SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT TRIỆU SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
DẠY HỌC TRUYỀN CẢM HỨNG CHO HỌC SINH
HOÀN THÀNH CHẬM MÔN TOÁN
Người thực hiện: Cầm Bá Chung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường TH Thọ Sơn
SKKN thuộc môn: Toán
THANH HOÁ, NĂM 2018
MỤC LỤC
Mục
Nội dung
Trang
I
Mở đầu
1
1
Lí do chọn đề tài
1
2
Mục đích nghiên cứu
2
3
Đối tượng nghiên cứu
2
4
Phương pháp nghiên cứu
2
II
Nội dung sáng kiến
2
1
Cơ sở lí luận
2
2
Thực trạng
3
3
Các giải pháp
7
4
Hiệu quả của sáng kiến
11
Kết luận và kiến nghị
11
1
Kết luận
11
2
Kiến nghị
12
III
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hoà chung với sự đi lên của toàn cầu, đất nước ta đã và đang có những
chuyển mình trong xu thế đổi mới toàn diện trong mọi lĩnh vực để bước sang
một thời đại mới - Thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngành giáo
dục nói riêng đã có những bước chuyển mình rõ rệt có những bước đầu tư lớn
trong việc cải cách giáo dục. Trong các kì đại hội Đảng, các Nghị quyết của
Trung ương đều dành sự quan tâm đặc biệt với giáo dục nước nhà : "GD vừa là
động lực, vừa là tiêu đề của sự phát triển xã hội trong thời kỳ đổi mới đất nước
ta". Nghị quyết số 29 – NQ/TW đã xác định :
- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà
nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi
trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội.
- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ
sở giáo dục-đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân
người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần
kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có
chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận
thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn,
phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả thi,
có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Thật vinh dự và tự hào biết bao khi bản thân tôi đang đứng trong hàng
ngũ là những kỹ sư tâm hồn - Những chiến sỹ trên mặt trận tư tưởng văn hoá
trong sự nghiệp giáo dục và cả sự đổi mới của đất nước. Với những tự hào và
trách nhiệm đó tôi luôn tâm niệm lời Bác dạy : "Có gì vẻ vang hơn là nghề đào
tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là
người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng
huân chương, song những người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh.
Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân
dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất
là quan trọng, rất là vẻ vang". Những điều đó đã giúp tôi nhận thức được một
cách đầy đủ hơn về nhiệm vụ, mục tiêu giáo dục; về vai trò, vị trí và trọng
trách của bản thân là người giáo viên.
Chúng ta biết rằng, học sinh ở bậc Tiểu học là nhân vật trung tâm của nhà
trường, là trung tâm của các hoạt động giáo dục, hơn thế nữa đây là giai đoạn
đầu phát triển của cả một đời người là nền móng cho các em sau này. Ở lứa tuổi
Tiểu học (từ 6 đến 14 tuổi) thì hoạt động chủ đạo của các em là hoạt động học.
1
Còn ở Mầm non, các em đang được tham gia hoạt động vui chơi là chủ đạo. Do
vậy, khi lên Tiểu học nhiều em còn bỡ ngỡ, chưa quen với cách học nên dẫn tới
tâm lí chán nản, ngại học. Từ đó, nhiều em không hòa nhập kịp đã bị tách ra
khỏi tập thể lớp (đó là những họ sinh cá biệt trong học tập, những học sinh hoàn
thành mục tiêu, nội dung học chậm hơn so với các bạn khác). Với thực tế trong
một lớp, số học sinh chậm hoàn thành mục tiêu bài học không phải ít ? Nguyên
nhân do đâu? Vì sao? Đó là những băn khoăn của bản thân tôi, thôi thúc tôi
nghiên cứu và đưa vào áp dụng sáng kiến : Dạy học truyền cảm hứng cho học
sinh hoàn thành chậm môn Toán.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu để đưa ra những giải pháp tốt giúp học sinh hoàn thành mục
tiêu môn toán trong các giờ học.
- Giúp bản thân và giáo viên có thêm những cách làm hay góp phần nâng
cao chất lượng giáo dục.
- Giúp học sinh yêu và thích học toán.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh khối 3,4 trường Tiểu học Thọ Sơn.
- Đổi mới phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học.
- Phương pháp dạy học môn Toán ở tiểu học; tác giả Vũ Quốc Chung.
- Hỏi đáp về dạy học Toán; tác giả Đỗ Đình Hoan (chủ biên), Nguyễn
Áng, Đỗ Tiến Đạt.
- Bài tập trắc nghiệm và các đề kiểm tra Toán; tác giả Đỗ Tiến Đạt, Đào
Thái Lai, Phạm Thanh Tâm.
- Các chuyên đề giáo dục tiểu học.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm nghiên cứu lý thuyết: Dựa trên các tài liệu đã thu thập được có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu để phân tích, tổng hợp, phân loại hệ thống hoá
lý thuyết.
- Nhóm phương pháp thực hành, trải nghiệm: Bằng cách dự giờ nhằm thu
thập thông tin thực tiễn, đối chiếu kết quả nghiên cứu thực nghiệm; thực hành
dạy học ở một số lớp.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lí luận
1.1. Vì sao phải đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Phương pháp dạy học có ý nghĩa quan trọng, quyết định chất lượng của
quá trình dạy học. Cùng một nội dung như nhau, cùng trang thiết bị như nhau
nhưng học sinh học tập có hứng thú, có tích cực hay không, giờ học có phát huy
2
được trí sáng tạo, có để lại những dấu ấn sâu đậm và khơi dậy được những tình
cảm trong sáng lành mạnh trong tâm hồn của các em hay không… Phần lớn đều
phụ thuộc vào phương pháp dạy học của người thầy.
Trong thời gian qua, bậc Tiểu học đã được hoàn thiện theo hướng toàn
diện hơn nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước thời kì hội nhập,
đồng thời đóng góp vào sự tiến bộ chung của khu vực và trên thế giới.
Trong quá trình xây dựng chương trình Tiểu học giai đoạn mới chúng ta
đã và đang từng bước thay đổi nội dung dạy học ở Tiểu học. Chính vì lẽ đó mà
chúng ta cần phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học.
1.2. Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học
Giáo dục Tiểu học đang thực hiện những đổi mới toàn diện và đồng bộ để
góp phần chuẩn bị học tiếp bậc Trung học Cơ sở và có khả năng thích ứng chủ
động, sáng tạo trong điều kiện CNH - HĐH đất nước Việt Nam thế kỷ XXI.
Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề cần đặt ra thường xuyên đối với
lý luận đại cương nói chung và lý luận dạy học Toán ở Tiểu học nói riêng.
Hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học là giúp học sinh phát huy tính
tích cực, chủ động, tự giác trong học tập. Phương pháp dạy học tích cực cơ bản
hình thành trên mối quan hệ, sự tác động qua lại của ba nhân tố: người học,
người dạy - môi trường.
1.3. Đối mới phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học
Khi tổ chức hướng dẫn các hoạt động học của học sinh, giáo viên phải
vận dụng một cách hợp lý mặt tích cực của các phương pháp dạy học cũ để giúp
học sinh huy động các kiến thức của mình, tham gia tích cực vào các hoạt động
như quan sát, điều tra, đóng vai, thảo luận, … từ đó mà phát hiện ra và tham gia
vào việc giải quyết các tình huống có thể có trong đời sống.
Đổi mới phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học không loại bỏ cách dạy
học truyền thống mà phải vận dụng các phương pháp đó một cách linh hoạt để
tổ chức cho học sinh hoạt động học tập theo kiểu mới (hoạt động cá nhân, theo
cặp, theo nhóm, đồng loạt) tạo điều kiện cho từng học sinh được tham gia giải
quyết vấn đề.
Đổi mới phương pháp dạy học Toán là một quá trình lâu dài, nó gắn bó
chặt chẽ với đổi mới mục tiêu, nội dung, cơ sở vật chất và thiết bị, đào tạo giáo
viên và cách đánh giá học sinh.
2. Thực trạng
Thông qua giảng dạy nhiều năm, tôi đã tìm hiểu và tìm ra một số nguyên
nhân của những học sinh chậm hoàn thành mục tiêu bài học như sau:
- Đó là sự phát triển nhận thức của học sinh cùng lứa tuổi không đồng đều
như em Phạm Văn Hân.
- Hoạt động tư duy có những nét riêng đối với từng em. Ví dụ em Nguyễn
Ngọc Tiến phát triển tư duy ngôn ngữ, em Lê Ánh phát triển tư duy hội họa.
3
- Thái độ học tập ở các em chưa được định hướng rõ. Nhiều em phải ở
nhà với ông bà, bố mẹ đi làm ăn xa (miền Nam) nên thái độ học chưa tốt vì
không sợ ông bà như các em Lê Quý Toàn, Nguyễn Văn Khang, Lê Đức Anh,
Lê Minh Quyền, Lê Xuân Học.
- Sức khoẻ chưa tốt: em Nguyễn Trọng Mạnh, Lê Minh Quyền, Lê Đức
Anh.
- Đời sống vật chất còn gặp nhiều khó khăn, đồ dùng sách vở học tập
không đầy đủ. Tỉ lệ hộ nghèo chiếm gần 30% số học sinh.
Gia cảnh nghèo khó của nhà em Khang
- Vấn đề học tập ở nhà chưa được gia đình quan tâm. Tối về nhà bố mẹ
mãi xem ti vi, lướt mạng không để ý đến việc học bài của con.
- Còn một số các em chưa học qua lớp mẫu giáo mà các em vẫn lên lớp
học bình thường.
Bảng kết quả điểm kiểm tra định kì môn Toán lần 1 (giữa học kì 1) năm
học 2017 – 2018 của một số em hoàn thành bài chậm như sau:
STT
Họ và tên
Điểm KT Toán giữa HK1
Ghi chú
1
Trịnh Phú Việt Anh
2
2
Lê Xuân Học
2
3
Nguyễn Văn Khang
3
4
Lê Minh Quyền
3
5
Hà Văn Việt
3
+ Em Trịnh Phú Việt Anh: Gia đình buôn bán, mẹ nuôi em nhỏ, thiếu sự
để ý của gia đình về việc học.
+ Em Lê Xuân Học: Bố bỏ 2 mẹ con, ở với bà ngoại tuổi cao, mẹ đi làm
ăn xa.
+ Em Nguyễn Văn Khang: Bố mẹ bận công việc nên không quan tâm, gia
đình hộ nghèo, hàng ngày phải đi làm với bố mẹ.
4
Góc học tập chung với bếp nấu của gia đình Khang
+ Em Lê Minh Quyền: Nhà nghèo, bố đau ốm triền miên (suy tim độ 4),
mẹ đi miền Nam; ở nhà phải tự lo cơm nước, tắm giặt (thay mẹ làm việc nhà).
Năm nay học lớp 4 mà em chỉ nặng 17 kg, cao 118cm.
+ Em Hà Văn Việt: Gia đình khó khăn, bố đi làm ăn xa nhà, mẹ đi chợ
bán rau nên thiếu sự chăm nom học tập của gia đình.
Vóc dáng gầy yếu của em Quyền
Không dừng lại ở những nguyên nhân này, mà còn có những nguyên nhân
từ phía giáo viên có thể là:
5
- Nhịp độ giảng bài quá nhanh dẫn đến học sinh không hiểu bài, không
nắm vững kiến thức đồng bộ (vì nhận thức học sinh không đồng đều).
- Phương pháp giảng dạy còn thiếu sót.
- Người truyền thụ còn khô khan thiếu truyền cảm hứng, chưa tận tuỵ.
- Đồ dùng trực quan cũng như những đồ dùng cần thiết cho 1 tiết dạy
chưa được đảm bảo.
- Tinh thần trách nhiệm của giáo viên đối với học sinh chưa đầy đủ.
Những nguyên nhân trên đã tác động tổng hợp, làm mất hứng thú học tập,
học sinh thiếu tự tin, thiếu cố gắng vươn lên nên kết qủa học tập giảm sút, không
ổn định.
Qua quan sát, theo dõi các hoạt động của học sinh, tôi nhận ra những biểu
hiện về tư duy, hoạt động của học sinh hoàn thành bài chậm như sau :
- Tư duy thiếu linh hoạt.
- Sự chú ý, óc quan sát, trí tưởng tượng đều phát triển chậm.
- Diễn đạt bằng ngôn ngữ khô khan lúng túng, nhiều chỗ còn lộn xộn.
- Biểu hiện bề ngoài là thờ ơ với thái độ học tập, thầy cô hỏi bài thì trả lời
ngập ngừng không tin ở chính mình, thái độ tiếp thu thụ động.
- Nghịch ngộ, có cá tính ham chơi, lười học và ngại học.
Đứng trước thực tế đó, tôi băn khoăn và tự đặt ra câu hỏi cho bản thân đó
là: Tôi phải làm gì và làm như thế nào để giúp cho những học sinh của tôi học
tốt hơn? Với trách nhiệm của người giáo viên chủ nhiệm lớp, tôi không thể nào
yên tâm được, tôi nghĩ rằng nếu để tình trạng này kéo dài thì chất lượng của lớp
sẽ kém đi không đạt được yêu cầu về chất lượng giáo dục.
Vì thế, thông qua quá trình giảng dạy, qua việc tìm hiểu nguyên nhân và
những biểu hiện của học sinh, tôi đã tìm ra những cách làm thích hợp với từng
đối tượng, từng học sinh chậm hoàn thành thông qua các giải pháp dưới đây.
3. Các giải pháp
3.1. Tìm hiểu về hoàn cảnh học sinh để truyền cảm hứng.
Để rèn luyện cho học sinh có những thói quen học tập và phương pháp tự
học tốt, đáp ứng và yêu cầu đặt ra thì giáo viên phải có những biện pháp phù
hợp kết hợp với lòng yêu nghề mến trẻ, hiểu được tâm lý của trẻ; bản thân phải
nhiệt tình trong công tác giảng dạy, phải thật sự là người mẫu mực, là tấm gương
sáng cho học sinh noi theo.
Nhưng điều quan trọng đầu tiên đó là giáo viên phải nắm bắt được hoàn
cảnh, tình hình học tập của từng em, nắm rõ được những em học chậm, chậm ở
mức độ nào? Nguyên nhân do đâu?
Từ đó tìm ra những phương pháp giảng dạy để thu hút sự chú ý của các
em, cố gắng tạo niềm tin vui trong học không để các em nhàm chán. Đó có thể
là phương pháp tốt mà tôi đã áp dụng đầu tiên bằng cách luôn động viên khuyến
khích các em kịp thời. Do đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi các em là hiếu
động, thích vui chơi. Mọi cái đối với các em đều gò bó vì ở nhà các em thích gì
6
đều được, hay nhỏng nhẽo. Do đó khi đến lớp, tôi vừa rất nghiêm khắc nhưng lại
vừa nhẹ nhàng động viên gần gũi các em.
Ví dụ: Sau câu trả lời của học sinh tôi khen ngợi ngay "Em rất cố
gắng!" hay "Lần này, bạn rất giỏi cả lớp khen bạn nào !" Sau mỗi lần khen là tôi
đã gây được lòng tin và truyền được một chút cảm hứng cho các em. Có những
lúc các em chưa viết đúng, đọc hay hoặc làm tính còn sai tôi không phê bình mà
vẫn khen động viên khuyến khích rằng "em cần cố gắng hơn nữa" tránh thái độ,
lời nói chạm lòng tự ái hoặc mặc cảm đối với các em.
Với em Lê Đức Anh (đang học lớp 6), em Lê Minh Quyền (hiện đang học
với tôi) đều chung hoàn cảnh là gia đình nghèo, mẹ đi Nam, bố đau ốm nên
thiếu cả tình cảm lẫn vật chất so với các bạn khác. Vì thế, khi dạy các em, tôi
truyền cảm hứng bằng chính tình thương, lời động viên của mình. Ví dụ như :
+ Mỗi bài làm của các em có sự cố gắng, tôi chấm và nhận xét kĩ hơn và
khuyến khích em gửi cho mẹ ở xa xem qua tài khoản facebook của người thân.
Hay tôi hay động viên : Con học tốt để cha mẹ vui, cha mau lành bệnh…
+ Khi dạy các em so sánh 2 phân số cùng tử số (bài 3-trang 55, HDH
Toán 4)
1
1
và . Con thử nghĩ mình có 1 quả cam chia cho 3 bố con ở nhà; cùng
3
4
quả cam đó chia thêm cho cả mẹ nữa là 4 người. Hỏi chia cho 3 người hay chia
cho 4 người thì mỗi người sẽ được nhiều hơn ?
3.2. Thay đổi khẩu vị bài giảng.
Giáo viên luôn tạo ra niềm vui trong học tập cho các em thông qua
những câu chuyện vui liên quan đến các em hay câu chuyện liên quan đến
bài học; thông qua trò chơi để các em tiếp thu bài, khắc sâu kiến thức dễ
dàng hơn (vì khi học đã kém thường các em hay chán nản, ít có hứng thú
học tập, không chú ý nghe giảng).
Kể chuyện vào bài học, hay kể chuyện giữa tiết học là biện pháp mà
tôi rất hay sử dụng. Ví như khi dạy “Bài 60. Hình bình hành” – HDH Toán
4. Tôi kể câu chuyện vui về anh Hình Chữ nhật đi chơi gặp trời giông bão :
Hôm chủ nhật, anh Hình Chữ nhật một mình đi rong chơi ngoài đồng.
Chiều đến, trời nổi mưa dông. Anh ba chân bốn cẳng chạy nhanh về nhà
nhưng do gió thổi mạnh làm anh ngã nhào xuống ruộng. Bò lổm ngổm một
hồi, anh mới lên được bờ. Lúc này, chân tay anh bị đổ nghiêng không sao
kéo thẳng lại được. Anh ngồi khóc, ông Sấm ghé xuống an ủi : “Không sao
đâu cháu, bây giờ cháu có hình thù mới trông cũng đẹp ghê”. Thế rồi ông
Sấm đặt tên mới cho anh là Hình Bình hành.
Đối với những bài dạy trên lớp, tôi luôn tìm tòi biện pháp giảng dạy thích
hợp có trọng tâm như tự điều chỉnh nhịp độ bài giảng, tổ chức việc học tập bằng
phương pháp phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Tổ chức hướng dẫn
dìu dắt để các em được tiếp cận, chiếm lĩnh hoàn toàn tri thức không áp đặt, các
câu hỏi được sắp đặt rõ ràng có hệ thống trong từng bài, từng đối tượng cụ thể
trong những bài soạn. Với yêu cầu vừa sức các em và nâng cao dần và không
7
nãn chí, thiếu tự tin, sốt ruột, khắc phục tính ngại khó và những định kiến thiếu
tin tưởng và sự tiến bộ của học sinh.
Trong khi giảng bài tôi thường xuyên theo dõi sự chú ý của những học
sinh chậm, có khiếm khuyết để kịp thời giúp đỡ. Hướng dẫn bài tập cần cụ thể
hơn với học sinh đó. Mọi nhiệm vụ được tôi kiểm tra cụ thể để phân tích và sửa
chữa kịp thời các sai lầm cho các em.
3.3. Thầy làm nhiều hơn – Trò thể hiện nhiều hơn.
Hãy làm nhiều hơn so với những điều được mong đợi ở một giáo viên
thông thường. Trong trường hợp một học sinh không thể nộp bài đúng thời hạn
thì lần sau nếu chuyện đó cũng tiếp diễn thì thầy hãy gọi học sinh đó sau giờ học
và xem lại bài tập đó cùng với em. Giúp học sinh làm bài tập đó, chỉ cho em đó
cách nghiên cứu và cho em xem bài viết của những học sinh khác.
Giúp học sinh làm việc ngoài giờ học
Trong mỗi tiết học để trò thể hiện mình nhiều hơn, người thầy cần:
Khuyến khích động viên để trò phát biểu; khuyến khích để trò thể hiện. Giao
nhiệm vụ để trò được hợp tác với bạn.
Ví dụ: Hoạt động 3 bài 75. Phép trừ phân số - HDH Toán 4
3. a) Nói cách trừ hai phân số có cùng mẫu số với bạn, nêu ví dụ minh họa.
b) Em viết hai phân số có cùng mẫu số rồi đố bạn trừ hai phân số đó.
- Thầy đi đến từng cặp theo dõi, giúp đỡ các em khi cần thiết.
- Học sinh chia sẻ tích cực; có thể nêu nhiều hơn 2 phân số.
- Thầy động viên bằng những hành động, cử chỉ chúc mừng khi các em
làm tốt (đập tay, móc tay, ra hiệu number one,…)
8
3.4. Biện pháp chữa lỗi bằng các câu nói, hình ảnh dí dỏm, hài hước.
Với những câu nói dí dỏm, hình ảnh hài hước không chỉ kích thích sự
hiếu kì, tạo cảm giác thoải mái mà nó còn giúp các em dễ ghi nhớ và nhớ lâu.
Do vậy với những lỗi mà các em hay mắc phải, tôi thường chữa theo lối hài
hước này. Giúp các em nhớ lâu, khi gặp lại sẽ tự chữa được cho mình.
Ví như : Khi học bài 39. Em ôn lại những gì đã học – HDH Toán 5.
Bài 1. Tính :
b) 7,5 + 7,3 x 7,4
Một số em thường trình bày bài làm như sau :
=
7,5 + 7,3 x 7,4
= 54,02 + 7,5 = 61,52. Ở bước tính thứ
nhất, các em chỉ làm mình7,3x7,
phép nhân không ghi lại phép tính cộng. Tôi thường
nói vui : “ Phép cộng và số4 hạng của bạn bị con kiến công mất rồi.” Hay: “Trong
túi bạn có con thạch sùng nên đã công mất phép tính của bạn”,... Với những câu
nói như thế các em vui vẻ nhận khuyết điểm đồng thời đem lại niềm vui cho cả
lớp.
3.5. Không để học sinh học chay.
Những em rơi vào hoàn cảnh mà tôi đang trình bày thì phần lớn có hoàn
cảnh gia đình khó khăn. Do đó việc các em có đủ đồ dùng, tài liệu học tập cũng
là ước mơ của các em. Từ việc không có đủ đồ dùng, tài liệu học tập dẫn đến
việc không làm việc trong giờ học, không thích ứng với bài học. Để làm tốt biện
pháp này đòi hỏi tôi lại phải tìm hiểu hoàn cảnh gia đình của những học sinh yếu
vì hầu như ở lớp tôi thường học sinh yếu lại rơi vào những gia đình có hoàn
cảnh khó khăn, bố mẹ không có tiền mua sách vở, hay không quan tâm đến việc
học tập của con cái. Vì thế tôi lại phải nhờ đến nhà trường cho mượn sách vở khi
đến lớp đó cũng là tạo những ấn tượng tốt trong các em để các em có niềm tin ở
trường lớp, thầy cô, bạn bè từ đó có ý chí phấn đấu vươn lên.
Hay để xây dựng tinh thần chia sẻ, tạo cảm hứng tôi còn cho học sinh
dùng chung tài liệu với thầy: thầy trò ngồi chung, cùng học chung tài liệu. Hành
động này cũng làm lan tỏa tinh thần học tập từ thầy đến với trò mạnh mẽ.
Vào cuối năm học trước, em Hoàng Thế Kiệt (bố đi làm ăn) ở nhà với mẹ
nuôi em nhỏ nên thiếu sự dạy dỗ của bố, thiếu sự quan tâm của mẹ. Đi học về
phải giúp mẹ cơm nước, chăm bò,…nên việc học của em có giảm sút. Ở tuần
học 29, tài liệu học Toán của em bị rách một số trang. Tôi đã phải cho em dùng
tài liệu của tôi. Khi cho em dùng, tôi có căn dặn : “Cuốn tài liệu này thầy xem
như là người bạn thân, thầy đã dùng nhiều năm rồi mà vẫn còn như mới. Thầy
chỉ mong em cũng xem nó như người bạn thân của mình nhé !” Vài ngày sau,
mẹ cháu có gặp tôi và tâm sự về cháu: “Từ hôm thầy cho mượn tài liệu, cháu về
chăm chút cuốn sách thầy cho mượn và thấy cháu ham học hơn, sách vở, đồ
dùng được cháu xếp gọn gàng mỗi khi học xong.”
9
4. Hiểu quả của sáng kiến
Qua một thời gian tôi tự tìm tòi, nghiên cứu ra những biện pháp dể thực
hiện vào việc giảng dạy, giúp đỡ học sinh hoàn thành chậm môn Toán. Bản thân
tôi là giáo viên dạy ở địa bàn khó khăn, dân trí còn thấp, đời sống vật chất khá
nghèo nàn nên việc giảng dạy gặp nhiều khó khăn. Nhưng với lòng yêu nghề,
yêu trẻ cộng với những kinh nghiệm trong giảng dạy của mình, tôi đã mạnh
dạn áp dụng sáng kiến này trong những năm học vừa qua. Kết quả cho thấy
rằng lớp tôi sau những lần kiểm tra định kỳ tăng lên rõ rệt, đến cuối năm
không còn học sinh chưa hoàn thành môn học. Những học sinh từ không
biết cách học, không mến học, không biết làm toán bây giờ đã tiến bộ rõ
nét và đáng khen ngợi.
Kết quả kiểm tra định kì môn Toán lần 3 (giữa học kì 2) như sau :
STT
1
2
3
4
5
Họ và tên
Trịnh Phú Việt Anh
Lê Xuân Học
Nguyễn Văn Khang
Lê Minh Quyền
Hà Văn Việt
Điểm KT Toán giữa HK2
7
4
6
7
5
Ghi chú
Sáng kiến của tôi không chỉ áp dụng ở trong lớp mà một số bạn bè đồng
nghiệp cũng được tôi chia sẻ trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ. Họ đã
áp dụng một số biện pháp trong sáng kiến và đem lại kết quả ban đầu khá tốt.
Học sinh lớp tôi dạy không còn khái niệm sợ học toán, sợ kiểm tra toán
nữa. Mà thay vào đấy là sự háo hức khi đến giờ toán, là sự ganh đua thể hiện
mình, là sự quan tâm tràn đầy cảm hứng của thầy.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Từ những kết quả đạt được trong quá trình giảng dạy cho thấy sáng kiến
của tôi đem lại hiệu quả khả quan. Tuy nhiên, để sáng kiến đạt hiệu quả cao
nhất, trước hết giáo viên phải thực hiện tốt những yêu cầu sau:
- Người thầy phải là tấm gương sáng, là thần tượng trong mắt của trò.
- Người thầy phải biết khơi và truyền cảm hứng cho trò.
- Người thầy phải yêu nghề, mến trẻ, phải hết lòng vì nghề nghiệp, vì học
sinh thân yêu, tìm tòi phương pháp giảng dạy thích hợp, bồi dưỡng vốn sống và
năng lực cho bản thân.
- Người thầy phải nắm được từng đối tượng, từng cá nhân thật cụ thể để
có phương pháp giáo dục phù hợp.
- Người thầy phải gần gũi giúp đỡ các em vượt qua mọi khó khăn để từ đó
các em có chỗ dựa vững chắc để vươn lên.
10
- Người thầy phải kỳ công bày vẽ, hướng dẫn từng li, từng tí cho học
sinh.
- Trong quá trình giảng dạy người thầy cần động viên, nhắc nhở kịp thời
để các em cố gắng, khắc phục kịp thời.
2. Kiến nghị
- Nhà trường tạo điều kiện cho tôi tiếp tục nghiên cứu và ứng dụng rộng
rãi trong các khối lớp và trong tất cả các môn học.
Trên đây là một số biện pháp tôi đã ứng dụng trong quá trình dạy học môn
Toán lớp 3-4-5. Tất nhiên sáng kiến không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
tôi rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp và cấp trên.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ
Thanh Hóa, ngày 15 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan, SKKN này là do tôi
viết, không sao chép của ai.
Người viết:
CẦM BÁ CHUNG
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Số tt
Tài liệu
Tác giả
1
PP dạy học môn Toán ở TH
Vũ Quốc Chung
2
Hỏi đáp về dạy – học Toán
Đỗ Đình Hoan
3
Bài tập trắc nghiệm – đề KT
Đỗ Tiến Đạt
4
Tâm lí trẻ Tiểu học
Nguồn in-tơ-nét
5
Tâm lí Giáo dục học Tiểu học
Bộ Giáo dục và Đào tạo
6
Phương pháp dạy học các môn
học ở Tiểu học
Bộ Giáo dục và Đào tạo
DANH MỤC
12
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Cầm Bá Chung
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, trường Tiểu học Thọ Sơn, huyện Triệu
Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
TT
Tên đề tài SKKN
Dạy Tập đọc bằng ngôn ngữ hội
1.
họa
Giải toán chia có dư ở lớp 3
Mô hình Câu lạc bộ Toán
Dạy học phân hóa trong môn Toán
Phát triển tư duy Toán học qua
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.
dạng toán Chuyển động đều
Phát huy tính tích cực, chủ động
trong học toán cho học sinh
Giúp học sinh lớp 4 VNEN viết
đúng chính tả
Giúp học sinh lớp 4 VNEN viết
đúng chính tả
Một số biện pháp giúp học sinh lớp
4-5 mô hình VNEN viết đúng câu
văn
Một vài biện pháp giúp giáo viên
dạy học tốt môn Khoa học lớp 5
Cấp
đánh
giá xếp
loại
Kết quả
Năm học đánh
đánh giá
giá xếp loại
xếp loại
Phòng
A
2005 – 2006
Phòng
Phòng
Phòng
C
B
A
2007 – 2008
2008 – 2009
2009 – 2010
Phòng
B
2010 – 2011
Phòng
B
2012 – 2013
Phòng
A
2013 – 2014
Sở GD
& ĐT
B
2013 – 2014
Phòng
A
2015 – 2016
Phòng
B
2016 – 2017
13
- Xem thêm -