Đề Cương Viễn Thám
Thứ tư, 31 Tháng 8 2011 23:24
Câu 1: Khái niệm về Viến Thám và lịch sử phát triển viễn thám
1.Khái niệm: Viễn thám là phương thức thu nhận thông tin của đối tượng từ 1
khoảng cách nhất định, không có những tiếp xúc trực tiếp với chúng.
2. Lịch sử phát triển Viễn thám:
-Bắt đầu từ năm 1839 bức ảnh đầu tiên được chụp ----> biết chụp ảnh
-Sau đó vào năm 1949 thành lập bản đồ địa hình.
-Năm 1858 một thợ ảnh Pháp là Tournachon đã chụp bức ảnh đầu tiên từ
kinh khí cầu ở độ cao 80m tại Paris.Từ năm 1858-1882 các nhà địa chất Pháp
đã sử dụng những ảnh chụp từ khinh khí cầu và từ các đỉnh núi cao của dãy
Anpơ vào mục đích nghiên cứu địa chất.
-Năm 1903, xuất hiện máy bay đầu tiên. Đến năm 1909, máy bay được đưa
vào chụp ảnh lần đầu tiên ở vùng Contocelli (Italia). Và sau đó máy bay được
sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu địa chất vào năm 1929- 1930 ở Pháp, Mỹ,
Nga, Italia.
Các máy bay chụp tay được thay bằng máy ảnh tự động có độ chính xác cao,
ngày càng tinh vi và hoàn thiện hơn.
-1939 Môn địa chất ảnh bắt đầu chính thức đưa vào dạy học ở Nga, Mỹ
1961: Con tàu vũ trụ đầu tiên có người lái bay lên
Người ta thử nghiệm
chụp ảnh Trái đất. Những năm sau đó Liên Xô phóng 1 loạt tàu vũ trụ
người ta bắt đầu lắp máy ảnh chuyên dụng.
Những năm 1970 những vệ tinh của Mỹ chiếm ưu thế hơn, sau đó là Mỹ,
Pháp, Nga, Ấn Độ, Nhật, Israen, Đức…
B¶ng 1.1: Tãm t¾t sù ph¸t triÓn cña viÔn th¸m qua c¸c sù kiÖn
Thêi gian (N¨m)
1800
Sù kiÖn
Ph¸t hiÖn ra tia hång ngo¹i
1839
B¾t ®Çu ph¸t minh kü thuËt chôp ¶nh ®en tr¾ng
1847
Ph¸t hiÖn c¶ d¶i phæ hång ngo¹i vµ phæ nh×n
thÊy
1850-1860
Chôp ¶nh tõ kinh khÝ cÇu
1873
X©y dùng häc thuyÕt vÒ phæ ®iÖn tõ
1909
Chôp ¶nh tõ m¸y bay
1910-1920
Gi¶i ®o¸n tõ kh«ng trung
1920-1930
Ph¸t triÓn ngµnh chôp vµ ®o ¶nh hµng kh«ng
1930-1940
Ph¸t triÓn kü thuËt radar ( §øc, Mü, Anh)
1940
Ph©n tÝch vµ øng dông ¶nh chôp tõ m¸y bay
1950
X¸c ®Þnh d¶i phæ tõ vïng nh×n thÊy ®Õn kh«ng
nh×n thÊy
1950-1960
Nghiªn cøu s©u vÒ ¶nh cho môc ®Ých qu©n sù
12-4-1961
Liªn x« phãng thµnh c«ng tùu vò trô cã ngêi l¸i vµ
chôp ¶nh tr¸i ®Êt tõ ngoµi vò trô.
LÇn ®Çu tiªn sö dông thuËt ng÷ viÔn th¸m
1960-1970
Mü phãng vÖ tinh Landsat-1
1972
1970-1980
Ph¸t triÓn m¹nh mÏ ph¬ng ph¸p xö lý ¶nh sè
1980-1990
Mü ph¸t triÓn thÕ hÖ míi cña vÖ tinh Landsat
1986
Ph¸p phãng vÖ tinh SPOT vµo quÜ ®¹o
1990 ®Õn nay
Ph¸t triÓn bé c¶m thu ®o phæ, t¨ng d¶i phæ vµ sè
lîng kªnh phæ, t¨ng ®é ph©n gi¶i cña bé c¶m.
Ph¸t triÓn nhiÒu kü thuËt xö lý míi.
Câu 2: Các kiểu thu năng lượng điện từ dùng trong Viễn thám
Năng lượng điện từ khác biệt với tất cả những năng lượng khác là chúng
chuyển động với tốc độ của ánh sáng theo kiểu sóng điều hòa. Kiểu này gồm
những sóng xuất hiện theo những khoảng thời gian bằng nhau. Khi chúng
tương tác với vật thể, sóng điện từ có hành vi như những vật thể riêng lẻ gọi
là photon hay tương tự.
Những đặc tính của sóng điện từ gồm: tốc độ, bước sóng và tần suất.
Tất cả các sóng điện từ chuyển động với cùng một tốc độ của ánh sáng (C),
mà trong chân không, trị số của nó là C= 108 msec-1.
Bước sóng () của sóng điện từ là khoảng cách từ bất kỳ một điểm nào đó
trong chu kỳ này tới điểm tương tự của chu kỳ sau. Đơn vị đo là micro mét
(mm).
Tần suất (n) là số lượng bước sóng đi qua một điểm đã cho trong một chu kỳ
thời gian nhất định. Tính chất này có thể đo bằng “ số chu kỳ trong một
giây”, và người ta gọi nó là một hertz.
Ba tính chất này có môi liên quan theo đẳng thức sau:
C= n
Câu 3: Các phổ điện từ dùng trong viễn thá
Dải phổ
Bước sóng
(mm)
Tia gamma 0.0003
Đặc điểm
Bức xạ tới thường bị hấp thụ toàn bộ bởi tầng khí
quyển phía trên và không có khả năng dùng
trong viễn thám.
Vùng tia X 0.0003- 0.03 Hoàn toàn bị hấp phụ bởi khí quyển, không sử
dụng được trong viễn thám.
Vùng tia cực 0.03- 0.4
tím
Các bức xạ tới có bước sóng nhỏ hơn 0.3mm thì
hoàn toàn bị hấp phụ bởi tầng ozon của khí
quyển
Vùng tia cực 0.3- 0.4
tím chụp
ảnh
Tạo ảnh với phim và các photodetector. Đạt trị
số cực đại của năng lượng phản xạ ở bước sóng
0.5mm.
Vùng hồng 0.7-1.00
Phản xạ lại bức xạ mặt trời, không có thông tin
ngoại
về tính chất nhiệt của đối tượng- băng từ 0.71.1mm được nghiên cứu với phim và gọi là hồng
ngoại gần (NIF).
Vùng hồng 3-5 đến 8-14
ngoại nhiệt
Các chỉ số khí quyển chính ở vùng nhiệt ghi được
hình ảnh của các bước sóng này yêu cầu phải có
các máy quét quang cơ và hệ thống máy thu
đặc biệt gọi là hệ thống “ VIDICON”, không phải
bằng phim.
Vùng cực
ngắn
0.1-3.0 cm
Các bước sóng dài hơn có thể xuyên qua mây,
sương mù và mưa. Các hình ảnh có thể được ghi
lại ở dạng chủ động hay thụ động.
Vùng rađa
0.13.0cm
Dạng “ chủ động” của viễn thám sóng cực
ngắn.Hình ảnh rada được ghi lại ở các băng sóng
khác nhau.
Vùng radio >30cm
Vùng có bước sóng dài nhất trong phổ điện từ.
Một vài sóng rada được sử dụng trong các vùng
sóng này
Câu 4: Thế nào là độ phủ của ảnh viễn thám và ý nghĩa của độ phủ
trong viễn thám? Đôi ảnh lập thể là gì? ý nghĩa?
Độ phủ: Để có thể quan sát lập thể địa hình mặt đất ở trên ảnh, mỗi đối tượng
phải xuất hiện trên cả hai tấm ảnh được chụp từ hai điểm kề sát nhau.Các tấm
ảnh này phải có một diện tích nào đó trùng nhau. Diện chồng phủ lên nhau
của hai tấm ảnh kề sát nhau trong cùng một tuyến bay được gọi là độ phủ dọc
(overlap). Độ phủ dọc thông thường bằng 60-65% diện tích của một bức ảnh.
Hai tuyến bay kề sát nhau cũng phải có một phần chồng phủ nhau, nhằm loại
bỏ phần rìa ảnh bị biến dạng và kém chính xác. Diện chồng phủ này được gọi
là độ phủ ngang ( sidelap). Độ phủ ngang thường bằng 20 – 25% diện tích
một bức ảnh
Hì
Ý nghĩa của độ phủ trong viễn thám: Để có thể quan sát lập thể địa hình mặt
đất ở trên ảnh. Và loại bỏ phần rìa ảnh bị biến dạng và kém chính xác.
Đôi ảnh lập thể:Là 2 ảnh kế sát nhau trong cùng 1 hàng.
Ý nghĩa:
Câu 5:Mối tương tác giữa bức xạ điện từ với nước, thực vật, đất đá và
khí quyển.
Với nước:
Những thể nước có đặc trưng phản xạ hơi khác so với nước nằm trong mối liên
kết trong các phân tử khoáng vật, chúng không thể hiện sự trao đổi dao động
ngắt quãng. Mặc dầu vậy, đường cong phản xạ vẫn dao động trong khoảng rất
rộng. Nước có độ truyền dẫn cao trong khoảng sóng nhìn thấy và tính truyền
dẫn tăng khi bước sóng giảm. Kết quả là đối với nước sâu, chỉ có ánh sáng
xanh lơ có thể lan truyền tới những độ sâu nhất định, các bước sóng dài bị
hấp thụ ngay từ mức nước nông. Đối với nước trong, có thể đánh giá độ sâu
bằng cường độ của bức xạ nhìn thấy, đặc biệt là ánh sáng xanh lơ phản xạ từ
đáy. Tuy nhiên, đối với độ sâu lớn hơn 40m, tất cả bức xạ của khoảng nhìn
thấy bị hấp thụ và nước được thể hiện trên ảnh hoàn toàn đen. Những vật liệu
lơ lửng, phù du và màu tự nhiên ( tanin từ các đầm lầy mang ra), làm tăng
độ phản xạ của nước trong khoảng nhìn thấy. Vậy một khi biết độ sâu, có thể
đánh giá lượng vật liệu lơ lửng ở trong nước trên cơ sở các tư liệu viễn thám.
Trong khoảng hồng ngoại gần, nước gần giống như vật đen tuyệt đối và hấp
thụ thực sự toàn bộ năng lượng tới. Chỉ có những vật thể tự nhiên với tính
chất này mới có thể phân biệt được chúng dễ dàng bằng các đặc điểm bề mặt
trong khoảng này của phổ điện từ, ngay cả nếu chúng không sâu hay có
chứa nhiều thể phù du. Do gần giống như vật đen, nước gần như là vật phát
xạ trong khoảng hồng ngoại, cũng như vật thể hấp thụ. Điều đó có nghĩa là
các số đo hồng ngoại phát xạ trong khoảng 8-14mm, có thể được sử dụng để
tính toán nhiệt độ trên mặt của vật thể nước một cách khá chính xác.
Sự tương tác của năng lượng phản xạ với nước trong lỗ rỗng của đất và đá bị
khống chế bởi tập hợp các tính chất của nước. Trên ảnh, đất và đá ẩm có độ
xám lớn hơn so với khi chúng khô. Những đặc trưng này rất khác so với thực
vật và khoáng vật chứa nước. Trong vùng hồng ngoại nhiệt, phản xạ của đất
đá ẩm rất phức tạp do các yếu tố môi trường khác nhau.
Mối tương tác giữa bức xạ điện từ với thực vật:
Thực vật sử dụng năng lượng Mặt trời để chuyển đổi nước và CO2 thành
carbonhydrat và ooxxy, nhờ quá trình quang hợp ánh sáng. Quá trình trao
đổi chất của các cơ thể sống này phụ thuộc nhiều vào hệ thống dẫn nước và
cấu trúc của tế bào. Do có sự dư thừa nước trong cấu trúc, nên H2O khống
chế hoạt động tương tác này.
Sắc tố chlorophyll- một tổng thể các thành phần hữu cơ có chứa sắt, là một
chất xúc tác đối với quá trình quang hợp ánh sáng. Chức năng của
chlorophyll là hấp thụ bức xạ Mặt trời và cung cấp nó cho quá trình quang
hợp. Năng lượng bị hấp thụ trong khoảng từ 0.45 mm đến 0.68mm, tức là
phần xanh lơ và đỏ của phổ nhìn thấy, chính vì vậy mà lá cây có màu xanh
lục. Nước trong tế bào làm hấp thụ một ít năng lượng ở khoảng sóng 1.4mm
và 1.9mm. Độ hấp thụ phụ thuộc vào lượng tế bào chứa nước. Trong khoảng
thấp hơn bước sóng 2.0mm, lá cây hấp thụ bức xạ hồng ngoại gần.
Sự phản xạ bức xạ của thực vật trong khoảng hồng ngoại nhiệt có tính tổng
hợp. Đa phần năng lượng bị hấp thụ và các bước sóng ngắn hơn được tái phát
xạ để giữ cân bằng năng lượng. Có rất nhiều nhân tố đóng vai trò quyết định
mức độ bay hơi, nhiệt độ hiện thời, độ ẩm, sự dẫn nước, ánh sáng ( khống chế
sự mở ra hay đóng vào các lỗ thoát hơi). Sử dụng hồng ngoại nhiệt có thể
cung cấp những xuất phát điểm cho nhiều quá trình khác nhau.
Mối tương tác giữa bức xạ điện từ với đất, đá và khoáng vật
Đối tượng được xem xét ở đây là đá gốc nói chung và những khoáng vật tạo
đá. Có ba khoảng sóng điện từ quan trọng nhất đối với chúng: 0.4-2.5mm
nhìn thấy và hồng ngoại gần); 8-14mm ( phát xạ hay hồng ngoại nhiệt) và
1mm, đến 30cm ( siêu cao tần).
Đá gốc là tập hợp những khoáng vật khác nhau, do đó phổ của chúng cũng là
tập hợp phổ của những khoáng vật thành phần. Những thành phần chung
nhất của các đá gốc và khoáng vật tạo đá là oxy, silic và nhôm cùng với tỷ lệ
khác nhau của sắt, magie, canxi, kali, nito và một phần nhỏ các nguyên tố
khác. Các nguyên tử oxy, silic và nhôm có những vòng điện tử, mà mức độ
năng lượng của chúng ở mức duy trì sự trao đổi giữa chúng rất ít hoặc không
có hiệu quả trong khoảng sóng nhìn thấy và hồng ngoại gần. Vì chúng có thể
tồn tại như những ion với hóa trị khác nhau, sự trao đổi năng lượng của các
kim loại sắt, đồng, nikel, crom, coban, mangan, vanadi, titan và scandi có
tiềm năng lớn. Trong số này, sắt có hiệu ứng mạnh nhất và dễ nhận thấy
nhất.
Những máng này rất gồ ghề, nói lên rằng sự hấp thụ năng lượng xảy ra rất
mạnh ở những bước sóng đó để tạo nên sự trao đổi điện tử. Sự có mặt của tất
cả những máng trũng này là do sự trao đổi trong những ion ngắt quãng và
được tạo nên bởi hiệu ứng trường tinh thể.
Một kiểu trao đổi điện tử khác do sự có mặt của những điện tử có đủ năng
lượng trong ion kim loại, do đó nó không liên kết mạnh với bát cứ ion nào
khác và nó có thể chuyển từ ion này sang ion khác. Đây chính là tính chất
làm cho kim loại có độ dẫn điện cao. Sự trao đổi như vậy gọi là chuyển giao
điện tử và thường xảy ra trong kim loại. Sự chuyển đổi này được kích thích bởi
năng lượng trong dải sóng hẹp của năng lượng điện từ, do đó tạo nên những
máng trũng hấp thụ ở bên cạnh. Sự chuyển đổi chung này thường xảy ra đối
với các điện tử sắt sang oxy và gây nên kênh chuyển đổi Fe-O ở bước sóng
ngắn hơn 0.55mm. Sự chuyển giao điện tử này là rất đặc trưng cho tất cả
những khoáng vật sắt và đó chính là nguyên nhân tạo nên góc nghiêng dốc
của đường cong phản xạ về phía phần xanh lơ của khoảng phổ.Hiệu ứng rõ
nhất có thể thấy với phản xạ của các oxyt sắt. Đây cũng là nguyên nhân nói
lên: tại sao những khoáng vật này và các đá chứa chúng thường có màu
vàng, da cam hay đỏ.
Đối với rất nhiều các đá có silicat chứa hydroxyl (OH), chỉ có sự trao đổi kéo
dài mối liên hệ ở trong khoảng sóng 2.7mm. Nhờ đó overtone có thể được
tạo nên, cùng với sự trao đổi cơ bản khác và quan trọng nhất trong số đó là
sự kéo dãn Mg-OH và Al-OH, gây nên những máng hấp thụ tương ứng ở
khoảng sóng 2.3mm và 2.2mm. Những máng này cũng có biểu hiện khá rõ
ràng đối với các khoáng vật mica và sét, chúng tạo nên những tín hiệu phổ
đối với khoáng vật chứa hydroxyl.
Trong phần phổ bức xạ điện từ, mặt đất phát xạ tới cực trị và các cửa sổ khí
quyển có mặt trong khoảng sóng 8-14mm. Sự trao đổi cực kỳ quan trọng
này là chấn động và có liên quan đến liên kết Si-O. Sự thể hiện lý tưởng của
bức xạ điện từ là vật đen tuyệt đối, khi toàn bộ năng lượng được phát ra và
phân bổ theo các bước sóng khác nhau. Thạch anh là một ví dụ điển hình,
bức xạ của nó gần như của vật đen tuyệt đối cho tới bước sóng 6mm, nhưng
lệch so với vật đen ở bước sóng dài.
Trong vùng này của toàn phổ, sự chuyển tiếp giao động khác nhau trong các
khoáng vật silicat tạo nên những đường phổ, khác biệt với tất cả những silicat
khác. Điều quan trọng là những silicat đó kết hợp với cacbonat và ooxxyt
sắt, ngay cả số lượng nhỏ của những khoáng vật không phải silicat này trong
các đá silicat chủ yếu làm thay đổi mạnh mẽ phổ của chúng.
Năng lượng tổng thể do đá phát xạ trong vùng hồng ngoại nhiệt có liên quan
đến nhiệt độ. Nhiệt độ của đá phụ thuộc vào hai nguồn năng lượng: dòng nhiệt
bên trong vỏ Trái Đất và năng lượng Mặt trời hấp thụ được trong thời gian ban
ngày. Trong chu kỳ 24h, nhiệt độ của bề mặt đất biến thiên, đạt tới cực đại ở
thời gian nóng nhất của ban ngày và cực tiểu trước lúc Mặt trời mọc. Các giá
trị cực trị và mức độ của sự biến thiên này phụ thuộc vào tính hấp thụ, tính
truyền dẫn và nhiệt năng của vật thể. Ở nhiệt độ 300K, bề mặt Trái đất phát xạ
ở bước sóng trong vùng siêu cao tần cũng như trong vùng hồng ngoại, mặc
dù ở cường độ giảm tới mức rất thấp. Khi bước sóng tăng, năng lượng trong
khoảng sóng từ 14mm đến 1mm chủ yếu bị hấp thụ bởi khí quyển. Tuy nhiên
trong vùng siêu cao tần này, khí quyển vẫn có tính trong suốt ở một số dải
hẹp và cường độ vẫn đủ cao để có thể đo đạc bằng những hệ viễn thám thụ
động
Do vậy viễn thám siêu cao tần có khả năng cung cấp những thông tin về vật
thể nằm dưới lớp bề mặt cũng như trên bề mặt.
Phổ của đá là tập hợp của những khoáng vật tạo nên chúng. Tùy thuộc vào
cấu trúc và thành phần của những khoáng vật này, chúng có thể được tách
biệt nếu năng lượng của chúng đủ dư thừa và những nét đặc trưng phổ của
chúng đủ mạnh.
Ảnh hưởng của khí quyển
Giữa bề mặt vỏ Trái đất và vệ tinh hay máy bay bao giờ cũng có một khoảng
khí quyển ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình truyền dẫn thông tin. Những vật
thể gây nen sự biến đổi bao gồm các phân tử khí và các hạt dạng lỏng hay
rắn (aerosol, bụi, giọt nước). Các hạt gây ra những biến đổi như hấp thụ , tán
xạ và phản xạ. Trong thực tế, khí trong khí quyển hấp thụ năng lượng trong
một số khoảng bước sóng nhất định gọi là các kênh hấp thụ.Bước sóng
khoảng ngắn hơn 0.3mm bị hấp thụ hoàn toàn cần thiết cho sự sống cảu Trái
đất, vì năng lượng ở bước sóng này có thể phá hủy lớp da của các cơ thể sống.
Mây cấu tạo từ những phần tử kích thước nhỏ (aerosol) của nước lỏng, hấp thụ
và tán xạ bức xạ điện từ ở bước sóng nhỏ hơn 0.3cm. Chỉ có bức xạ của sóng
siêu cao tần và bước sóng dài hơn là có khả năng xuyên qua mây, mà không
bị tán xạ, phản xạ hay hấp thụ.
Câu 6: Thế nào là sự truyền dân, phản xạ, phát xạ, tán xạ và hấp thụ?
1.Sự truyền dẫn: Khi lan truyền qua các vật thể có mật độ khác nhau, thí dụ
như từ không khí sang nước, sẽ có sự thay đổi về tốc độ của bức xạ tới. Tỷ số
của hai tốc độ ở hai vật thể vật chất khác nhau gọi là chỉ số khúc xạ (n) và
được biểu thị bằng công thức: n= Với là tốc độ trong chân không
là tốc độ trong vật thể
2.Phản xạ:Là năng lượng quay lại từ bề mặt vật thể với góc phản xạ bằng và
đói diện với góc tới, cường độ phản xạ tỷ lệ thuận với độ nhẵn của bề mặt đối
tượng. Tính phản xạ hay hướng dao động của sóng phản xạ khác biệt với
hướng của sóng năng lượng tới
3.Phát xạ: Là năng lượng được phát ra bởi chính các vật thể, thường là
những bước sóng dài, tùy thuộc vào cấu trúc và nhiệt độ của nó.
4. Tán xạ: Có nghĩa là phản xạ ra tất cả các hướng. Bề mặt với địa hình lồi
lõm là nguyên nhân chủ yếu gây nên tán xạ. Sóng ánh sáng bị tán xạ bởi
các nguyên tử và các phân tử trong khí quyển có kích thước tương đương với
kích thước của bước sóng ánh sáng.
5. Hấp thụ: Những vật thể mà bề mặt của chúng tiếp nhận bức xạ điện từ, có
thể hấp thụ một phần năng lượng đó. Phần hấp thụ này được dùng để biến đổi
sự phân bố năng lượng bên trong vật thể, có nghĩa là năng lượng của nó được
dùng để đốt nóng vật thê, hay để dành cho các hoạt động trao đổi.
*Phát xạ, tán xạ và phản xạ là các hiện tượng xảy ra trên bề mặt, bởi những
tác động tương tác này được xác định trước tiên bởi các tính chất trên bề mặt
như màu sắc và độ gồ ghề lồi lõm. Lan truyền và hấp thụ là những hiện tượng
bên trong vật thể, bởi vì chúng được xác định bởi các đặc tính bên trong của
vật thể như mật độ và độ dẫn. Sự kết hợp giữa tương tác bề mặt với hành vi
bên trong của bất kỳ vật thể nào đó cũng đều phụ thuộc vào bước sóng của
bức xạ điện từ, cũng như vào các thuộc tính riêng của vật thể đó. Những
tương tác này giữa vật thể và năng lượng được phản ảnh trên các ảnh viễn
thám, do đó chúng là cơ sở để nhận biết từ các thông tin trên ảnh. Như vậy
bất cứ vật nào cũng có những đặc trưng phổ phụ thuộc vào cấu tạo phân tử
và thành phần hóa học của chúng.
Câu 7:Các thiết bị thu và chụp ảnh dùng trong viễn thám.
1.Thiết bị chụp ảnh:
Thiết bị chụp đồng thời chụp ảnh của cả một vùng hay một lãnh thổ. Máy
Camera hay Viđicôn là những ví dụ điển hình của loại thiết bị này. Đôi mắt
của con người cũng có thể xếp vào loại này.
Máy camera ( máy ảnh quang cơ) sử dụng lăng kính để tạo ảnh của của một
cảnh trên bình đồ tiêu cự - là bình đồ mà trên đó ảnh được xác định rõ nét
nhất. Màn chớp mở ra khoảng lựa chọn để cho ánh sáng lọt vào trong
camera và ở đó hình ảnh được ghi trên phim.
Ưu: Độ phân dải rất cao, giá thành của máy ảnh, phim không cao lắm
Nhược: Thu được thông tin rất chậm
Viđicôn là một loại Camera ghi hình ảnh trên bề mặt đã nạp sẵn các điện tử
nhạy cảm với photon. Sau đó tia điện tử tạo nên tín hiệu có thể được dẫn
truyền và ghi nhận trên băng từ rồi sau đó chuyển sang dạng phim.
Kiểu chụp này có khả năng tạo nên dải chồng phủ bên cạnh, cho phép ta
nhìn thấy đối tượng nổi, tức la nhìn được đối tượng trong không gian ba chiều
đối với kiểu chụp này và hồng ngoại phản xạ ( từ 0.3mm đến 0.9mm). Mức độ
nhạy cảm của của viđicôn mở rộng tới dải hồng ngoại nhiệt.
Ưu: Có thể tạo ảnh đồng thời trên những vùng rộng lớn,vì thiết bị có mảng
rất dày các bộ tách sóng nằm trong bình đồ tiêu cự. Thiết bị này tương đối rẻ.
2.Thiết bị thu quét
Hiện nay được sử dụng rất rộng rãi trong khâu chụp ảnh. Các thiết bị quét
này sử dụng 1 bộ tách sóng riêng rẽ với trường nhìn hẹp. Tín hiệu điện sau đó
khuyếch đại các tín hiệu điện từ rồi ghi vào băng từ rùi tạo nên ảnh. Tất cả các
thiết bị quét đều xoay các bộ tách sóng trong trường nhìn thấy của nó trên
đất theo những loạt đường quét song song.
Có 4 kiểu quét cơ bản:
a) Thiết bị quét ngang
Thường được sử dụng rộng rãi nhất, dùng mặt gương có thể quay nhờ môtơ
điện, với các trục ngang quay theo những đường song song. Gương xoay với
hướng ngang mặt đất theo những đường song song vuông góc với hướng bay
của máy bay hay vệ tinh. Năng lượng bức xạ hay phản xạ từ mặt đất được hội
tụ vào cac bộ tách sóng bởi hệ thống gương thứ hai. Độ phân giải góc của các
bộ tách sóng, đo bằng miliradian (mrad), sẽ quyết định trường nhìn thấy của
bộ tách sóng. Trường nhìn bao quát một vùng nhất định trên mặt đất gọi là
tế bào phân giải mặt đất. Kích thước của tế bào phân giải mặt đất được xác
định bởi trường nhìn của bộ tách sóng và độ cao bay của vệ tinh hay máy
bay. Nếu bộ tách sóng có trường nhìn đồng thời là 1mrad ở độ cao 10km sẽ
có tế bào phân giải mặt đất là 20m x 10m. Trường nhìn góc là một phần của
gương quay, đo bằng độ, được ghi như những đường quét. Trường nhìn góc và
độ cao bay sẽ xác định kích thước dải quét trên mặt đất, mà chiều rộng của
nó được thể hiện bằng kích thước của ảnh.
Khoảng cách giữa vệ tinh và mặt đất ở rìa của giải quét trên mặt đất bao giờ
cũng lớn hơn so với ở trung tâm. Như vậy kích thước của tế bào phân giải mặt
đất lớn dần về phía rìa, do đó ảnh bị sai số hình học. Trên những độ cao bay
lớn, trường nhìn góc mà hẹp cũng đã đủ phủ một dải quét mặt đất lớn. Vì vậy,
gương quay được thay thế bằng gương phẳng, dao động tiến và lùi theo một
góc khoảng 150.
Ưu: Chế tạo thiết bị đơn giản
Nhược: Là hình ảnh thường bị méo hình học, không có cùng tỷ lệ trên ảnh và
chất lượng của sản phẩm thường không được cao lắm.
b) Thiết bị quét dọc:
Để hệ quét đạt được độ phân giải phổ và độ phân giải không gian nét hơn, thời
gian dừng đối với mỗi tế bào phân giải mặt đất phải được tăng thêm. Một
trong những phương pháp thực hiện công việc này là loại trừ gương quét và
cung cấp cho mỗi tế bào phân giải mặt đất một bộ tách sóng riêng biệt ngang
theo dải quét trên mặt đất. Các bộ tách sóng được đặt theo màng tuyến trên
bề mặt tiêu cự của hệ thấu kính.
Thường thường, kiểu quét theo đường dọc quét trong khoảng phổ 0.01mm,
và kiểu quét theo ddwogf ngang điển hình quét trong khoảng phổ 0.1mm
,do đó độ phân giải phổ thô hơn.
c) Thiết bị quét tròn
Trong thiết bị quét tròn, mô tơ quét và gương nối với một trục quay thẳng
đứng, trục quay này quét theo các đường tròn trên mặt đất. Chỉ có phần
phía trước của bộ quét là ghi tín hiệu để tạo ra ảnh.
Ưu việt của thiết bị này là khoảng cách giữa vệ tinh và mặt đất là một hằng
số và tất cả các tế bào phân giải mặt đất có cùng một kích thước. Ưu thế chủ
yếu là hầu hết các hệ xử lý ảnh và hiện hình ảnh được tạo ra cho các ảnh quét
theo đường, do vậy dữ liệu quét tròn phải được định lại khuôn dạng, sao cho
nó có thể xử lý được. Hệ quét tròn có thời gian quét ngắn hơn so với thời
gian quét của hệ quét ngang.
d) Thiết bị bên cạnh
Ba kiểu quét vừa mô tả ở trên thuộc các kiểu thụ động, do đó chúng có thể
phát hiện và ghi nhận năng lượng tự nhiên phản xạ hay bức xạ từ mặt đất. Hệ
chủ động có nguồn năng lượng của mình, tiến hành quét từ bên cạnh. Kiểu
quét này thường sử dụng trong kỹ thuật viễn thám siêu cao tần.Hệ quét rada
truyền các xung của năng lượng siêu cao tần sang một phía theo chiều
vuông góc với hướng bay và ghi lại năng lượng tán xạ từ mặt đất, quay lại ăng
ten. Một số hệ quét bên cạnh khác là hệ siêu âm, truyền các xung năng
lượng siêu âm xuống đáy đại dương và thu lại âm phản xạ để tính độ sâu đáy
biển.
Câu 8: Giới thiệu sơ lược các loại vệ tinh viễn thám của Mỹ, Pháp, Liên
Xô
I Các vệ tinh Landsat của Mỹ:
1. Vệ tinh Landsat: Vệ tinh Landsat của Mỹ là hệ thống vệ tinh quỹ đạo gần
cực ( với góc mặt phẳng quỹ đạo so với mặt phẳng xích đạo là 98,20), lúc đầu
có tên là ERTS ( Earth Remote Sensinh Satellite), sau 2 năm kể từ lúc
phóng ERST-1 ngày 23-7-1972, đến năm 1976, được đổi tên là Landsat, sau
đó có tên là landsat-TM và Landsat –ETM
Bảng 1. Các thông số cơ bản về các loại vệ tinh Landsat
Vệ tinh
Ngày
phóng
Ngày hoạt RBV
động
band
MSS
TM band Quỹ đạo
band
Lặp lại/ độ cao
( km)
Landsat-1 23-71972
6-1-1978 1,2,3 đồng 4567
thời
Không
18
ngày/900km
Landsat-3 22-11975
25-21982
11,2,3
4567
đồng thời
Không
18
ngày/900km
A,B,C,D
4567,8
Không
18
ngày/900km
Hoạt động Không
1234
1234567 16
ngày/900km
Landsat-5 1-3-1984 Hoạt động Không
1234
1234567 16ngày/900k
m
Landsat-6 5-101993
Không
1234567 16
ngày/900km
Landsat-3 5-3-1978 31-31983
Landsat-4 16-71982
Không
phóng
Không
Ghi chú: -RBV: hệ thống chụp ảnh tia ngược bằng máy ảnh.
-MSS: Hệ thống quét đa phổ
- TM : Sensor tạo bản đồ chyên đề
- ETM: Sensor tạo bản đồ chuyên đề chất lượng cao.
Vệ tinh Landsat thế thệ 1(Landsat 1,2,3) bay ở độ cao tương đối lớn:918km.
Mỗi 1 ngày bay được 14 vòng quanh Trái Đất. Trên vệ tinh có lắp máy quét
đa phổ MSS 4 band. Các vệ tinh này được bố trí qua 1h nhất định
Vệ tinh Landsat thế hệ 2: ( Landsat 4,5,6): Bay ở độ cao nhỏ hơn : 705km,
luôn luôn động chứ không tĩnh.Ngoài máy quét MSS người ta lắp 1 máy TM-
thiết bị quét bản đồ chuyên đề.
2. Vệ tinh IKONOS
-Ikonos-1: phóng năm 1999 nhưng thất bại
-Ikonos-2: phóng 24/9/1999 tại độ cao 682km, cắt xích đạo vào 10:30 phút
sáng. Trọng lượng 720kg. Trên đó có lắp MSS.Ảnh có độ phân giải là 4m và
kênh toàn sắc độ phân giải là 1m.Riêng ảnh Panchromatic đạt 0.8m
Bảng 2. Các thông số chính của Ikonos
Tên kênh
Tên phổ
Bước sóng mm
Phân giải (m)
Kênh 1
Xanh lam
0,45-0,52
4
Kênh 2
Xanh lục
0,51-0,60
4
Kênh 3
Đỏ
0,63-0,7
4
Kênh 4
Hồng ngoại
0,76-0,85
4
Kênh toàn sắc
Toàn sắc
0,45-0,9
1
3.Vệ tinh Quick Bird
Là vệ tinh có độ phân giải không gian cao nhất hiện nay cho ra kênh toàn
sắc có độ phân giải là 0.61m và độ phân giải của các kênh đa phổ là 2,44m.
Quick Bird cho ảnh độ phân giải 0,7m ghép kênh toàn sắc tổ hợp với kênh
hồng ngoại. Quick Bird được phóng lên ngày 18/10/2001. Độ cao bay
450km. Trọng lượng vệ tinh: 950kg. Dự kiến nhiên liệu đủ bay trong 7 năm.
4.Vệ tinh GeoEye-1: phong ngày 6/9/2008 và đến 7/10/2008 chụp bức
ảnh đầu tiên đưa về Trái Đất. Đối với ảnh quang phổ ( MSS) độ phân giải
1,65m; đối với panchromatic: 0,41m Đây là vệ tinh thuộc đỉnh cao của chất
lượng ảnh hiện nay
II.Pháp
-Vệ tinh Spot: được chế tạo tại Pháp với sự tham gia của Thủy Điển, Bỉ, Đức
*Spot 1: phóng ngày 22/2/1986: hoạt động đến 31/12/1990.Ảnh của vệ
tinh có độ phân giải 20m (MSS), 10m ( Panchromatic).
*Spot 2: phóng ngày 22/1/1990: vẫn đang hoạt động
*Spot 3: Phóng ngày 26/9/1993 và ngừng hoạt động ngày 14/11/1997
*Spot 4: Phóng ngày 24/3/1998 và còn hoạt động khoảng 3-5 năm
*Spot 5: Phóng ngày 4/5/2002: Độ phân giải được tăng lên: 10m (MSS),
2,5m (Panchromatic)
Các ảnh của Spot có đặc điểm là xem được lập thể hình ảnh bề mặt Trái Đất.
Đây là ưu điểm rất lớn hoàn toàn có thể phóng lên lớn.
Nhược: Đắt
Ưu: Độ phân giải phổ rất tốt.
-Vệ tinh Envisat(vệ tinh chuyên nghiên cứu môi trường):Là vệ tinh do con
người phóng có trọng lượng lớn nhất: 8211kg phóng ngày 1/3/2002 ở độ cao
790km. Vệ tinh này chụp với 15 band khác nhau. Độ phân giải không cao.
III. Liên Xô:
-Vệ tinh Sojuz:Đặc điểm chung các ảnh của Nga: có độ phân giải tương đối
cao, các vệ tinh của Nga bay ở độ cao 270-350km. Các ảnh chụp được có tỷ
lệ từ 1:270.000- 1:1200.000
Độ phân giải của các ảnh này là 5m-30m.
Ưu: Độ phân giải rất cao, chất lượng tốt, giá rẻ
Nhược: Chủ yếu ảnh được bán ở dạng…..
Câu 9: Sự khác nhau của ảnh vệ tinh Landsat thế hệ 1 và thế hệ 2
Đặc điểm
Landsat 1,2 và 3
Landsat 4 và 5
Độ cao
918km
705km
Số quỹ đạo trong 1 ngày 14
14.5
Số lượng quỹ đạo phủ TĐ 251
233
Độ phủ ở xích đạo
14%
7.6%
Hoạt động từ
1972 đến 1984
1982 và đang tiếp tục
hoạt động
+Quét đa phổ
Có
Có
+RBV toàn sắc
Có ( landsat 3)
Không
+Thematic mapper
không
Có
Hệ thống thu ảnh
Landsat thế hệ thứ nhất: Vòng quỹ đạo : Ta thấy 14 vòng quỹ đạo
hướng Nam trong thời gian phần Bắc rơi vào ban đêm. Các vòng quỹ đạo
chuyển dịch theo về phía Tây do đó kết thúc ngày thứ 18 hay 252 quỹ đạo,
gần như toàn bộ bề mặt quả đất đã được thu chụp sau đó chu trình mới được
lặp lại.Chỉ có vùng cực ngoài vĩ độ 810 là nơi mà những vòng quỹ đạo Landsat
không bay phủ. Đương nhiên ở phần phủ chờm có thể nhìn thấy mô hình nổi.
NASA dựa vào quỹ đạo Mặt trời để thu ảnh vào giờ giữa buổi sáng.
Landsat thế hệ thứ hai: Vòng quỹ đạo: Vì landsat 4 và 5 bay ở độ cao
thấp hơn, nên chỉ có 233 vòng quỹ đạo và mất 16 ngày để phủ bề mặt đất, vì
vậy tâm của ảnh vệ tinh thứ nhất và thứ hai không trùng nhau. Do số lượng
các vòng quỹ đạo ít hơn, nên phần trăm độ chờm phủ ở xích đạo chỉ còn
7,6%.Các vòng quỹ đạo của Landsat 4 và 5 song song với nhau, nhưng
không trùng lặp.
Câu 10:Đặc điểm của ảnh Spot
Vệ tinh Spot có nhiều ưu điểm hơn so với vệ tinh Landsat. Với hai thiết bị thu
chụp có độ phân giải nhìn thấy cao, hoạt động đồng thời với góc quan sát
thẳng đứng và nghiêng cho phép thu chụp được trên một dải rộng 117km
trên mặt đất.
Sản phẩm của vệ tinh có hai loại kích thước pixel: 10m x 10m ( ảnh toàn sắc
P) và 20 x20m ( ảnh đa phổ XS). Ảnh đa phổ XS gồm hai kênh trong khoảng
sóng nhìn thấy (XS1, tương ứng với màu xanh lục : từ 0.5 đến 0.59mm; XS
2 tương ứng với màu đỏ, bước sóng từ 0.61 đến 0.68mm và một kênh hồng
ngoại gần (XS 3, từ 0.79 đến 0.79mm). Một kênh ảnh toàn sắc tương ứng với
khoảng sáng nhìn thấy ( từ 0.51mm đến 0.75mm), có nghĩa là từ dải xanh
lơ.
Một ứu thế hơn hẳn so với các từ liệu khác là Spot có thể thu chụp các ảnh có
độ phủ chờm, tạo nên những đôi ảnh lập thể. Những ảnh lập thể này có thể
còn được tạo nên do ảnh được chụp vào các thời gian khác nhau, do vậy
chúng có độ thị sai (parallax). Tỷ số giữa độ cao (H) và khoảng cách đáy (B)
bằng 1 có thể thu được khi góc nhìn là 240 về phía Đông và cũng 240 về phía
Tây. Đối với cặp ảnh có độ phủ 50%. Các ảnh lập thể này có thể sử dụng để đo
vẽ bản đồ địa hình và lập trực tiếp mô hình nổi từ các dữ liệu số mà không cần
tới các tư liệu bản đồ khác.
Câu 11: Đặc điểm của ảnh Soiuz ( Nga)
Các đặc trưng
Katê- 200
KFA- 1000
MK -4
Kiểu chụp ảnh
Đa phổ
Phổ màu
Đa phổ- Phổ màu
Độ cao bay TB
270km
270km
200- 350km
Tỷ lệ chụp ảnh
1: 1350000
1:270000
1:6500001:1200000
Số kênh phổ
3
2
3
Dải phổ, mm
0.5-0.6
(1) 0.635 - 0.690
0.6-0.7
0.570- 0.680
(2) 0.810 - 0.900
0.7-0.85
0.680 – 0.810
(3) 0.515 - 0.565
(4) 0.460 - 0.505
(5) 0.580 – 0.800
(6) 0.400 – 0.700
Kích thước ảnh
180 x 180mm
Diện tích phủ mặt 243 x 243
đất (km2)
»( 59000)
300x 300mm
180x 180mm
80 x 80=( 64000) 117 x 117 :
(13700)
216 x 216 »
(46700)
Độ phủ dọc của
ảnh, %
60
60
60
Độ phân giải
15 – 30m
5m
6-8m
Tỷ lệ lớn nhất có
thể phóng đại
1:350000
1:50000
1:100000
Câu 12:Các dấu hiệu phân tích ảnh
Về nguyên tắc chung, các dấu hiệu giải đoán được xếp vào hai nhóm chính
là: các yếu tố ảnh và các yếu tố địa kỹ thuật
a)
Các yếu tố ảnh (Photo elements):
3.
Tôn ảnh (tone): Là tổng lượng ánh sáng được phản xạ bởi bề mặt đối
tượng. Tôn ảnh là dấu hiệu hết sức quan trọng để xác định đối tượng.
Tôn ảnh được chia ra nhiều cấp bậc khác nhau, trong giải đoán bằng mắt
thường cso 10- 12 cấp. Sự khác biệt của tôn ảnh phụ thuộc vào nhiều tính
chất khác nhau của đối tượng. Những khu vực ngập nước như hồ, biển, sông
phản xạ ánh sáng rất yếu, nên sẽ có màu đen trên ảnh. Những nơi canh tác
nông nghiệp như ruộng lúa nước có màu xám trên ảnh. Tôn ảnh chỉ thị đặc
điểm về thành phần vật chất và độ ẩm của đất đá. Cách phân loại tôn ảnh
mang tính chất tương đối, nên chỉ có thể so sánh đối chiếu tôn ảnh của một
loạt ảnh chụp trong cùng một điều kiện. Các tấm ảnh chụp trong điều kiện độ
ẩm cao hoặc sau những ngày mưa có tôn ảnh thể hiện rõ ràng, rất thuận lợi
cho việc vẽ bản đồ thổ nhưỡng. Giải đoán tôn ảnh là một công việc khó khăn
và đòi hỏi nhiều kinh nghiệm. Nói chung tôn ảnh sáng có liên quan với các
vùng đất đá hạt thôi, thoát nước tốt. Tôn ảnh sẫm liên quan tới các vùng đất
đá hạt mịn, thoát nước kém. Có thể chia tôn ảnh một cách tương đối ra thành
5 cấp: Rất sáng, sáng, trung bình, xám tối, đen.
-Tôn ảnh rất sáng( trắng): Các vùng cuội sỏi, cát rất khô. Các khu vực đô thị
có nhà cửa xây dựng bằng vật liệu bêtông hoặc kính. Các khu vực nước có
sóng hoặc bị lóa ánh sáng Mặt Trời.
-Tôn ảnh sáng : Các vùng đất đá khô, cuội sỏi cát chứa ít nước, các làng
xóm, các đô thị.
-Tôn ảnh xám sáng ( trung bình): Chỉ thị cho đất hỗn hợp thô và mịn, đất
khô hạn chứa ít vật liệu hữu cơ.
-Tôn ảnh xám tối: Chỉ thị cho đất chiều dày lớn, giàu vật chất hữu cơ. Những
khu vực này thường ẩm ướt, thoát nước kém. Một số loại đá gốc thuộc nhóm
đá mafic và siêu mafic với lớp phủ thực vật phát triển mạnh cũng có thể tạo
ra tôn ảnh xám tối trên ảnh, do đó khi giải đoán tôn ảnh cần kết hợp với
những tài liệu khác.
-Tôn ảnh đen: Điển hình cho những khu vực lầy thụt hoặc vật liệu mịn, giàu
vật chất hữu cơ, bị ngập nước. Tôn ảnh đen còn điển hình cho các hồ nước,
sông ngòi,biển.
2 .Hoa văn ảnh( texture): Kiến trúc ảnh hay hoa văn ảnh được hiểu là tần
số lặp lại của sự thay đổi tôn ảnh, gây ra bởi tập hợp của nhiều đặc tính rất rõ
ràng của các cá thể riêng biệt.
Người ta thường phân chia ra một số loại hoa văn như sau:
-Hoa văn chấm mịn: Thể hiện thành phần đồng nhất của đất đá và đó thường
là các trầm tích sông, hồ, các lớp đất đá trầm tích dày và có thành phần chủ
yếu là sét, bột, cát.
-Hoa văn chấm thô: Đặc trưng cho các đá magma xâm nhập, các đá trầm
tích có thành phần không đồng nhất với sự xen kẽ các lớp đá hạt thô với hạt
mịn.
-Hoa văn lốm đốm. Thể hiện sự thay đổi rõ rệt về thành phần, độ ẩm, cấu
tượng của đất trên những khoảng cách ngắn. Những đốm có tôn ảnh sẫm hơn
chỉ rõ các vùng trũng hay ẩm ướt hơn, các đốm có tôn ảnh hơn là những
vùng khô hơn. Các đồng bằng tích tụ ven biển, ven hồ trong khí hậu ẩm ướt
thường thể hiện dạng hoa văn lốm đốm.
-Hoa văn dạng dải. Các dải phân bố theo dạng tuyến thẳng hoặc cong thể
hiện thành phần đất đá, độ ẩm, mức độ thoát nước khác nhau. Đây có thể là
sự xen kẽ các dải đất khô và ẩm ở quanh các bờ hồ, ven biển, các doi cát,
các khúc uốn của sông trên bề mặt đồng bằng ngập nước, các đá trầm tích
phân lớp có tính thấm nước khác nhau. Độ ẩm của đất đá ảnh hưởng đến sự
phân bố của thực vật càng lầm cho các dải hoa văn thể hiện rõ hơn trên ảnh.
Ví dụ: Hoa văn mịn đặc trưng cho trầm tích bở rời, hoa văn thô đặc trưng cho
các đá magma, hoa văn dạng dải đặc trưng cho các đá trầm tích biến chất.
3. Kiểu mẫu ( Pattern): Là nhân tố rất quan trọng thể hiện sự sắp xếp của
đối tượng theo một quy luật nhất định.
Ví dụ: Dạng đường thẳng có thể là đường sắt, đường quốc lộ hoặc các khe nứt
lớn, đứt gãy.
4.Hình dạng (Shape): Là những đặc trưng hình thái bên ngoài tiêu biểu
cho từng đối tượng.
Ví dụ: Hồ hình móng ngựa là các khúc sông cụt, dạng chổi sáng màu là các
cồn cát ven biển.
5.Kích thước (Size): Kích thước của một đối tượng được xác định theo tỷ lệ
ảnh và kích thước đo được trên ảnh, dựa vào thông tin này cũng có thể phân
biệt được các đối tượng trên ảnh.
7. Bóng râm( Shadow): Ảnh vệ tinh thường chụp vào lúc 9h30 đến 10h
(thế hệ 2) căn cứ vào bóng trên ảnh, có thể xác định độ cao tương đối của đối
tượng, từ đó có thể phân biệt được các đối tượng. Bóng râm trên ảnh chụp từ
máy bay cho ta khái niệm về hình dạng của địa hình trên mặt cắt.
8. Vị trí ( Site): Vị trí cũng là một yếu tố rất quan trọng để phân biệt được
các đối tượng. Cùng một dấu hiệu ảnh, song ở các vị trí khác nhau có thể là
các đối tượng khác nhau.
9. Màu ( Colour): Màu của đối tượng trên ảnh màu giả ( FCC) giúp cho
người giải đoán có thể phân biệt nhiều đối tượng có đặc điểm tôn ảnh tương tự
như nhau trên ảnh đen trắng. Tổ hợp màu giả thông dụng trong ảnh Landsat
la xanh lơ (blue), xanh lục (green) và đỏ (red) thể hiện các nhóm yếu tố cơ
bản là: thực vật từ màu hồng đến màu đỏ, nước xanh lơ nhạt đến xanh lơ xẫm,
đất trống, đá lộ có màu trắng. Ngoài ra, một số đối tượng khác cũng có màu
đặc biệt: đô thị màu xanh lơ, rừng ngập mặn: màu đỏ xẫm đến nâu xẫm, đất
trồng màu có cây vụ đông các loại màu hồng đến màu vàng. Ngoài 3 tổ hợp
- Xem thêm -