ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
–––––––––––––––––
DƯƠNG THỊ HUYỀN TRANG
ĐỀN, CHÙA, ĐÌNH Ở HUYỆN ĐÔNG TRIỀU
TỈNH QUẢNG NINH THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13
LUẬN VĂN THẠC SĨ NHÂN VĂN
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀM THỊ UYÊN
THÁI NGUYÊN 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Tác giả
Dương Thị Huyền Trang
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban giám
hiệu, khoa sau đại học, Ban chủ nhiệm, quý Thầy, Cô giáo khoa lịch sử trường Đại
học Sư phạm Thái Nguyên và quý Thầy, Cô giáo trực tiếp giảng dạy.
Tác giả xin chân thành cảm ơn: Huyện Uỷ huyện Đông Triều, Phòng văn
hoá huyện Đông Triều, Ban Tuyên giáo huyện Đông Triều, Chi cục thống kê huyện
Đông Triều, Thư viện tỉnh Quảng Ninh, UBND các xã trong huyện đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi trong suốt thời gian thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Cô hướng dẫn:
PGS.TS. Đàm Thị Uyên, Cô đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt thời
gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tác giả cảm ơn tập thể lớp cao học K22 chuyên ngành Lịch sử trường ĐHSP
Thái Nguyên đã đóng góp ý kiến trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên tác giả để hoàn thành luận văn này.
Tác giả
Dương Thị Huyền Trang
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan .................................................................................................................. i
Lời cảm ơn .....................................................................................................................ii
Danh mục các từ viết tắt .............................................................................................. iii
Danh mục các bảng ....................................................................................................... iv
Danh mục các bảng ........................................................................................................ v
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................1
1.Lí do cho ̣n đề tài .........................................................................................................1
2.Lich
̣ sử nghiên cứu vấ n đề ..........................................................................................2
3.Đố i tươ ̣ng, nhiệm vụ và pha ̣m vi nghiên cứu ............................................................. 3
4.Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................................ 4
5.Đóng góp của luâ ̣n văn ............................................................................................... 4
6.Cấu trúc của luận văn..................................................................................................5
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐÔNG TRIỀU - TỈNH QUẢNG NINH........8
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ...........................................................................8
1.1.1. Vị trí địa lý ...........................................................................................................8
1.1.2. Điều kiện tự nhiên................................................................................................ 8
1.2. Lịch sử hành chính huyện Đông Triều .................................................................10
1.3. Thành phần dân cư ................................................................................................ 12
1.4. Tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ........................................................................15
1.4.1. Kinh tế................................................................................................................15
1.4.2. Văn hóa - xã hội .................................................................................................16
1.5. Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân Đông Triều...........18
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................................24
Chương 2: ĐỀN, CHÙA, ĐÌNH CỦA HUYỆN ĐÔNG TRIỀU THẾ KỶ XX ...25
2.1. Hệ thống đến, chùa, đình của huyện Đông Triều .................................................25
2.1.1. Số lượng và sự phân bố đền, chùa, đình ........................................................... 25
2.1.2. Niên đại của đền, chùa, đình ở Đông Triều .......................................................33
2.1.3. Các vị Thần, Phật được thờ cúng trong đền, chùa, đình huyện Đông Triều ...........38
iii
2.2. Cảnh quan địa lý và kiến trúc của đền, chùa, đình ..............................................44
2.2.1. Cảnh quan địa lý ................................................................................................ 44
2.2.2. Kiến trúc ............................................................................................................46
2.3. Tế Tự .....................................................................................................................56
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................................58
Chương 3: GIÁ TRỊ LỊCH SỬ, VĂN HOÁ, XÃ HỘI CỦA ĐỀN, CHÙA,
ĐÌNH Ở HUYỆN ĐỒNG TRIỀU ............................................................................60
3.1. Đền, chùa, đình là nơi lưu giữ dấu tích lịch sử ...................................................60
3.2. Giá trị văn hóa tâm linh ........................................................................................67
3.3. Giá trị du lịch gắn kết cộng đồng xã hội ............................................................... 71
3.4 Một số giải pháp về công tác bảo tồn và phát huy các giá trị của di tích đền,
chùa, đình ở huyện Đông Triều ..................................................................................77
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................................82
KẾT LUẬN .................................................................................................................84
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................87
PHỤ LỤC
iv
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
XD
: Xây dựng
NXB
: Nhà xuất bản
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1: Thành phần dân cư của huyện Đông Triều năm 2008 ................................ 13
Bảng 2.1: Thống kê các ngôi đền ở Đông Triều.......................................................... 28
Bảng 2.2: Hệ thống chùa ở Đông Triều .......................................................................30
Bảng 2.3: Số lượng và sự phân bố đình làng ở Đông Triều ........................................33
Bảng 2.4: Hệ thống đền, và các vị thần được thờ cúng ở huyện Đông Triều .............43
Bảng 2.5: Hệ thống đình làng và các vị thần hiện được thờ cúng trong đình .............44
v
MỞ ĐẦU
1. Lí do cho ̣n đề tài
Quảng Ninh có truyền thống văn hóa lâu đời, là cái nôi của nền văn hóa cổ Hạ
Long, nơi có thương cảng Vân Đồn, một thương cảng cổ nổi tiếng sầm uất của nước
ta trong nhiều thế kỷ. Quảng Ninh còn là vùng đất đã chứng kiến biết bao chiến công
hiển hách chống giặc ngoại xâm năm 938 và 1288. Trong kháng chiến chống thực
dân Pháp, quân và dân vùng mỏ đứng lên chống lại chế độ thực dân. Cũng từ nơi đây,
giai cấp công nhân Việt Nam đã được hình thành và phát triển, góp phần vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Là một tỉnh tiếp giáp với vùng đồng bằng Bắc Bộ, nên Quảng Ninh cũng chịu
ảnh hưởng của vùng văn hóa Bắc Bộ. Rất nhiều các công trình kiến trúc, đền đài,
miếu mạo, chùa chiền được xây dựng trên mảnh đất này, để phục vụ nhu cầu tôn giáo
tín ngưỡng của nhân dân, bởi với người Việt Nam nói chung và người Quảng Ninh
nói riêng, đền, chùa, đình làng không đơn thuần chỉ là nơi thờ thần, thờ Phật mà còn
là nơi thờ những vị thánh trong truyền thuyết dân gian, những Anh hùng trong lịch sử
có công với đất nước, với nhân dân như: Thánh Gióng, Đức Thánh Trần Hưng Đạo,
Nguyễn Trãi… Vì là nơi chứa đựng những giá trị văn hóa tinh thần nên đền, chùa,
điǹ h làng thường là những nơi người dân Việt coi là nơi cầu an, nơi che chở về đời
sống tinh thần. Không chỉ là không gian tôn giáo phục vụ các hoạt động thờ cúng,
tâm linh, thể hiện lòng hiếu mộ của con người mà đề n, chùa, điǹ h làng còn là nơi sinh
hoạt cộng đồng, in dấu những hương ước, lệ làng, những thiết chế lâu đời. Vì thế, đã
từ lâu chủ đề này đã được các nhà khoa học xã hội đặc biệt quan tâm nghiên cứu, đã
khá quen thuộc, và có nhiều công trình nghiên cứu thành công. Tuy nhiên, tìm hiểu
về một địa bàn cụ thể như huyện Đông Triề u, tỉnh Quảng Ninh từ trước đến nay chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống.
Mặt khác, với những tình cảm yêu mến đặc biê ̣t đố i với quê hương Đông Triề u
nên tôi quyế t định cho ̣n đề tài: Đền, Chùa, Đình ở huyện Đông Triề u, tỉnh Quảng
Ninh thế kỷ XX’’ làm đề tài luâ ̣n văn thạc sĩ của mình.
1
2. Lich
̣ sử nghiên cứu vấ n đề
Từ nhiều năm nay các công trình nghiên cứu về văn hóa dân tộc liên tục được
xuất bản với cả hai mảng đề tài là văn hóa vật thể và phi vật thể, đặc biệt là các di tích
lịch sử, trong đó các ngôi chùa nổi tiếng được nhiều nhà khoa học quan tâm. Vì thế,
đã từ lâu: Đền, chùa, đình làng đã trở thành đối tượng nghiên cứu dưới nhiều góc độ
văn hóa dân gian, kiến trúc, điêu khắc, tôn giáo, khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử
học, ... Các giá trị văn hóa nghệ thuật trong các ngôi chùa ở Việt Nam đã được đề cập
tới trong các công trình nghiên cứu như:
Cuốn “Lịch sử kiến trúc Việt Nam” nhà xuất bản Văn hóa thông tin Hà Nội,
xuất bản năm 1962 của tác giả Ngô Huỳnh, tác giả đã đề cập tới đình làng dưới góc
độ là một công trình kiến trúc cổ.
Trong cuốn “Chùa Việt Nam”, nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội, xuất bản
năm 1993” tác giả Hà Văn Tấn nghiên cứu toàn cảnh các ngôi chùa Việt Nam trong
lịch sử và trong đời sống văn hóa dân tộc cũng như những đặc điểm của Phật giáo và
văn hóa tâm linh của dân tộc được thể hiện ở các ngôi chùa Việt Nam. Tác giả đi vào
giới thiệu khái quát về 118 ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước qua các thời kỳ.
Chùa Quỳnh Lâm của huyện Đông Triều là một trong số những ngôi chùa mà tác giả
đã đề cập đến.
Tác giả Trần Lâm Biền với những nghiên cứu tính chất văn hóa, nghệ thuật,
kiểu kiến trúc và phong cách tượng Phật giáo tại các ngôi chùa của người Việt từ thời
Lý thế kỷ XI, XII đến thế kỷ XIX được mô tả trong cuốn “Chùa Việt”, Nhà xuất bản
Văn hóa thông tin Hà Nội, xuất bản năm 1996.
Với việc giới thiệu lịch sử, kiến trúc các thành lũy, đền tháp, đình chùa ở Việt
Nam từ xưa đến nay tác giả Trần Mạnh Thường đã mô tả trong cuốn “Đình chùa,
lăng tẩm nổi tiếng ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin Hà Nội, xuất bản
năm 1999. Ngoài ra cuốn sách còn giới thiệu các công trình kiến trúc cổ được xếp
hạng cấp quốc gia trên phạm vi cả nước.
Tiếp đó phải kể đến cuốn “Đình làng miền Bắc”, Nhà xuất bản Mỹ thuật Hà Nôi
năm 2001 của tác giả Lê Thanh Đức, cuốn sách tập trung giới thiệu một cách hệ
thống về đình làng Bắc bộ
2
“Một số vấn đề làng xã Việt Nam”, Nhà xuất bản Quốc gia 2009 của tác giả
Nguyễn Quang Ngọc khái quát lại một cách phong phú về làng xã Việt Nam cổ
truyền với nếp sống linh hoạt cả về vật chất lẫn tinh thần từ đó giúp ta có cái nhìn
toàn cảnh về những nét biểu trưng của văn hóa làng xã Việt Nam xưa và nay.
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khoa học về địa bàn huyện Đông
Triề u nói riêng và về Quảng Ninh nói chung.
Cuốn “Lịch sử đảng bộ huyện Đông Triều” tập 1 xuất bản năm 2011, nhà xuất
bản Chính trị quốc gia khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội của huyện Đông Triều,
truyền thống đấu tranh của nhân dân Đông Triều qua từng thời kỳ lịch sử.
Trong cuốn “Địa chí Quảng Ninh” (tập 3), do Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh
xuất bản năm 2003 đã khái quát về các ngôi cũng đền, chùa, đình làng cũng như hệ
thống hiện vật còn lưu giữ được. Trong cuốn sách này khái quát về một số ngôi đình làng
ở Đông Triều như đình Xuân Quang, đình Trạo Hà, đền- chùa Hang Son…
Ban quản lý các di tích trọng điểm Quảng Ninh phối hợp với Nhà xuất bản khoa
học xã hội đã cho xuất bản (2010) cuốn sách Di tích Lịch sử - Văn hóa nhà Trần tại
Đông Triều. Cuốn sách đã giới thiệu khái quát một số các di tích đền, chùa, đình làng
của huyện Đông Triều, bên cạnh đó một phần nội dung sách còn đề cập đến việc gìn
giữ, bảo tồn các di tích cũng như quảng bá nét đẹp di sản văn hóa nhà Trần ở Quảng
Ninh nói chung và Đông Triều nói riêng. Các công trình nghiên cứu về đền, chùa, đình
trên địa bàn huyện Đông Triều chủ yếu được khai thác dưới góc độ văn hóa du lịch và
đơn lẻ ở một số đền, chùa lớn. Tuy nhiên, tìm hiểu về cả một hệ thống đền, chùa, đình
thì chưa có một công trình nào nghiên cứu. Song kết quả nghiên cứu của những nhà khoa
học đi trước là những ý kiến gợi mở để tác giả hoàn thành đề tài của mình.
3. Đố i tươ ̣ng, nhiệm vụ và pha ̣m vi nghiên cứu
3.1. Đố i tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luâ ̣n văn là hê ̣ thố ng đề n, chùa, đình ở huyện Đông
Triề u, tỉnh Quảng Ninh ở các khía cạnh như niên đại, kiến trúc điêu khắc, cảnh quan
địa lý cũng như những vị thần được nhân dân thờ phụng… Từ đó, làm nổi bật lên
những giá trị tâm linh cũng như cộng đồng của đền, chùa, đình làng.
3
3.2. Nhiệm vụ
Nhiê ̣m vu ̣ của đề tài: Khái quát điề u kiê ̣n tự nhiên, tình hình kinh tế - xã hô ̣i văn
hóa của huyê ̣n Đông Triề u. Tìm hiểu đề n, chùa, điǹ h ở Đông Triều và những giá trị
của nó đố i với đời số ng tinh thầ n của người dân.
Tìm hiểu mô ̣t cách khái quát hê ̣ thố ng đề n, chùa, điǹ h ở nhiều khía ca ̣nh khác
nhau như văn hóa, tín ngưỡng… Từ đó, làm nổ i bâ ̣t những giá tri ̣ của hê ̣ thố ng đề n,
chùa, đình trong đời sống người dân Đông Triề u hiê ̣n nay.
3.3. Pha ̣m vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Địa bàn huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh hiện nay. Mặc
dù, địa bàn huyện Đông Triều trong thế kỷ XX có những thay đổi nhưng để tiện cho việc
trình bày nên tác giả giới hạn phạm vi không gian hiện tại của huyện Đông Triều.
Phạm vi thời gian: Thế kỷ XX
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi tiến hành sưu tầm, tập hợp các nguồn tài liệu liên
quan tại các Sở, Ban ngành của tỉnh Quảng Ninh; Thư viê ̣n tỉnh; Phòng văn hóa của
UBND huyện Đông Triề u; Ban quản lý các di tić h tro ̣ng điể m của huyê ̣n Đông Triề u;
UBND các xa;̃ đây được coi là nguồn tài liệu gốc.
Ngoài ra, để làm phong phú nguồn tài liệu và có ý nghĩa minh họa cho nội dung
đề tài tác giả còn thực hiện điền dã, phỏng vấn….
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để nghiên cứu và biên soạn đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp lich
̣ sử và
phương pháp logic trong quá trình nghiên cứu, hai phương pháp này được vận dụng
để tái hiện quá khứ thông qua tư liệu, đồng thời nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện,
khách quan.
Đối tượng nghiên cứu là hệ thống đền, chùa, đình trên địa bàn huyện Đông
Triều nên chúng tôi đã sử dụng phương pháp thống kê , hệ thố ng hóa bảng biểu, tổng
hợp. Đồng thời kết hợp với các phương pháp liên ngành như : điề u tra xã hô ̣i ho ̣c, dân
tô ̣c ho ̣c, tổng hợp và điề n da.̃ ..
5. Đóng góp của luâ ̣n văn
Luận văn góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống về đền, chùa, đình của
huyện Đông Triều, kết quả của nghiên cứu sẽ cung cấp một nguồn tư liệu phục vụ
4
công tác nghiên cứu khoa học về di tích lịch sử văn hóa của huyện Đông Triều và
tỉnh Quảng Ninh, góp phần làm phong phú thêm các giá trị văn hóa nghệ thuật của di
tích kiến trúc cổ của Việt Nam.
Luận văn góp phần làm phong phú thêm sự hiểu biết về đời sống văn hóa tinh
thần, phát huy những giá tri ̣truyề n thố ng của điạ phương và lòng tự hào dân tô ̣c.
Luận văn còn là tài liệu có thể tham khảo cho việc nghiên cứu về lịch sử địa phương.
6. Cấu trúc của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục. Phần nội
dung chính của luận văn chia làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về huyê ̣n Đông Triề u - Quảng Ninh
Chương 2: Đền, Chùa, Đình ở huyê ̣n Đông Triề u
Chương 3: Giá tri ̣ lich
̣ sử, văn hóa, xã hô ̣i của đề n, chùa, đình ở huyê ̣n Đông
Triề u tỉnh Quảng Ninh.
5
BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH TỈNH QUẢNG NINH
6
7
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐÔNG TRIỀU - TỈNH QUẢNG NINH
1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Đông Triều nằm ở phía tây tỉnh Quảng Ninh. Thị trấn huyện lỵ cách thành phố
Hạ Long 78km, cách thành phố Uông Bí 25km, cách Hà Nội 90km. Phía bắc giáp
huyện Sơn Động và Lục Nam tỉnh Bắc Giang bằng vòng cung núi Đông Triều, phía
tây giáp huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương, ranh giới là sông Vàng Chua, phía nam giáp
huyên Kinh Môn cũng thuộc Hải Dương bằng sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc, phía
đông nam giáp huyện Thuỷ Nguyên thuộc thành phố Hải Phòng, ranh giới cũng là
sông Đá Bạc và huyện Kinh Môn tỉnh Hải Dương, phía đông giáp thành phố Uông
Bí, ranh giới là sông Tiên Yên.
Huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh được giới hạn bởi hệ tọa độ địa lý sau:
21o01’ - 21o13’ vĩ độ bắc
106o26’ - 106o43’ kinh độ đông
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Đông Triều là một trong số 14 huyện của tỉnh Quảng Ninh, là huyện nằm ở phía
cực tây của tỉnh trên hướng Đông Bắc của toàn vùng Bắc Bộ.
Lịch sử địa chất Đông Triều gắn liền với lịch sử phát sinh, phát triển lâu đời và
phức tạp của cả khu vực địa lý rộng lớn của vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Đông Triều về
phía bắc được bao bọc bởi dãy núi thuộc cánh cung Đông Triều có độ cao từ 600-800
m, ngăn cách với huyện Lục Nam, Sơn Động thuộc tỉnh Bắc Giang. Phía nam và tây
nam giáp huyện Kinh Môn (tỉnh Hải Dương); Phía đông giáp thành phố Uông Bí.
Nhìn chung địa hình Đông Triều được chia thành 3 vùng chính:
Vùng đồi núi phía bắc gồm các xã: An Sinh, Bình Khê, Tràng Lương, độ cao
trung bình từ 300 - 400 m, đỉnh cao nhất là Am Váp 1.031 m, đoạn giữa đứt gãy tạo
thành thung lũng lớn Bình Khê - Tràng Lương. Đất đai vùng này phù hợp với phát
triển rừng, trồng cây ăn quả, cây dược liệu và chăn nuôi đại gia súc.
Vùng giữa: Đây là vùng chuyển tiếp giữa vùng đồi núi và vùng đồng bằng phía
nam, bao gồm các khu vực phía bắc Quốc lộ 18A từ xã Bình Dương đến Hồng Thái
8
Đông, địa hình đồi thấp xen kẽ đồng bằng, có nguồn gốc là đất phù sa cổ, phù hợp
với phát triển cây lâu năm, cây công nghiệp và trồng lúa.
Vùng đồng bằng phía nam: Bao gồm toàn bộ vùng đồng bằng phía nam Quốc lộ
18A từ xã Bình Dương đến xã Hồng Thái Đông, địa hình khá bằng phẳng. Đất đai
vùng này tương đối phì nhiêu, chủ yếu do phù sa sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc bồi
đắp tạo thành, phù hợp với trồng lúa và nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt.
Đông Triều có nhiều sông ngòi chảy qua: “sông Kinh Thày chảy từ Lục Đầu
Giang qua các huyện Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn chảy vào phía tây nam huyện
rồi chia thông hai nhánh, một nhánh đổ ra cửa cấm Hải Phòng, một nhánh đổ ra
sông Đá Bạc nối với sông Bạch Đằng ra Bến Rừng rồi đổ ra biển tạo thành biên giới
tự nhiên ở phía nam và tây nam với các huyện Kinh Môn và Thuỷ Nguyên. Sông Đạm
Thuỷ chảy từ vùng núi xã An Sinh qua các xã Tân Việt, Việt Dân, Thuỷ An rồi đổ vào
sông Kinh Thày. Sông Cầm chảy từ vùng núi Yên Tử qua các xã Tràng Lương, Bình
Khê, Tràng An, Xuân Sơn, Đức Chính, Hưng Đạo rồi đổ vào sông Đá Bạc”[5, tr.14].
Với sông ngòi như vậy nên rất thuận tiện cho giao thông vận tải đường thuỷ. Không
chỉ thuận lợi cho phát triển kinh tế mà đặc biệt là có vai trò quan trọng về quân sự. Về
giao thông đường bộ, vào khoảng năm 1900 con đường chiến lược lớn nhất nối liền
Hà Nội với Hòn Gai, Cẩm Phả chạy qua Đông Triều đã được nâng cấp, nhiều cầu,
cống qua sông được xây dựng, mặt đường được rải nhựa, đường này sau đó được
mang tên đường thuộc địa 18, nay là Quốc lộ 18. “Người Pháp còn cho làm đường
186 nối đường 5 đoạn từ Lai Khê qua Phà Mây, Phố Triều đến phố huyện Đông
Triều kéo dài đến tận Bến Châu, vừa phục vụ cho việc đi lại từ Tỉnh uỷ Hải Dương
đến huyện lỵ Đông Triều vừa phục vụ khai thác mỏ than Hồ Thiên, khai thác lâm sản
từ rừng núi phía bắc, kinh phí làm những con đường này đều do sự bảo dưỡng của
quỹ ngân sách toàn Đông Dương” [5, tr.15]. Như vậy, ngay từ đầu thế kỷ XX hệ
thống đường xá ở Đông Triều đã được cải thiện rõ rệt, hàng ngày đã có ô tô chạy đều
đặn từ Hải Dương, Hải Phòng đến phố Đông Triều, Mạo Khê. Giao thông thuỷ cũng
thuận tiện, định kỳ còn có nhiều chuyến ca nô, đò dọc chạy qua các bến Mạo Khê, Đò
Triều từ Hòn Gai, Quảng Yên, Hải Phòng đi Hà Nội và các tỉnh miền Bắc. Hiện nay,
quốc lộ 18 đã được mở rộng và nâng cấp, nhiều con đường liên xã, liên thôn, nhiều
9
bến cảng, bến xe với chiều dài hàng trăm km đã được làm mới và trải nhựa. Con
đường 188 nối ga Phú Thái qua huyện lỵ Kinh Môn đến Mạo Khê cũng mới được
khánh thành. Giao thông cả đường sông, đường bộ, đường sắt đều rất thuận lợi góp
phần thúc đẩy kinh tế - xã hội ở Đông Triều phát triển.
Địa hình Đông Triều như đã ở trên là rất đa dạng và rất quan trọng về mặt quân
sự, vì nơi đây là vùng rừng núi với diện tích 30.000 ha, có nhiều dãy núi hiểm yếu tạo
thành chướng ngại thiên nhiên rất thuận lợi cho việc tổ chức phòng thủ tác chiến, cơ
động lực lượng. Ở phía đông nam của huyện có nhiều núi đá vôi với những hang
động kỳ vĩ dài hàng chục km, án ngữ phía đông nam của huyện như một bức từng
thành. Trong tiến trình lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nơi đây đã từng là căn cứ
địa của các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược phương bắc và gần đây là căn cứ
địa chống thực dân Pháp xâm lược, không chỉ là của huyện mà còn của cả tỉnh và
thành phố Hải Phòng. “Rừng Đông Triều với diện tích trên 26.000 ha trong đó, rừng
tự nhiên trên 12.500 ha, rừng trồng trên 6000 ha, rừng đặc sản trên 2000 ha chủ yếu
là vải thiều, nhãn, na, hồng. Rừng tự nhiên có nhiều gỗ và lâm sản quý như lim, sến,
táu, gụ, rẻ, trám, tre nứa, củ nâu...” [5, tr.16].
Khí hậu ở Đông Triều trong lành “nhiệt độ trung bình trong năm là 24,40C.
Tháng giêng rét nhất có lúc xuống đến 40C. Tháng sáu, tháng bảy là những tháng
nóng nhất. Có lúc lên tới 37- 380C. Độ ẩm trung bình hàng năm là 810, lượng mưa
trung bình 1.089 mm, thường có sương mù vào các tháng cuối đông” [5, tr.16].
Đông Triều có nhiều tiềm năng về khoáng sản, đặc biệt là than đá, đất sét, cao
lanh, đá vôi. Than có ở nhiều nơi tập trung ở vùng Mạo Khê - Tràng Bạch, than ở đây
là loại than gầy (Anthracite) giàu nhiệt lượng, có trữ lượng lớn có thể tiếp tục khai
thác trong nhiều thập kỷ tiếp theo. Đá vôi và đất sét có ở nhiều nơi với trữ lượng lớn.
Cao lanh có ở Đức Sơn tuy trữ lượng không nhiều nhưng chất lượng cao, đáp ứng đủ
yêu cầu phát triển nghề gồm sử ở địa phương.
1.2. Lịch sử hành chính huyện Đông Triều
Đông Triều đã nhiều lần được điều chỉnh địa giới hành chính.
“Thời dựng nước, theo một số nhà nghiên cứu thì dưới thời Văn Lang- Âu Lạc
cách đây khoảng 2.700 năm miền Đông Triều có thể nằm trong vùng đất các bộ lạc
10
Long Bình, An Định, Câu Lâu. Có ý kiến cho rằng, Đông Triều nằm trong vùng địa
giới hai huyện An Định và Câu Lâu. Dưới thời bị nhà Hán đô hộ, Đông Triều nằm
trong vùng Lục Chấn hoặc huyện Khúc Dương. Dưới thời Tùy Đường, Đông Triều
nằm trong huyện Chu Diên hoặc châu Thượng Hồng, Hạ Hồng hoặc châu Tô Mậu.
Tất cả các tài liệu nghiên cứu trên không cho biết rõ Đông Triều lúc đó đã trở thành
địa danh An Sinh hay chưa, nhưng theo sách Đông Triều phong thổ ký thì Đông
Triều vốn là đất của phủ Nam Sách, thời cổ thuộc Tượng Quận và có tên là An Sinh.
Còn địa danh Đông Triều xuất hiện vào nửa thế kỷ XIV cách ngày nay trên 700 năm
do vị Vua thứ 7 triều Trần là Trần Dụ Tông đặt tên” [5, tr.18].
Đông Triều vốn có tên là Yên Sinh (An Sinh), đến thời Trần Dụ Tông (ở ngôi
1341- 1369) mới đổi thành Đông Triều, thuộc châu Đông Triều, lộ Hải Đông. Đến
thời Lê, Nguyễn, huyện Đông Triều thuộc trấn Hải Dương nay là huyện Đông Triều,
tỉnh Quảng Ninh.
Đông Triều được chính sử ghi là quê gốc của nhà Trần, sau chuyển về Nam
Định rồi phát tích đế vương ở đó. Sách Đại Nam nhất thống chí tập 3 viết “Bia thần
đạo ở Yên Sinh nói rằng tổ tiên nhà Trần vốn người Yên Sinh, huyện Đông Triều, sau
rời đến hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường cho nên các Vua Trần đều táng ở Yên
Sinh, mà khi nhường ngôi xuất gia cũng lấy Yên Sinh làm nơi tu ẩn” [23, tr.399].
Thời thuộc Minh, đầu thế kỷ XV, Sách Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư của Cố
Viêm Vũ chép: Vào niên hiệu Vĩnh Lạc thứ năm ( 1407) định các châu, huyện thuộc
quận Giao Chỉ lấy ba châu: Đông Triều, Tĩnh An, Hạ Hồng thuộc vào phủ Tân An.
Trong đó châu Đông Triều lĩnh bốn huyện là Đông Triều, Cổ Phí, An Lão, Thủy
Đường. Địa giới châu và huyện Đông Triều thời nhà Minh thống trị nước ta lớn hay
nhỏ hiện giờ chưa xác định được.
Năm 1428, thời Lê Sơ, đặc biệt thời Lê Thánh Tông trị vì (1460-1497) bản đồ
hành chính nước Đại Việt đã được phân chia lại. Theo Phương Đinh dư địa chí của
Nguyễn Văn Siêu, Đại Nam nhất thống chí, Đông Triều huyện chí, Đông Triều phong
thổ ký… thì vào niên hiệu Lê Thái Tông ( 1434- 1442) Đông Triều được đổi thành lộ
thuộc Thừa tuyên Nam Sách. Đến thời Lê Thánh Tông, lộ Đông Triều lại đổi thành
huyện Đông Triều thuộc phủ Kinh Môn của Thừa tuyên Hải Dương, sau là xứ Hải
11
Dương. “Vào thời Lê, huyện Đông Triều có 74 xã, 5 thôn, 20 trang. Sang triều
Nguyễn vào nửa đầu thế kỷ XIX, năm 1852 Vua Tự Đức bỏ tri huyện, khi đó huyện
Đông Triều thuộc phủ Kinh Môn. Huyện Đông Triều lúc ấy gồm 11 tổng. 98 xã”
[5, tr.19]. Suốt trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị nước ta đến cách mạng tháng tám
năm 1945, huyện Đông Triều thuộc tỉnh Hải Dương
Sau Cách mạng tháng Tám - 1945, do yêu cầu chỉ đạo cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp, Đông Triều được thay đổi nhiều lần về mặt hành chính:
Tháng 12/1946 Đông Triều tách khỏi Hải Dương, trực thuộc tỉnh Quảng Yên
(thuộc chiến khu 12 và sau đó là liên khu I).
Tháng 3/1947 huyện Đông Triều lại trực thuộc Liên tỉnh Quảng Hồng và tháng
12/1948 khi tỉnh Quảng Yên và Hòn Gai thành hai tỉnh thì Đông Triều lại trở về với tỉnh
Quảng Yên. Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, cuối năm 1958, Đông Triều
lại được sáp nhập về tỉnh Hải Dương. Do yêu cầu xây dựng khu công nghiệp mỏ, cuối
năm 1960 đầu năm 1961 Đông Triều lại được trở về khu Hồng Quảng.
Năm 1964, khi Đặc khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh được sáp nhập lại để
thành tỉnh Quảng Ninh, Đông Triều chính thức trở thành một đơn vị hành chính cấp
huyện của tỉnh Quảng Ninh.
Huyện Đông Triều hiện nay bao gồm 21 đơn vị hành chính, (19 xã và 2 thị trấn).
19 xã của huyện: Tràng Lương, Bình Khê, An Sinh, Nguyễn Huệ, Thủy An, Bình
Dương, Việt Dân, Tân Việt, Tràng An, Đức Chính, Hồng Phong, Hưng Đạo, Xuân Sơn,
Kim Sơn, Yên Thọ, Yên Đức, Hoàng Quế, Hồng Thái Đông và Hồng Thái Tây.
Hiện nay, Đông Triều có thu hẹp chút ít so với thời trước. Nhưng tên gọi Đông
Triều hầu như không thay đổi và địa bàn Đông Triều đã đi vào lịch sử đất nước với
tầm chiến lược quan trọng cả về chính trị, kinh tế và quân sự và văn hóa.
1.3. Thành phần dân cư
Đông Triều là một trong những huyện có số dân đông của tỉnh Quảng Ninh,
tính đến năm 2008, Đông Triều có 157,027 người. Tỉ lệ tăng dân số hàng năm
khoảng 1.78 %, bình quân 390 người/km², gồm 28% dân số sống trong vùng đô thị
và 72 % dân số sống ở vùng nông thôn. Thị trấn Mạo Khê có số dân đông nhất gồm
36.000 người, ở đây tập trung nhiều công nhân mỏ.
12
“Đông Triều cũng là một huyện có nhiều dân tộc cùng sinh sống. Bên cạnh dân
tộc kinh chiếm 97,5% dân số, còn có tới 7 dân tộc anh em gồm: Sán Dìu, Dao, Tày,
Hoa, Nùng, Sán Chỉ... Trong các dân tộc thiểu số, đông nhất là người Tày, các dân
tộc thiểu số sống tập trung chủ yếu ở các xã miền núi là Bình Khê, Tràng Lương và
An Sinh” [5, tr. 31].
Ngoài dân tộc Kinh là chủ yếu thì dân tộc Tày là dân tộc có số dân lớn thứ hai
của huyện Đông Triều. Cư dân Đông Triều gồm nhiều bộ phận hợp thành, một bộ
phận vốn là dân bản địa có mặt từ lâu đời, một bộ phận là dân phu được tuyển mộ và
làm thuê cho bọn tư bản Pháp trong các đồn điền và hầm mỏ, một bộ phận khác là
đồng bào ở các vùng lân cận đến để làm ăn buôn bán.
Bảng 1.1: Thành phần dân cư của huyện Đông Triều năm 2008
STT
Dân tộc
Số người
Tỷ lệ %
1
Kinh
153.100
97,5
2
Tày
2.200
1,4
3
Hoa
785
0,5
4
Sán Dìu
785
0,5
5
Các dân tộc khác
157
0,1
157.027
100
Tổng cộng
Nguồn: Chi cục thống kê huyện Đông Triều
Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ tới 97,5% dân số Đông Triều, cư trú tập trung ở hai thị
trấn là Đông Triều và Mạo Khê, đồng thời cũng sống cùng xen kẽ với các dân tộc anh
em khác. Vốn cư trú ở vùng thấp, người Kinh quen với việc trồng lúa nước kết hợp
với một số nghề thủ công truyền thống, buôn bán ở các chợ, làm công nhân ở các khu
mỏ. Người Kinh không những giàu kinh nghiệm trong sản xuất mà còn có khả năng
tiếp thu nhanh những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vốn văn hóa của người Kinh hết sức
phong phú và đặc sắc, đặc biệt là văn hóa làng xã truyền thống như thờ Phật ở các
ngôi chùa, thờ thần thánh ở các ngôi đền và thờ Thành hoàng làng. Khi người Kinh
sinh sống cùng với các dân tộc khác thì những nét văn hóa truyền thống của họ được
giao lưu hòa trộn cùng văn hóa truyền thống của các dân tộc anh em, điều này là cơ
sở để Đông Triều có nền văn hóa đa dạng phong phú.
13
- Xem thêm -