuất những phương hướng, giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật về dịch vụ logistics phù hợp các cam kết quốc tế, xây dựng Việt Nam thành một trung tâm logistics lớn của thế giới. 7. Kết cầu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về logistics Chương 2: Mở cửa thị trường dịch vụ logistics với WTO: một số cam kết của Việt Nam và tương quan với pháp luật trong nước Chương 3: Thực trạng ngành dịch vụ logistics Việt Nam và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về dịch vụ logistics 5 Chương 1– NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LOGISTICS 1.1. Khái niệm Logistics Trong lịch sử, khi các tranh chấp quốc tế cũng như tham vọng bành trướng lãnh thổ, chiếm đoạt tài nguyên thường được giải quyết thông qua chiến tranh, thì nhu cầu điều động quân đội , vũ khí khí tài quân sự cũng như lương thực và các vật dụng thiết yếu tới các mặt trận trong cuộc chiến luôn luôn đặt ra trước các nhà cầm quân, và sự thành bại trên chiến trường phụ thuộc rất nhiều vào việc đáp ứng những nhu cầu đó. Có thể lấy dẫn chứng từ hai cuộc chiến: kết cục thất bại khi Napoleon xâm lược nước Nga do không được chuẩn bị tốt về mặt hậu cần và cuộc đổ bộ thành công của quân Đồng minh vào vùng Normandi của Pháp trong thế chiến thứ hai khi đã có những sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Đó là xét trên phương diện chiến tranh, còn đối với lĩnh vực kinh tế, khi sự phân công lao động xã hội xuất hiện làm cho nền sản xuất xã hội trở nên chuyên môn hóa thì một đòi hỏi tất yếu đặt ra với loài người đó là sự trao đổi hàng hóa, bởi vì lúc này con người có thể không sản xuất ra những gì mình cần, mà mục đích của sản xuất là để phục vụ nhu cầu của những đối tượng khác tại các vùng địa lý khác. Để trao đổi được hàng hóa, con người có hai sự lựa chọn, hoặc là tự tìm đến nơi sản xuất, hoặc hàng hóa sẽ được mang đến nơi có nhu cầu. Lựa chọn một là không khả thi xét trên phạm vi rộng, bởi vì không phải lúc nào và địa điểm nào con người cũng có thể đến được, do gặp phải các vấn đề về chi phí đi lại, giao thông, lãnh thổ biên giới quốc gia... Vì thế hàng hóa sẽ được mang đến những nơi nó có thể được tiêu thụ. Xuất phát từ những nhu cầu trong chiến tranh và của nền sản xuất nói trên, một hoạt động xã hội đã ra đời để đáp ứng, đó là hoạt động vận chuyển hàng hóa. 6 Cùng với sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của nền sản xuất xã hội thì đòi hỏi đặt ra đối với hoạt động vận chuyển ngày càng cao, không chỉ đơn thuần là sự dịch chuyển vị trí của hàng hóa từ địa danh này đến địa danh khác trong một phạm vi lãnh thổ hay đơn vị hành chính tại quốc gia nào đó. Các nhà sản xuất mở rộng phạm vi bán hàng cũng như nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào trên phạm vi toàn thế giới. Ví dụ với hãng sản xuất máy bay Boeing của Mỹ, một thành phẩm hoàn chỉnh sử dụng gần 800.000 cụm linh kiện có xuất xứ từ hơn 50 quốc gia, trong một cụm linh kiện cũng có vô số các chi tiết với nguồn gốc khác nhau, và máy bay của hãng thì được bán ra trên khắp toàn cầu. Cũng chính từ sự chuyên biệt hóa lao động xã hội mà dần dần nhiệm vụ đặt ra với các nhà sản xuất đó là tập trung sản xuất với quy mô phù hợp và chi phí thấp nhất, còn hoạt động thu mua nguyên vật liệu hàng hóa đầu vào, cũng như phân phối thành phẩm tới các kênh bán hàng, tới người mua sẽ do các thương nhân trung gian với kinh nghiệm và kỹ năng chuyên biệt đảm nhiệm. Vì thế mà xuất hiện một ngành dịch vụ mới, với nhiệm vụ cung cấp và phối hợp các dịch vụ đơn lẻ như vận chuyển, kho bãi, bốc xếp, khai thuê Hải quan, bán buôn, bán lẻ ... để tạo sự thống nhất giữa các hoạt động và tối ưu hóa lợi nhuận cho sản xuất, nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngành dịch vụ này được gọi là dịch vụ Logistics. Ngày nay logistics đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, bởi vì sự chênh lệch ở các lĩnh vực cạnh tranh truyền thống như giá cả hay chất lượng hàng hóa ngày càng bị thu hẹp, các nhà sản xuất cạnh tranh nhau bằng sự hợp lý hóa quá trình sản xuất như chu trình lưu chuyển nguyên nhiên liệu và bán thành phẩm, quản lý tồn kho, hiệu suất và thời gian giao hàng..., mà những vấn đề này được quyết định bởi Logistics. Sự thành công của Công ty máy tính Dell (Mỹ) với doanh số năm 2006 trên 45tỷ USD khi trên thị trường đã có rất nhiều tên tuổi lớn tồn tại qua hàng 7 nửa thế kỷ như IBM, Hewlett-Packard... xuất phát từ sự hiệu quả của hoạt động Logistics. Cũng chính từ sự nhận thức về tầm quan trọng của chuỗi cung toàn cầu mà Wal-mart trở thành chuỗi siêu thị bán lẻ lớn nhất thế giới trên phương diện doanh thu và lợi nhuận tính trên diện tích so với các nhà bán lẻ lâu đời và nổi tiếng khác như K-mart, Sears hay Target... Đó là xét dưới góc độ các doanh nghiệp, còn ở phạm vi quốc gia, một đất nước nghèo về tài nguyên và hạn chế về diện tích như Singapore, trong sự phát triển chung đã có những đóng góp không nhỏ từ ngành dịch vụ logistics. Nhận thức được những hạn chế cũng như tiềm năng của mình, Singapore đã tập trung phát triển các ngành dịch vụ, trong đó có dịch vụ logistics, và hiện nay hải cảng Singapore là một trong những cảng biển chuyển tải container đông đúc nhất tiếp nhận hơn 140.000 lượt tàu cập cảng hàng năm của hơn 250 hãng vận chuyển kết nối tới 600 cảng biển trên toàn thế giới, và sân bay Changi là cửa ngõ hàng không quan trọng của khu vực châu Á Thái Bình Dương, với hơn 80 hãng hàng không có tuyến bay tới trên 180 thành phố tại 57 quốc gia và có tới 4.000 lượt chuyến bay hàng tuần (http:// www.mpa.gov.sg). Tuy có tầm quan trọng như vậy, nhưng hiện nay cũng chưa có một cách hiểu thống nhất về logistics. Mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực lại có những quan niệm khác nhau về ngành dịch vụ này. Cùng với sự phát triển chung của xã hội, logistics ngày càng được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực và có nhiều biến thể mới khiến cho các quan niệm về logistics cũng luôn thay đổi. 1.1.1 Các định nghĩa về Logistics Khái niệm Logistics trong kinh doanh hay quân sự không hề có mối liên hệ nào với “logic” là khái niệm trong toán học. Theo từ điển American Heritage, nguồn gốc của từ này bắt đầu từ “logistique” trong tiếng Pháp, và từ “logistique” lại có gốc là từ “loger” có nghĩa là nơi đóng quân. Thoạt đầu, 8 logistics được sử dụng như là một từ chuyên môn trong quân đội, với ý nghĩa là công tác hậu cần. Sau này, dần dần thuật ngữ logistics được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế. Xuất phát từ tính đa dạng của hoạt động logistics cũng như các lĩnh vực có sử dụng logistics mà hiện nay thế giới có rất nhiều định nghĩa, mà dưới đây là một số những định nghĩa điển hình: Từ điển American Heritage giải nghĩa logistics trên hai phương diện: kinh doanh và quân sự. Về quân sự, logistics là một lĩnh vực hoạt động của quân đội, liên quan đến việc thu mua, phân phối, bảo quản, thay thế thiết bị và cả con người (The branch of military operations that deals with the procurement, distribution, maintenance, and replacement of materiel and personnel). Trong kinh doanh, logistics là việc quản lý các chi tiết của một quá trình hoạt động (The management of the details of an operation) Từ điển Webster có định nghĩa khác, theo đó logistics là quá trình thu mua, bảo quản, phân phối, thay thế con người và thiết bị (The procurement, maintenance, distribution, and replacement of personnel and materiel) Theo Council of Logistics Management - Hoa Kỳ, logistics là quá trình lập kế hoạch, thực thi và kiểm soát hiệu quả chi phí lưu thông, tồn kho hàng hóa, dịch vụ và dòng thông tin liên quan từ điểm xuất phát ban đầu cho đến điểm tiêu dùng cuối cùng nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng (the process of planning, implementing, and controlling the efficient, effective flow and storage of goods, services, and related information from point of origin to point of consumption for the purpose of conforming to customer requirements). Định nghĩa của Canadian Association of Logistics Management cũng khá tương đồng, chỉ cụ thể hơn nữa hàng hóa đó là nguyên vật liệu thô, hàng trong quá trình sản xuất và hàng hóa hoàn thiện. Tạp chí Logistics World thì định nghĩa cô đọng hơn, đó là khoa học của việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và quản lý các hoạt động cung cấp hàng 9 hóa và dịch vụ (The science of planning, organizing and managing activities that provide goods or services) Theo Logistix Partners Oy, Helsinki: logistics được định nghĩa như là một khung kế hoạch hoạt động cho việc quản lý vật tư, dịch vụ, thông tin và dòng chảy vốn. Nó bao gồm cả hệ thống thông tin ngày càng phức tạp, sự truyền thông và những hệ thống kiểm soát cần phải có trong môi trường kinh doanh ngày nay (Logistics is defined as a business planning framework for the management of material, service, information and capital flows. It includes the increasingly complex information, communication and control systems required in today's business environment). Theo thống kê chỉ số Logistics của World Bank năm 2007 (2007 Logistics Performance Index), logistics quốc tế bao gồm rất nhiều các hoạt động, từ vận chuyển, thu gom hàng lẻ, lưu kho bãi, thủ tục khai báo tại cửa khẩu cho tới các hệ thống phân phối và thanh toán trong quốc gia (International logistics encompasses an array of actions, from transportation, consolidation of cargo, warehousing, and border clearance to in-country distribution and payment systems) [21]. Theo nghiên cứu của N. Viswanadham và Rodshan Gaonkar trong tác phẩm “E-logistics: Trends and Opportunities” (tạm dịch: logistics điện tử: Các cơ hội và xu hướng), logistics được định nghĩa như là một loạt các hoạt động liên quan đến sự dịch chuyển hợp lý và hiệu quả bán thành phẩm và sản phẩm hoàn thiện từ địa chỉ kinh doanh này tới địa chỉ kinh doanh khác, từ nhà sản xuất/nhà phân phối/nhà bán lẻ tới khách hàng cuối cùng. Các hoạt động này bao gồm thuê cước vận chuyển, lưu kho bãi, mua bán vật liệu, đóng gói bảo quản, kiểm soát hàng tồn, thực hiện đơn hàng, hoạt động marketing, dự báo thị trường và dịch vụ khách hàng (Logistics is defined as the broad range of activities concerned with effective and efficient movement of semi- 10 finished or finished goods from one business to another and from manufactures/distributors/retailers to the end consumer. The activities include freight transportation, warehousing, material handling, protective packaging, inventory control, order processing, marketing, forecasting and customer services) [19]. Ở Việt Nam hiện nay, trên cả phương diện khoa học cũng như luật pháp đều chưa có một cách hiểu thống nhất về logistics. Trước đây, người ta quan niệm logistics là tổng hợp các hoạt động trong ngành giao nhận vận tải và kho bãi. Tuy nhiên, cách hiểu này đã thể hiện sự hạn chế, bởi lẽ trên thế giới ngành dịch vụ logistics đã có sự phát triển vượt bậc, vượt ra ngoài khuôn khổ của hoạt động vận tải và kho bãi, được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế và đóng góp vào thành tựu phát triển chung của toàn nhân loại. Hiện trong tiếng Việt chưa có một thuật ngữ có thể diễn đạt hết nội hàm của khái niệm logistics. Cũng như thuật ngữ Marketing, có lẽ chúng ta không nhất thiết phải tìm bằng được thuật ngữ Việt tương đương, mà chỉ cần thống nhất cách hiểu về logistics. Nghiên cứu hoạt động logistics trong hiện thực, cũng như tổng hợp các khái niệm mà các nhà khoa học đã đưa ra, có thể định nghĩa khái quát logistics như sau: “Logistics là tập hợp các hoạt động có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nhằm vận chuyển và lưu trữ các nguồn lực cũng như hàng hóa từ điểm cung ứng đầu tiên cho tới người tiêu dùng cuối cùng với mục tiêu tối ưu hóa về vị trí, thời gian và chi phí ” [11]. Dịch vụ logistics, đó là việc cung ứng các hoạt động trên bởi các nhà cung cấp để đổi lại việc được hưởng thù lao 1.1.2 Đặc điểm và phân loại logistics 1.1.2.1 Đặc điểm của logistics Thứ nhất, logistics là một quá trình, bao gồm một chuỗi các hoạt động liên tục, và giữa các hoạt động này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Chính 11 vì điều này mà cách viết chính xác phải là logistics chứ không thể là logistic. Logistics bao gồm rất nhiều hoạt động: vận chuyển bốc xếp, thu gom hàng lẻ, đóng gói dán nhãn, lưu kho bãi, khai thuê hải quan, phân phối... nhằm cung cấp các nguồn lực cho hoạt động sản xuất và đưa thành phẩm tới người tiêu dùng. Ví dụ: để có được hàng hóa thành phẩm bán cho người tiêu dùng, công ty sản xuất ra nó phải có hoạt động thu mua nguyên liệu, nhiên liệu, bao bì, thuê nhân công lao động... trước khi sản xuất. Logistics chính là các hoạt động nhằm dịch chuyển, cung cấp các nguồn lực đầu vào từ rất nhiều địa điểm đến nhà sản xuất, quản lý điều tiết vật tư hàng hóa trong quá trình sản xuất, sau đó đưa thành phẩm đến tay người tiêu dùng theo yêu cầu của thị trường, có thể là tại mọi nơi trên thế giới, và quản lý cả luồng thông tin ở chiều ngược lại. Giữa các hoạt động logistics đều có mối liên hệ chặt chẽ, bởi vì chúng cùng nằm trong một quá trình, nếu không có sự thống nhất sẽ dẫn đến xung đột gây khó khăn cho sản xuất và tiêu thụ, tăng chi phí và làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường. Thứ hai, logistics nhằm đạt mục tiêu tối ưu hóa về mặt vị trí, thời gian và chi phí. Bài toán hiệu quả luôn là thách thức đối với mỗi doanh nghiệp, trên cơ sở các đơn hàng của khách hàng, hoặc là sự dự báo nhu cầu thị trường, nhà sản xuất phải có sự lựa chọn các nhà cung cấp, số lượng chất lượng các nguồn tài nguyên/ yếu tố đầu vào, các kênh phân phối, và kiểm soát các thông tin phản hồi trong từng giai đoạn. Về vị trí tối ưu, cần phải giải quyết một số câu hỏi về vị trí đặt cơ sở sản xuất, kho hàng và trung tâm phân phối, nguồn cung nguyên liệu, năng lượng, lao động, máy móc thiết bị... Về thời gian, điều quan tâm sau khi giải quyết được câu hỏi về vị trí, đó là làm thế nào để dịch chuyển và dự trữ các nguồn tài nguyên đầu vào cũng như thành phẩm đầu ra trong quá trình sản xuất từ điểm đầu đến điểm cuối của dây chuyền cung ứng: thời điểm cần vận chuyển, phương thức vận 12 chuyển, tuyến vận chuyển, người vận chuyển, số lượng tồn kho, đóng gói dán nhãn, phân loại... Khi giải quyết tối ưu hai vấn đề trên thì vấn đề chi phí tối ưu cũng đã được thực hiện. Hiện nay trong khoa học quản lý đang tồn tại một khái niệm có thể nói là khá tương đồng với ý nghĩa của khái niệm logistics, đó là quản trị chuỗi cung ứng (SCM – supply chain management). Chuỗi cung ứng được hiểu như là một mạng lưới thực hiện việc thu mua các yếu tố đầu vào của sản xuất, chuyển hóa thành các sản phẩm trung gian, từ sản phẩm trung gian thành các thành phẩm hoàn chỉnh và phân phối chúng tới nơi có nhu cầu và cuối cùng là đến tay khách hàng tiêu dùng. Như vậy, giữa logistics và chuỗi cung ứng có sự đồng nhất về hình thức thể hiện, tuy nhiên logistics nhấn mạnh đến tính tối ưu còn chuỗi cung ứng chủ yếu nói về quá trình. Nhưng nếu xét trên phạm vi từng thành tố đơn lẻ của xã hội thương mại, ví dụ một doanh nghiệp, thì khái niệm chuỗi cung ứng mang ý nghĩa rộng hơn logistics doanh nghiệp, nó bao hàm cả hoạt động logistics bên ngoài của doanh nghiệp đó, như hoạt động logistics tại các nhà cung cấp và các khách hàng, các đơn vị liên kết... 1.1.2.2 Phân loại logistics Trên thực tế, do tính đa dạng của hoạt động logistics cũng như lĩnh vực áp dụng nó mà có rất nhiều cách phân loại. Nếu dựa vào đối tượng hàng hóa, có thể phân loại logistics thành logistics hàng máy móc, logistics hàng dệt may, logistics hàng thực phẩm, logistics hàng hóa chất... Căn cứ vào trình tự sản xuất, logistics được phân loại thành logistics đầu vào (inbound logistics) bao gồm các hoạt động nhằm cung ứng các tài nguyên đầu vào cho sản xuất; logistics đầu ra (outbound logistics) là các hoạt động đảm bảo cung cấp thành phẩm từ doanh nghiệp đến các trung tâm phân phối và đến người tiêu dùng; logistics ngược (reverse logistics) là quá trình thu nhận thông tin phản hồi từ khách hàng và thu hồi phế liệu trong quá trình sản xuất, thu hồi 13 hàng hóa hư hỏng hay bị lỗi để tái chế, xử lý... Quan trọng nhất trong cách thức phân loại, có lẽ là sự phân loại theo hình thức logistics. Căn cứ vào hình thức, logistics bao gồm: - Logistics bên thứ nhất (1PL- First Party Logistics): mọi hoạt động logistics do chính chủ hàng, người sản xuất hàng hóa thực hiện trên cơ sở nhu cầu của bản thân mình. - Logistics bên thứ hai (2PL- Second Party Logistics): chủ hàng, người sản xuất không tự thực hiện nữa mà đã thuê các đơn vị cung cấp dịch vụ logistics, tuy nhiên dịch vụ được cung cấp chỉ là một hoặc một số trong số các hoạt động của logistics, như: vận tải, hoặc kho bãi, hoặc khai thuê hải quan... - Logistics bên thứ ba (3PL- Third Party Logistics): là việc thuê ngoài các hoạt động logistics của một công ty . Nhà cung cấp dịch vụ 3PL, theo Supply Chain Vision, là một công ty cung cấp các dịch vụ logistics mang tính chiến thuật đa chiều cho khách hàng. Những công ty này sẽ hỗ trợ thúc đẩy dòng chảy thiết bị và nguyên liệu từ nhà cung ứng đến nhà sản xuất, và sản phẩm cuối cùng từ nhà sản xuất đến nhà phân phối và nhà bán lẻ. Các dịch vụ mang tính chiến thuật này thường cơ bản gồm vận tải, dịch vụ kho bãi, gom hàng nhanh (cross-docking), quản lí tồn kho, đóng gói, khai hải quan... Còn theo định nghĩa của Protrans (dự án nghiên cứu về logistics và vận tải đa phương thức được tài trợ bởi Ủy ban châu Âu năm 2000) thì dịch vụ logistics thứ ba là những hoạt động được thực hiện bởi một công ty bên ngoài thay mặt một chủ hàng và ít nhất cũng đảm bảo thực hiện được việc quản lý nhiều hoạt động logistics. Các hoạt động này được cung cấp theo hướng tích hợp chứ không phải là một loại riêng rẽ. Sự hợp tác giữa chủ hàng và công ty bên ngoài là một mối quan hệ liên tục có chủ định (Thirdparty logistics (3PL) are activities carried out by an external company on 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan