Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ĐẾN NĂM 201...

Tài liệu ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ĐẾN NĂM 2015, ĐỊNH HƢỚNG ĐẾN NĂM 2020

.PDF
82
120
141

Mô tả:

ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ĐẾN NĂM 2015, ĐỊNH HƢỚNG ĐẾN NĂM 2020
HỘI VÔ TUYẾN ĐIỆN TỬ VÀ TIN HỌC HẢI PHÒNG ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ĐẾN NĂM 2015, ĐỊNH HƢỚNG ĐẾN NĂM 2020 HẢI PHÒNG, NĂM 2011 MỤC LỤC Trang PHẦN MỞ ĐẦU 2 1. Sự cần thiết 2 2. Căn cứ pháp lý 2 3. Mục tiêu, nhiệm vụ 3 Chƣơng I: Cơ sở lý luận, kinh nghiệm phát triển nhân lực công nghệ thông tin trên thế giới, khu vực và trong nƣớc 1. Hệ thống các văn bản 5 2. Cơ sở lý luận 6 3. Hệ thống các chính sách 27 4. Kinh nghiệm phát triển nhân lực công nghệ thông tin 36 Chƣơng II: Hiện trạng nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng 40 1. Nhân lực CNTT trong khối các cơ quan nhà nước 2. Nhân lực CNTT trong khối các danh nghiệp 3. Nhân lực CNTT trong khối giáo dục và đào tạo Chƣơng III: Dự báo nhu cầu và xu thế phát triển nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hƣớng 2020 64 Chƣơng IV: Phát triển nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hƣớng 2020 1. Quan điểm 71 2. Mục tiêu đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 72 3. Nhiệm vụ 73 4. Giải pháp 75 PHẦN KẾT LUẬN 81 1 MỞ ĐẦU 1. SỰ CẦN THIẾT Thành phố Hải Phòng là đô thị loại I cấp Quốc gia, là một trong ba cực tăng trưởng quan trọng của cùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, là thành phố cảng, công nghiệp giàu truyền thống, nằm ở vị trí thuận lợi giao lưu với các địa phương trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc. Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 05/8/2003 của Bộ Chính trị đã khẳng định vị trí, vai trò của Hải Phòng đối với vùng và cả nước “Thành phố cảng, công nghiệp hiện đại; là đô thị trung tâm cấp quốc gia; đầu mối giao thông quan trọng và cửa chính ra biển của các tỉnh phía Bắc, có cảng nước sâu (nếu điều kiện kỹ thuật cho phép); một cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế động lực phía Bắc; một trọng điểm phát triển kinh tế biển; một trong những trung tâm công nghiệp, thương mại lớn của cả nước và trung tâm dịch vụ, du lịch, thủy sản, giáo dục và y tế của vùng duyên hải Bắc Bộ; một pháo đài bất khả xâm phạm về quốc phòng-an ninh; có tổ chức đảng và hệ thống chính trị không ngừng lớn mạnh, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Phấn đấu Hải Phòng là một trong những địa phương đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp văn minh, hiện đại trước năm 2020”. Thực hiện Nghị quyết Trung ương, phấn đấu đưa Hải Phòng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở thành thành phố công nghiệp văn minh, hiện đại trước năm 2020, thành phố Hải Phòng đã sớm có nhiều nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, bền vững, tăng hàm lượng tri thức, gia tăng giá trị, hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường. Một trong các ngành được thành phố ưu tiên lựa chọn để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế là công nghệ thông tin. Thông báo kết luận của Ban Thường vụ Thành ủy Hải Phòng số 98-TB/TU ngày 21/11/2007 về kết quả thực hiện Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; một số giải pháp đẩy mạnh thực hiện giai đoạn 2006-2010, đã nêu rõ “đẩy mạnh phát triển công nghiệp công nghệ thông tin trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, chủ lực, phát triển bền vững, tăng trưởng cao, ổn định, định hướng vào xuất khẩu, là hạt nhân thúc đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH thành phô và vùng lân cận”. Để phát triển công nghệ thông tin nói riêng và thông tin truyền thông nói chung thì yếu tố quan trọng hàng đầu là nguồn nhân lực. Trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông, việc phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là việc hết sức cần thiết và cấp bách. Thực tế cũng chứng minh nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong đời sống kinh tế-xã hội ngày càng cao, nguồn nhân lực công nghệ thông tin ngày càng phải phát triển cả về số lượng và chất lượng nhằm đáp ứng các đòi hỏi của 2 thực tế, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm đến vấn đề này, Chỉ thị số 58CT/TW của Bộ Chính trị đã nêu rõ “Phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin là yếu tố then chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin”. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn phải phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố, Hội Vô tuyến điện tử và Tin học Hải Phòng thực hiện xây dựng Đề án phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. 2. CĂN CỨ PHÁP LÝ Ngày 14/7/2009 Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng có Quyết định số 1344/QĐ-UBND về việc phê duyệt Đề cương đề án Phát triển nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng 2020, giao Hội Vô tuyến điện tử và Tin học Hải Phòng chủ trì thực hiện Đề án. Ngày 24/7/2009, thực hiện chỉ đạo của Ủy ban nhân dân thành phố, Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hải Phòng ký Hợp đồng số 17/HĐ-CNTTSTTTT với Hội Vô tuyến điện tử và tin học Hải Phòng thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đề án Phát triển nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng 2020. 3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ 1. Mục tiêu: Nguyên cứu xây dựng đề án Phát triển nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng 2020 nhằm tìm ra các giải pháp hữu hiệu tham mưu cho thành phố phát triển nhân lực công nghệ thông tin đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, có cơ cấu hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực đó phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thành phố. 2. Nhiệm vụ: 1. Nghiên cứu cơ sở lý luận, kinh nghiệm phát triển nhân lực công nghệ thông tin trên thế giới, khu vực và trong nước: - Thu thập, xử lý thông tin, tư liệu có liên quan đến định hướng, khung pháp lý cho phát triển nhân lực CNTT. Thu thập, xử lý thông tin, tư liệu có liên quan đến kinh nghiệm phát triển nhân lực công nghệ thông tin trên thế giới, khu vực và trong nước. - Nghiên cứu khái niệm, những nội hàm liên quan đến nhân lực CNTT và phát triển nhân lực CNTT, các cơ chế, chính sách, luật pháp liên quan đến nhân lực CNTT và phát triển nhân lực CNTT. - Định hướng phát triển nhân lực CNTT của Đảng, nhà nước và thành phố trong sự nghiệp CNH, HĐH. - Sự nghiệp CNH, HĐH thành phố Hải Phòng đến năm 2020 đặt ra các yêu cầu cho định hướng phát triển nhân lực CNTT thành phố. 3 - Cơ sở lý luận cho việc đề xuất quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp nhân lực CNTT thành phố Hải Phòng đến năm 2020. 2. Đánh giá thực trạng nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng - Khảo sát, đánh giá vai trò của nhân lực CNTT trong sự nghiệp CNH, HĐH của Thành phố; quy mô, cơ cấu, chất lượng, nguồn, thu hút, sử dụng, đãi ngộ nhân lực CNTT của thành phố; công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân lực CNTT của thành phố. - Đối tượng khảo sát: các quận huyện, sở ngành, các ban của Thành ủy, các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp. 3. Nghiên cứu dự báo nhu cầu và xu thế phát triển nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng 2020 - Nghiên cứu dự báo nhu cầu và xu thế phát triển nhân lực CNTT của thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng 2020. - Nghiên cứu Đểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi và khó khăn đối với phát triển nhân lực CNTT của thành phố Hải Phòng đến năm 2015, 2020. Xu hướng phát triển nhân lực CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của thành phố. - Nghiên cứu Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành phố đặt ra yêu cầu về quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phát triển nhân lực CNTT Hải Phòng đến 2020. 4. Nghiên cứu xây dựng các quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng 2020 - Quan điểm về vị trí, vai trò của phát triển phát triển nhân lực CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa thành phố đến năm 2020; về nội dung, nhiệm vụ phát triển nhân lực CNTT thành phố Hải Phòng; về giải pháp phát triển nhân lực CNTT thành phố. - Mục tiêu đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 + Về vai trò của nhân lực CNTT trong sự nghiệp CNH, HĐH của Thành phố. + Về quy mô, cơ cấu, chất lượng, nguồn, thu hút, sử dụng, đãi ngộ nhân lực CNTT của thành phố . + Về bồi dưỡng, đào tạo nhân lực CNTT của thành phố . - Nghiên cứu về nhiệm vụ phát triển nhân lực CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH thành phố đến năm 2015, định hướng 2020: - Nhiệm vụ phát triển về quy mô, cơ cấu, chất lượng. - Nhiệm vụ thu hút, sử dụng, đãi ngộ nhân lực CNTT của thành phố. - Nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo nhân lực CNTT của thành phố. 4 5. Nghiên cứu xây dựng những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy phát triển nhân lực công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng 2020 - Nhóm giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển về quy mô, cơ cấu, chất lượng. - Nhóm giải pháp thực hiện nhiệm vụ thu hút, sử dụng, đãi ngộ nhân lực CNTT của thành phố. - Nhóm giải pháp thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng, đào tạo nhân lực CNTT của thành phố. 4. NỘI DUNG ĐỀ ÁN Phần mở đầu Chƣơng I: Cơ sở lý luận, kinh nghiệm phát triển nhân lực CNTT trên thế giới, khu vực và trong nước. 1. Hệ thống các văn bản 2. Cơ sở lý luận 3. Hệ thống chính sách 4. Kinh nghiệm phát triển nhân lực CNTT Chƣơng II: Hiện trạng nhân lực CNTT thành phố Hải Phòng. Chƣơng III: Dự báo nhu cầu và xu thế phát triển nhân lực CNTT thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Chƣơng IV: Phát triển nhân lực CNTT thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Chƣơng V: Một số giải pháp chủ yếu phát triển nhân lực CNTT thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Phần kết luận 5 CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 1. HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN - Luật số 67/2006/QH11 về công nghệ thông tin do Quốc hội ban hành ngày 29/06/2006; - Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005; - Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Quyết định 246/2005/QĐ-TTG ngày 06/10/2005 phê duyệt chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. - Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/06/2009 phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân công nghệ thông tin đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. - Quyết định số 05/2007/QĐ-BTTTT ngày 26/10/2007 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin Việt Nam đến năm 2020. - Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 của Chính phủ về Ứng dụng Công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan Nhà nước. - Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 3/5/2007 của Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật Công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin. - Quyết định số 51/2007/QĐ-TTg ngày 12/04/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp phần mềm Việt Nam đến năm 2010. - Quyết định số 56/2007/QĐ-TTg ngày 3/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp nội dung số Việt Nam đến năm 2010. - Quyết định số 75/2007/QĐ-TTg ngày 28/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. - Quyết định số 15/2007/QĐ-BBCVT ngày 15/6/2007 của Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghệ thông tin và truyền thông vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. - Chiến lược phát triển khoa học - công nghệ thành phố Hải Phòng đến năm 2010, định hướng 2020. 6 - Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015. - Chiến lược phát triển công nghệ thông tin thành phố Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Khái niệm nhân lực và phát triển nhân lực công nghệ thông tin 2.1.1. Nguồn nhân lực Quá trình phát triển kinh tế - xã hội đòi hỏi phải huy động tổng hợp các nguồn lực với tư cách là những yếu tố đầu vào cần thiết để sản xuất hàng hoá hoặc hoạt động dịch vụ, gồm nguồn lực vật chất, điều kiện tự nhiên, khí hậu, đất đai, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, vốn, khoa học – kỹ thuật, đặc biệt là nguồn lực con người hay còn gọi là nguồn nhân lực. Khái niệm nguồn nhân lực được hiểu ở những cấp độ rộng, hẹp khác nhau. Dưới góc độ ngôn ngữ học, thuật ngữ nguồn nhân lực là từ ghép bao gồm từ “nguồn” - nơi phát sinh, tạo ra hoặc cung cấp cái gì đó. Khái niệm “nguồn lực” chỉ ra cái khởi nguyên, cội nguồn sản sinh ra, nuôi dưỡng các yếu tố vật chất và tinh thần làm nên năng lực và sức mạnh của sự phát triển. Nó bao gồm không chỉ những năng lực, sức mạnh hiện có, mà còn cả những năng lực, sức mạnh dưới dạng tiềm năng, khi có điều kiện sẽ trở thành hiện thực. Chẳng hạn, nguồn vốn cho CNH, HĐH, bao gồm: nguồn vốn trong nước như tiền mặt, tài sản có giá trị của quốc gia và của nhân dân và nguồn vốn nước ngoài, như: nguồn vốn hỗ trợ phát triển (ODA), nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)… Các nguồn vốn này không phải là bất biến, chúng luôn được tăng lên theo sự phát triển của thị trường và tự do thương mại nhờ trí tuệ và sức lao động của con người. Như vậy, nguồn nhân lực có thể được hiểu là sức người được cung cấp trong quá trình sản xuất. Nói một cách khái quát, nguồn nhân lực là toàn bộ khả năng về thể lực, trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có tiềm năng đem lại thu nhập khi được sử dụng trong sản xuất. Trên bình diện một địa phương hay một quốc gia, nguồn nhân lực (nguồn lực con người, nguồn tài nguyên người) là tổng thể các tiềm năng về sức lao động của một địa phương, một quốc gia, tức là nguồn nhân lực được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau, sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó; tức là những người lao động có kỹ năng hay khả năng đáp ứng được các yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Nguồn nhân lực với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường (không bị khuyết tật hoặc dị tật bẩm sinh); Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát 7 triển kinh tế - xã hội bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp trí tuệ, sức lực cá nhân những người tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động. Theo tổ chức Liên hiệp quốc, nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, kiến thức và năng lực hiện có thực tế và dưới dạng tiềm năng của con người (lực lượng lao động) để phát triển kinh tế – xã hội trong một cộng đồng. Nguồn nhân lực là toàn bộ kỹ năng, tri thức và khả năng của con người được sử dụng thực tế hoặc dưới dạng tiềm năng vì sự phát triển kinh tế hoặc xã hội trong một cộng đồng. Từ những quan niệm trên đây có thể hiểu: Nguồn nhân lực là tổng hợp những năng lực, sức mạnh hiện có thực tế và dưới dạng tiềm năng của lực lượng người, mà trước hết, là lực lượng lao động đang và sẵn sàng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Bao gồm những người lao động có trí tuệ cao, tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học hiện đại. Với quan niệm như trên, nguồn nhân lực gồm 3 yếu tố cơ bản: số lượng, chất lượng và cơ cấu. - Số lượng nguồn nhân lực là tổng số lao động đã và đang được đào tạo, đang và sẵn sàng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Nó được quy định bởi quy mô dân số: số lượng dân, mật độ dân số, tốc độ tăng dân số, tỷ lệ sinh - tử. Trên thực tế, có hai nhóm yếu tố tác động ảnh hưởng đến số lượng nguồn nhân lực: nhóm yếu tố tự nhiên (tác động của nhu cầu và quy luật sinh học đến tỷ lệ sinh đẻ và tử vong của con người, làm tăng hay giảm dân số và lao động một cách tự nhiên) và nhóm yếu tố xã hội (di dân làm tăng hay giảm dân số và lao động trong một không gian và thời gian nhất định). - Chất lượng nguồn nhân lực là tổng hợp những phẩm chất, năng lực, sức mạnh của người lao động đang và sẵn sàng thể hiện trong thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội. Nó bao gồm những yếu tố cơ bản như thể lực, trí tuệ, đạo đức, năng lực và thẩm mỹ của người lao động, trong đó, trí tuệ, đạo đức, năng lực là những yếu tố quan trọng nhất. Trí tuệ là năng lực nhận thức, năng lực tư duy sáng tạo và thích ứng với hoàn cảnh sống của con người, trí tuệ thuộc lĩnh vực tinh thần của con người, “thể hiện qua việc huy động có hiệu quả lượng tri thức tích lũy vào quá trình sáng tạo cái mới, nhằm cải biến tự nhiên, xã hội và bản thân con người trong sự phát triển ngày càng tiến bộ, văn minh”. Khi đánh giá vai trò của trí tuệ đối với sự phát triển xã hội, C.Mác đã chỉ rõ: “lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa”. Điều này có nghĩa là trong cùng một điều kiện và 8 một đơn vị thời gian, lao động phức tạp (lao động có hàm lượng trí tuệ) tạo ra được giá trị gấp bội lần giá trị lao động giản đơn (lao động chủ yếu bằng sức cơ bắp) tạo ra. Cùng với năng lực trí tuệ, đạo đức là thành phần cơ bản không thể tách khỏi chất lượng nguồn nhân lực. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đức và tài luôn gắn bó với nhau, đức như là gốc của cây, nguồn của sông. Người có đức mà không có tài thì chẳng khác nào ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai nhưng cũng chẳng có ích gì, ngược lại người có tài mà không có đức thì chẳng khác gì một người làm kinh doanh giỏi, kiếm được nhiều lãi nhưng tham ô, lãng phí, ăn cắp của công, vi phạm luật pháp… thì như vậy, chỉ có hại cho nước, cho dân, còn sự nghiệp của bản thân sớm muộn sẽ đổ vỡ. Vì vậy, đức là gốc, là vốn quý của cá nhân con người, của tập thể và của cả dân tộc. Hồ Chí Minh cho rằng, một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc văn minh, tiến bộ. Với tư cách là yếu tố quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực, thẩm mỹ định hướng việc bồi dưỡng nhu cầu, khát vọng của trí tuệ, đạo đức và năng lực của con người theo tiêu chuẩn của giá trị “chân, thiện, mỹ”. “Sự phát triển của thẩm mỹ đúng đắn sẽ có tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển trí tuệ ở trình độ cao hơn, đặc biệt nó có giá trị định hướng cho các hoạt động trí tuệ, cho việc sử dụng các thành tựu của trí tuệ, của khoa học vào những mục đích nhân văn, tiến bộ xã hội vì cuộc sống hạnh phúc của con người”. - Cơ cấu nguồn nhân lực được quy định chủ yếu bởi cơ cấu đào tạo lao động và cơ cấu kinh tế. Đó là một tỷ lệ nhất định những lao động đã qua đào tạo: công nhân kỹ thuật - trung cấp nghề - đại học và trên đại học. Hiện nay, cơ cấu này của Việt Nam là: 0,92 -1,13 - 1; của thế giới là: 5 -3 -1. Cơ cấu kinh tế quy định cơ cấu lao động đang làm việc trong nền kinh tế được phân theo các lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế quốc dân: nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ. Ngoài ra còn có cơ cấu theo giới tính, theo vùng miền… Hiện nay, với nhiều nguyên nhân mà lao động nam giới qua đào tạo, có tay nghề luôn chiếm tỷ lệ cao hơn nữ giới và lao động ở thành thị có chất lượng cao hơn ở nông thôn, lao động ở vùng đồng bằng có tay nghề tốt hơn lao động ở vùng sâu, vùng xa. Một xã hội có cơ cấu đào tạo khoa học và cơ cấu lao động hợp lý sẽ làm tăng số lượng, chất lượng nguồn nhân lực và ngược lại. Vì vậy, cơ cấu nguồn nhân lực là một yêú tố rất quan trọng cấu thành nguồn nhân lực. Như vây, nguồn nhân lực là tổng hợp các khả năng của cá nhân người lao động, trong đó bao gồm cả năng lực trí tuệ, khả năng chuyên môn, những yếu tố tình cảm, tinh thần, tâm lý được vận dụng trong quá trình lao động, sản xuất; là tập hợp những người trong độ tuổi lao động và có khả năng lao động được huy động vào quá trình sản xuất ở các mức độ khác nhau và mối quan hệ, sự hợp tác của họ trong lao động. 2.1.2. Phát triển nguồn nhân lực 9 Phát triển nguồn nhân lực là vấn đề mang tính thời sự được các nhà hoạch định chính sách của nhiều quốc gia quan tâm nghiên cứu. Mỗi quốc gia, mỗi tổ chức khác nhau đã đưa ra những định nghĩa khác nhau về vấn đề này. Với tính cách là một khái niệm khoa học, phát triển nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi từ thập niên 70 của thế kỷ XX đến nay, dựa trên quan niệm về vai trò và giá trị của con người trong phát triển. Quan điểm này nhận được sự ủng hộ của nhiều quốc gia. UNESCO cho rằng, phát triển nguồn nhân lực như là toàn bộ kỹ năng của dân số - population, liên quan đến sự phát triển của các quốc gia, phát triển con người toàn diện, trong đó phải quán triệt bản chất và ý nghĩa của các giá trị nhân văn, nhân đạo – đó là nguyên tắc chỉ đạo các con đường phát triển. UNIDO định nghĩa: “Phát triển nguồn nhân lực là chủ thể và khách thể của sự phát triển quốc gia, nó bao gồm toàn bộ khía cạnh kinh tế và công nghiệp, trong đó có đề cập đến sự nâng cao khả năng của con người, nâng cao năng lực sản xuất, khả năng sáng tạo, khuyến khích các chức năng lãnh đạo… thông qua giáo dục, đào tạo, nghiên cứu”... Theo tổ chức FAO: Phát triển nguồn nhân lực là quá trình mở rộng các khả năng tham gia phát triển nông thôn một cách hiệu quả, bao gồm cả việc tăng cường khả năng sản xuất. Dưới góc độ quản trị nhân sự: phát triển nguồn nhân lực là toàn bộ các hoạt động của tổ chức nhằm thu hút các ứng viên có giá trị, đảm bảo việc hoàn thiện nhân viên và giữ cho năng suất lao động của họ đạt được mức cao. Trong hoạt động thực tiễn, trên lĩnh vực nguồn nhân lực cần phân biệt sự giống và khác nhau giữa hai khái niệm “phát triển nguồn nhân lực” và “quản lý nguồn nhân lực”. Đây là hai khái niệm có những điểm giống nhau căn bản: đối tượng tác động của phát triển nguồn nhân lực và quản lý nguồn nhân lực đều là chất lượng của nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất, năng lực, trình độ…). Điểm khác nhau cơ bản của hai khái niệm này là: quản lý nguồn nhân lực là quá trình tác động có định hướng của chủ thể quản lý (người sử dụng lao động) đến đối tượng quản lý (người lao động) nhằm huy động cao nhất hệ thống phẩm chất, năng lực, sức khoẻ của họ vào thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của tổ chức; quản lý nguồn nhân lực là một dạng của hoạt động quản lý hướng đến mục tiêu làm cho tổ chức tồn tại, vận động và phát triển. Còn phát triển nguồn nhân lực luôn luôn gắn liền với sự phát triển của từng con người cụ thể trong tổ chức mà mục tiêu cao nhất là nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức đó. Dưới góc độ quản trị nguồn nhân lực thì khái niệm phát triển nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể các hoạt động học tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để tạo ra sự thay đổi về hành vi nghề nghiệp cho người lao động, được thực hiện bởi doanh nghiệp. Theo quan niệm này thì 10 phát triển nguồn nhân lực bao gồm tất cả các hoạt động học tập, thậm chí chỉ vài ngày, vài giờ… Những quan điểm trên, về cơ bản, đã chỉ ra những khía cạnh khác nhau của phát triển con người với phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên, vẫn còn sự lẫn lộn giữa chúng. Phát triển con người là một khái niệm rộng hơn phát triển nguồn nhân lực. Phát triển con người là sự phát triển từ lúc sinh ra đến lúc từ giã cõi đời và từ phát triển thể chất, tâm lý, nhu cầu, tình cảm đến ý thức, đạo đức, năng lực, trí tuệ, kỹ năng… tức là phát triển toàn diện con người với tính cách là chủ thể của tự nhiên và xã hội. Trên ý nghĩa này, “con người được đặt ở trung tâm của sự phát triển”. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực, trên bình diện xã hội, là chỉ quá trình phát triển nguồn lực con người từ dạng tiềm năng thành vốn con người – vốn nhân lực và chuyển vốn này vào hoạt động kinh tế – xã hội. Điều này xuất phát từ sự thống nhất giữa năng lực xã hội và tính năng động xã hội trong nguồn lực con người. Dưới góc độ năng lực xã hội, nguồn lực con người thực chất là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân cư, có khả năng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Nguồn lực con người là tổng thể những tiềm năng của con người, trước hết và quan trọng nhất là tiềm năng lao động. Tiềm năng đó bao hàm năng lực về thể lực, trí lực và nhân cách con người. Mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ, tuỳ theo điều kiện và trình độ phát triển, tiềm năng đó, có những đặc điểm riêng khác nhau, nó được biểu hiện bằng số lượng, chất lượng và cơ cấu lao động. Tiềm năng đó, hình thành năng lực xã hội của con người, là vô hạn. Song, nếu chỉ xem xét nguồn lực con người dưới dạng tiềm năng thì chưa đủ, vấn đề quan trọng là phải khai thác tiềm năng đó như thế nào và bằng biện pháp gì để biến tiềm năng đó thành hiện thực. Do vậy, nguồn nhân lực còn được xem xét ở góc độ thứ hai, đó là tính năng động xã hội của con người. Nguồn lực con người ở dạng tiềm năng là trạng thái tĩnh, mặc dù nó luôn luôn phát triển. Nguồn lực đó cần được chuyển sang trạng thái động, tức là cần được phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả và không ngừng nâng cao tính năng động sáng tạo của con người. Điều này liên quan đến hệ thống các chính sách, thể chế và giải pháp nhằm giải phóng triệt để tiềm năng con người, đó chính là nội dung phát triển nguồn nhân lực. Xét ở góc độ cá nhân, phát triển nguồn nhân lực chính là việc nâng cao sức khỏe, trí tuệ, đạo đức, năng lực chuyên môn, lành nghề, kỹ năng thực hành để tăng năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống. Chuyên gia kinh tế hàng đầu của Nhật Bản, chủ tịch hãng Sony Akio Naorita nhận xét: “Sự phồn vinh của một đất nước nằm trong óc sáng tạo, nền văn hóa giáo dục và khả năng sáng tạo công nghệ mới…”. Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng nêu rõ: “Phát triển công nghệ thông tincùng với 11 phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra kết luận: Phát triển nguồn nhân lực, về thực chất, là nâng cao giá trị nguồn nhân lực con người chủ yếu trên các phương diện thể lực, trí tuệ, đạo đức, năng lực, kỹ năng, thẩm mỹ, sự lành nghề… và phát huy hiệu quả tối đa của các phương tiện đó trong phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Phát triển nguồn nhân lực bao gồm 3 nội dung cơ bản: Phát triển nguồn nhân lực về số lượng, về chất lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. - Phát triển nguồn nhân lực về số lượng có liên quan đến tốc độ gia tăng dân số và lực lượng lao động với quy mô và cơ cấu hợp lý, bảo đảm có lực lượng lao động dồi dào với cơ cấu trẻ. Trước hết, cần bảo đảm tỷ lệ sinh đẻ hợp lý phù hợp với quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế; đảm bảo cơ cấu về độ tuổi, giới tính cân đối thích hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Một quốc gia có quy mô dân số hợp lý, lực lượng lao động dồi dào với cơ cấu trẻ – đó là điều kiện tốt để phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng. - Phát triển nguồn nhân lực về mặt chất lượng là phát triển những phẩm chất, năng lực và sức mạnh của con người. Cụ thể là nâng cao thể lực, trí tuệ, đạo đức, năng lực, kỹ năng, thẩm mỹ… của người lao động. Phát triển chất lượng nguồn nhân lực được tác động, chi phối bởi những yếu tố sức khỏe và dinh dưỡng, giáo dục – đào tạo, giá trị văn hóa truyền thống và môi trường sống, trong đó, giáo dục – đào tạo giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, không có một sự tiến bộ nào, sự thành đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong lĩnh vực giáo dục của quốc gia. Những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết tiến hành sự nghiệp giáo dục một cách hiệu quả thì quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ hơn cả sự phá sản. - Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực: việc phát triển nguồn nhân lực về số lượng và chất lượng chỉ đạt được kết quả tốt khi gắn chúng với việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Nói cách khác, hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực vừa và yếu tố cấu thành sự phát triển nguồn nhân lực, vừa là tiêu chí chủ yếu đánh giá nó. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, trước hết cần xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, phương pháp, nghệ thuật dùng người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Không có ai cái gì cũng tốt, cái gì cũng hay. Vì vậy, chúng ta phải khéo dùng người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ. Thường chúng ta không biết tuỳ tài mà dùng người. Thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử hai người đều lúng túng. Nếu biết tuỳ tài mà dùng người, thì hai người đều thành công”. Việc dùng người yêu cầu không chỉ “đặt đúng người, đúng việc”, mà còn 12 phải bồi dưỡng, tạo điều kiện tối đa để con người có thể phát huy được sở trường, năng lực sáng tạo của họ trong công việc. Để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, cần bảo đảm tăng trưởng kinh tế một cách ổn định, kìm chế lạm phát dưới một con số, gắn tăng trưởng kinh tế với xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, tạo ra nhiều việc làm mới có chất lượng; đồng thời bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của người lao động và không ngừng nâng cao mức sống của mọi tầng lớp dân cư. 2.1.3. Khái niệm nhân lực công nghệ thông tin Theo Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/06/2009 của Thủ tướng Chính phủ: Nhân lực CNTT được hiểu là nhân lực làm công tác đào tạo về CNTT, điện tử, viễn thông; nhân lực chuyên nghiệp về CNTT, điện tử, viễn thông làm trong các doanh nghiệp và công nghiệp; nhân lực cho ứng dụng CNTT của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; cán bộ, viên chức và mọi người dân sử dụng, ứng dụng CNTT. Phát triển mạnh nguồn nhân lực CNTT là nhằm đảm bảo đủ nhân lực CNTT phục vụ nhu cầu phát triển và ứng dụng CNTT điện tử, viễn thông, phục vụ công cuộc xây dựng kinh tế tri thức và xã hội thông tin, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Theo Quyết định số 05/2007/QĐ-BTTTT ngày 26/10/2007 của Bộ Thông tin và Truyền thông: Nguồn nhân lực CNTT bao gồm nhân lực làm việc trong các doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp công nghiệp CNTT; nhân lực cho ứng dụng CNTT; nhân lực cho đào tạo CNTT, điện tử, viễn thông và người dân sử dụng các ứng dụng CNTT. Theo Luật công nghệ thông tin: 1. CNTT là tập hợp các phương pháp khoa học, công nghệ và công cụ kỹ thuật hiện đại để sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số. 2. Phát triển CNTT là hoạt động nghiên cứu - phát triển liên quan đến quá trình sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số; phát triển nguồn nhân lực CNTT; phát triển công nghiệp CNTT và phát triển dịch vụ CNTT. Vậy ta có khái niệm nhân lực công nghệ thông tin theo Theo Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/06/2009 của Thủ tướng Chính phủ làm căn cứ để nghiên cứu về nhân lực công nghệ thông tin. Nhân lực công nghệ thông tin bao gồm những người đáp ứng được các điều kiện sau đây: 13 + Đã tốt nghiệp đại học hoặc cao đẳng về một chuyên ngành công nghệ thông tin. + Tuy chưa đạt được điều kiện nêu trên, nhưng làm việc trong một lĩnh vực công nghệ thông tin đòi hỏi phải có trình độ tương đương. và bao gồm 5 thành phần thuộc về nhân lực CNTT: + Cán bộ nghiên cứu trong các viện nghiên cứu, các trường Đại học. + Cán bộ kỹ thuật, công nghệ (kỹ thuật viên, kỹ sư, …) làm việc trong các doanh nghiệp. + Các cá nhân thuộc mọi tầng lớp xã hội yêu thích khoa học kỹ thuật, có sáng kiến cải tiến, ứng dụng CNTT vào sản xuất và đời sống. + Cán bộ quản lý các cấp (kể cả quản lý doanh nghiệp) tham gia hoặc chỉ đạo công việc nghiên cứu phục vụ hoạch định các quyết sách, quyết định quan trọng trong thẩm quyền của mình. + Trí thức người Việt Nam ở nước ngoài và các chuyên gia nước ngoài tại Việt Nam. Tóm tại nhân lực công nghệ thông tin là tập hợp những nhóm người tham gia vào hoạt động công nghệ thông tin với các chức năng nghiên cứu, sáng tạo, giảng dạy, quản lý, khai thác sử dụng và tác nghiệp, góp phần quyết định tạo ra sự tiến bộ của CNTT, của sự phát triển sản xuất và xã hội. Trên cơ sở tổng hợp những khái niệm về nhân lực công nghệ thông tin nêu trên, có thể hiểu: Nhân lực công nghệ thông tin là toàn bộ tiềm năng lao động có thể tham gia làm việc trong lĩnh vực công nghệ thông tin mà trực tiếp nhất là những người tham gia nghiên cứu khoa học, sáng tạo, ứng dụng, chuyển giao công nghệ phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước. 2.1.4. Nội dung phát triển nhân lực công nghệ thông tin * Khái niệm phát triển nhân lực CNTT: Nguồn nhân lực công nghệ thông tin luôn luôn là nguồn lực to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là yếu tố vật chất quan trọng nhất, quyết định nhất của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế, của xã hội. Đó là lực lượng nghiên cứu, sáng tạo, trực tiếp sử dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới vào quá trình sản xuất cũng như các hoạt động xã hội khác. Do đó, phát triển nhân lực công nghệ thông tin là đòi hỏi cấp bách của một nước đang đẩy mạnh CNH, HĐH như Việt Nam, trước nhu cầu “đi tắt đón đầu” rút ngắn khoảng cách với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Đảng và Nhà nước ta xác định vai trò của công nghệ thông tin. Trong đó, con người và phát huy nguồn lực con người giữ vai trò quyết định. Do đó, vấn đề phát triển nhân lực công nghệ thông tin là một trong những vấn đề mấu chốt đảm bảo thực hiện thành công công cuộc CNH, HĐH đất nước. 14 Từ sự đa dạng của khái niệm nhân lực công nghệ thông tin dẫn đến cách hiểu về phát triển nhân lực công nghệ thông tin có sự khác nhau tuỳ thuộc vào phương pháp tiếp cận. Phát triển nhân lực công nghệ thông tin là sự huy động tối đa toàn bộ kỹ năng tri thức và tiềm năng của nhân lực công nghệ thông tin vào các hoạt động vật chất, phi vật chất vì mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của mỗi cộng đồng. Quan niệm phát triển nhân lực công nghệ thông tin còn được hiểu là quá trình tác động có định hướng của chủ thể vào nguồn nhân lực công nghệ thông tin thông qua các chủ trương, quy trình, chính sách, phương pháp tác động hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, huy động tối đa nhân lực công nghệ thông tin vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội. Từ những điều trình bày ở trên có thể quan niệm: Phát triển nhân lực công nghệ thông tin là tổng thể các hoạt động nhằm xây dựng lực lượng lao động công nghệ thông tin đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi địa phương nói riêng và của đất nước nói chung thông qua các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. * Từ cách tiếp cận nêu trên, hoạt động phát triển nhân lực công nghệ thông tin bao gồm các nội dung: - Kế hoạch hoá nguồn nhân lực công nghệ thông tin: xác lập các loại kế hoạch liên quan đến lực lượng lao động công nghệ thông tin để có cái nhìn tổng quát về nguồn nhân lực công nghệ thông tin của một địa phương hay quốc gia. - Tuyển chọn nhân lực công nghệ thông tin: lựa chọn các ứng viên có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực, từng vị trí công việc trong tổ chức. - Sử dụng nhân lực công nghệ thông tin: thực hiện các chính sách nhằm huy động nhân lực công nghệ thông tin vào hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, phát minh, sáng chế… - Đánh giá nhân lực công nghệ thông tin: từ những tiêu chuẩn, tiêu chí được xây dựng từ trước, tiến hành kiểm định lại kết quả làm việc, cống hiến của đội ngũ lao động công nghệ thông tin, đưa ra những đánh giá cụ thể về những thành tựu, đóng góp cho đơn vị và xã hội cũng như những hạn chế, khuyết điểm để có biện pháp khắc phục. - Đào tạo, bồi dưỡng: từ kết quả đánh giá, chủ thể thấy được những con người cụ thể, những lĩnh vực nào cần đầu tư đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, cập nhật, bổ sung kiến thức nhằm đáp ứng nhiệm vụ trong hiện tại và tương lai. - Thực hiện chính sách đãi ngộ đối với nhân lực công nghệ thông tin bao gồm những đãi ngộ vật chất và chăm lo đời sống tinh thần. Ở phạm vi cá nhân, khái niệm phát triển nhân lực công nghệ thông tin là tổng thể các hoạt động nhằm xây dựng lực lượng lao động công nghệ thông tin 15 hùng hậu; nâng cao thể lực, trí tuệ, đạo đức, năng lực chuyên môn, tay nghề, kỹ năng thực hành của nhân lực công nghệ thông tin để tăng năng suất lao động, tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống. Từ những phân tích trên đây có thể nêu ra những vấn đề chủ yếu của phát triển nhân lực công nghệ thông tin: - Tăng cường về số lượng nhân lực CNTT: thông qua hoạt động giáo dục, đào tạo tại các trường cao đẳng, đại học, các viện, trung tâm nghiên cứu; hoạt động bồi dưỡng tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin: bao gồm nhiều nội dung từ việc tăng cường thể lực, phát triển thể chất của người lao động, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức đến nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng của nhân lực công nghệ thông tin. - Chủ thể tiến hành hoạt động phát triển nhân lực công nghệ thông tin: người sử dụng lao động; các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng; các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghệ thông tin; bản thân người lao động hoạt động trong lĩnh vực công nghệ thông tin… - Đối tượng của phát triển nhân lực công nghệ thông tin là những người đang và sẽ hoạt động, lao động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. 2.2. Những nhân tố ảnh hƣởng đến quá trình phát triển nhân lực công nghệ thông tin 2.2.1. Số lượng, cơ cấu Nguồn nhân lực công nghệ thông tin là một bộ phận quan trọng của nguồn nhân lực của đất nước. Từ nguồn nhân lực của đất nước tiến hành đào tạo, bồi dưỡng và qua công tác thực tiễn phát triển thành nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. Bởi vậy, số lượng (quy mô), cơ cấu của nguồn nhân lực tác động trực tiếp đến quá trình phát triển nhân lực khoa học và công nghệ. Về thực chất, đây là chất lượng dân số, bao gồm quy mô, cơ cấu dân số. Một đất nước có dân số đông, cơ cấu dân số hợp lý, gồm: cơ cấu độ tuổi, sức khoẻ; cơ cấu giới tính, dân tộc, cơ cấu trình độ… thì nguồn nhân lực của đất nước đó dồi dào, phong phú, điều này có vai trò quyết định đến quá trình phát triển nhân lực công nghệ thông tin. Cơ cấu độ tuổi, tức là tỉ lệ giữa tuổi cao và tuổi trẻ trong dân số hợp lý thì đất nước đó có tháp dân số trẻ. Nước ta, theo số liệu thống kê và đánh giá, là nước có tháp dân số trẻ, số lượng lực lượng lao động trẻ chiếm tỉ lệ rất lớn so với người cao tuổi. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhân lực công nghệ thông tin. Một nhân tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển nhân lực công nghệ thông tin là sức khỏe của nguồn nhân lực. Đây là một yêu cầu tất yếu, tiên quyết và không thể thiếu. Bởi sức khỏe là nhân tố quyết định để duy trì sự tồn tại, là cơ sở cốt yếu để tiếp nhận, duy trì và phát triển trí tuệ. Hơn thế, chỉ có sức khỏe mới là 16 cơ sở cho giáo dục đào tạo tốt hơn, mới hình thành được nguồn nhân lực có sức khỏe tốt không chỉ về thể trạng mà cả thể chất của nguồn nhân lực có chất lượng cao. Dân số nước ta trẻ, song sức khoẻ nhìn chung còn chưa tốt so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển nhân lực công nghệ thông tin. Phải có giải pháp hữu hiệu để tắng cường sức khoẻ của nguồn nhân lực nước ta, như một số nước trong khu vực đã làm, họ đã có các giải pháp để cải tạo giống nòi. 2.2.2. Chất lượng nguồn nhân lực Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện ở nhiều phương diện ngoài yếu tố sức khoẻ nêu trên, nó còn được thể hiện ở trình độ học vấn, sự hiểu biết các tri thức của nhân loại. Điều này phụ thuộc vào chất lương giáo dục, đào tạo. Các cơ cấu khác của dân số nước ta như: cơ cấu giới tính, trình độ học vấn. Điều này có vai trò quan trọng đối với việc phát triển nhân lực công nghệ thông tin. Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng công nghệ thông tin thì vai trò của đội ngũ trí thức, lao động chất xám ngày càng tăng và càng có ý nghĩa quyết định tới chất lượng nguồn nhân lực CNTT có chất lượng cao. Trí tuệ - lao động trí tuệ là nhân tố quan trọng hàng đầu của nguồn nhân lực CNTT trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ngày nay. Trí tuệ của nguồn nhân lực CNTT được thể hiện thông qua tri thức. Tuy nhiên, tri thức chỉ thực sự trở thành nguồn lực khi nó được con người tiếp thu, làm chủ và sử dụng chúng. Điều này phụ thuộc và được quyết định chủ yếu bởi chất lượng giáo dục đào tạo của từng quốc gia. Ở nước ta, sự nghiệp giáo dục và đào tạo có sự phát triển tạo điều kiện rất thuận lợi để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhân tố quyết định chất lượng của nhân lực công nghệ thông tin. Việc phân tích nhân tố trên đây cho thấy vai trò của nguồn nhân lực nói chung đặc biệt là nguồn nhân lực CNTT, lao động trí tuệ rất quan trọng là nhân tố có vai trò quyết định đối với nguồn nhân lực của xã hội, đánh dấu bước phát triển của một xã hội nhất định trong điều kiện quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay. Để có được nguồn nhân lực CNTT có chất lượng cao không có cách nào khác hơn là nâng cao chất lượng của giáo dục, đào tạo. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo góp phần quan trọng nhất tạo nên sự chuyển biến căn bản về chất lượng của nguồn nhân lực, nhân tố đặc biệt quan trọng để phát triển nhân lực khoa học và công nghệ. 2.2.3. Văn hoá, truyền thống Văn hoá, truyền thống của dân tộc là nhân tốt rất quan trọng tạo nên chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, đảm bảo cho nguồn nhân lực đó mang đậm bản sắc dân tộc, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. 17 Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước, tinh thần bất khuất độc lập, tự chủ, điều này rất cần thiết để tiếp thu tri thức của nhân loại, của nước ngoài nhưng không bị phụ thuộc. Trong xã hội Việt Nam, gia đình là tế bào của xã hội. Đối với con người Việt Nam hiện đại, cuộc sống gia đình hòa thuận theo quan niệm truyền thống là nhân tố quan trọng chí phối tâm thức của họ. Đối với một số quy phạm đạo đức truyền thống như đạo hiếu, lối sống thanh bạch, trong sạch, lòng nhân ái, sẵn sàng tương trợ người khác trong những lúc gặp khó khăn hoạn nạn là những nhân tố cần phát huy và có ý nghĩa nhất định đối với chất lượng nguồn nhân lực. Cần lưu ý rằng, cuộc sống theo cơ chế thị trường thời mở cửa cũng có không ít tác động làm biến đổi những giá trị truyền thống đó. “Trong cuộc điều tra xã hội học của Bộ Giáo dục và Đào tạo về tìm hiểu mục đích học tập của sinh viên cho thấy: 92,8% trả lời rằng phấn đấu để có được địa vị xã hội là mục đích gần với mong muốn của họ nhất. Xếp thứ hai trong bảng giá trị là làm giàu (87,2%). Trong khi đó mục đích phấn đấu để thành đạt trong chuyên môn đứng ở vị trí gần cuối bảng (62,8%)”. Bên cạnh những tác động của giá trị truyền thống đối với chất lượng nguồn nhân lực và phát triển nhân lực công nghệ thông tin cũng có những tác động ngược chiều đáng suy nghĩ. Trước hết, đó là tình trạng thờ ơ, thiếu quan tâm, chưa thấy được sự kế thừa cần thiết những di sản văn hóa dân tộc, công trình văn hóa, di tích lịch sử, các loại hình nghệ thuật truyền thống. Số người ham thích, yêu mến những vấn đề này rất khiêm tốn… Tình trạng đó cũng ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục chất lượng nguồn nhân lực CNTT Việt Nam trong điều kiện thực hiện kinh tế thị trường. 2.2.4. Cơ chế, chính sách của Nhà nước Sự phát triển nhân lực công nghệ thông tin phụ thuộc và được quyết định bởi cơ chế, chính sách của Nhà nước. Cơ chế, chính sách ấy là sự cụ thể hoá, thể chế hoá chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển nhân lực khoa học và công nghệ. Qua cơ chế, chính sách, Đảng, Nhà nước định hướng sự phát triển nhân lực công nghệ thông tin phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với xu hướng phát triển của dân tộc. Qua cơ chế, chính sách, Nhà nước có thể điều chỉnh sự phát triển nhân lực CNTT, định hướng sự phát triển manh mẽ bộ phận này, hạn chế bộ phận kia phù hợp với đòi hỏi của đất nước trong từng giai đoạn cách mạng. Bởi vậy, cơ chế, chính sách phát triển nhân lực CNTTcần được xác định đúng đắn, có tính khả thi. Đièu này sẽ có vai trò, tác động to lớn thúc đẩy nhân lực công nghệ thông tin phát triển nhanh, bền vững và đạt kết quả cao. Chính sách, cơ chế được xác định nếu không đúng đắn, phù hợp sẽ cản trở việc phát triển nhân lực CNTT. Nếu xảy ra điều này thì hậu quả sẽ khó lường, mà việc khắc phục nó không thể trong thời gian ngắn. 18 Trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm phát triển nhân lực CNTT, đã đề ra các chủ trương, chính sách đúng, nhờ đó nhân lực công nghệ thông tin của đất nước có bước phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng. Đặc trưng nguồn nhân lực CNTT Việt Nam có trình độ học vấn khá, thông minh, cần cù, chịu khó, sáng tạo và có khả năng nắm bắt nhanh những thành tựu mới của công nghệ thông tin áp dụng cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, thích ứng với kinh tế thị trường. Nguồn nhân lực CNTT nước ta đã qua đào tạo từ nhiều địa chỉ ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Đây là nguồn lực CNTT cơ bản, cần thiết cho trước mắt và tương lai để tiến hành lao động sản xuất đạt hiệu quả cao. Truyền thống lịch sử, thói quen, tập quán, văn hóa, đạo đức, lối sống, là những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực CNTT. Trong những biểu hiện về thái độ của những người hiện đại với những di sản truyền thống thì ý thức tự tôn dân tộc và lòng tự hào về những giá trị truyền thống là yếu tố rất cơ bản, có ý nghĩa xuyên suốt. Đây là một trong những tiêu chí quan trọng để nhận ra mức độ ảnh hưởng của truyền thống đối với cuộc sống của con người hiện đại. 2.2.5. Thị trường sức lao động và thị trường công nghệ thông tin Đề cập về phát triển nguồn nhân lực CNTT trong nền kinh tế thị trường, không thể không đề cập đến thị trường sức lao động. Đây là một trong những đặc điểm làm thay đổi về chất và lượng việc phát triển nguồn nhân lực CNTT gắn với trạng thái chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới. Nâng cao tính linh hoạt của thị trường sức lao động, tức là tránh những quy định xơ cứng về lao động để giá cả sức lao động, số lượng, chất lượng sức lao động, cơ cấu lao động tự thích ứng với những thay đổi của thị trường, nâng cao tính linh hoạt của tổ chức sản xuất, chế độ làm việc, phương thức hợp đồng thuê mướn nhân công, trình tự và nội dung thương lượng thỏa thuận giữa giới chủ và giới thợ. Trong lịch sử phát triển nhân loại, thị trường sức lao động ra đời gắn liền với sự ra đời và vận động của một loại hàng hóa đặc biệt hàng hóa sức lao động. Các yếu tố cơ bản trên thị trường sức lao động trước hết và quan trọng hơn hết là hàng hóa sức lao động, là cung, cầu, giá cả sức lao động. Nguồn cung và cầu về sức lao động thực chất là cung và cầu về nguồn nhân lực CNTT được hình thành từ các yếu tố khác nhau. Nguồn cung về nhân lực CNTT được hình thành từ các cơ sở đào tạo như các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề và các cơ sở đào tạo khác. Nguồn cung đó còn từ những người đang tìm việc làm, từ các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc từ nguồn lao 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan