1
Xuất phát điểm là một tỉnh thuần nông. Thanh Hóa được thiên nhiên ưu đãi có
mạng lưới sông ngòi dày đặc, điều kiện khí hậu thuận lợi, ..Nhờ những điều kiện
thuận lợi như vậy, ngành thủy sản tỉnh Thanh Hóa đã phát triển mau lẹ, nhanh
chóng trở thành một trong những ngành đóng góp quan trọng vào tổng GDP của
toàn tỉnh. Ngành thủy sản đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu
nông nghiệp, xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chính vì vậy, đầu
tư phát triển ngành thủy sản là rất cần thiết. Tuy nhiên ngành thủy sản tỉnh Thanh
Hóa đã được quan tâm đúng mức và khai thác hiệu quả tiềm năng chưa???
Để có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động đầu tư phát triển ngành thủy sản
tỉnh Thanh Hóa, em đã tìm hiểu và tổng hợp thông tin để viết đề án môn học về đề
tài “ Đầu tư phát triển thủy sản tỉnh Thanh Hóa”. Đề án là những phân tích,
đánh giá của em về tình hình đầu tư phát triển ngành thủy sản tỉnh Thanh Hóa. Đề
án gồm 3 phần:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư phát triển và đầu tư phát
triển Thủy Sản
Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển Thủy Sản tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
2006-2010
Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển Thủy
Sản tỉnh Thanh Hóa
Em xin chân thành cảm ơn TS. Phạm Văn Hùng đã tận tình chỉ dẫn, giúp
em hoàn thành đề án này. Tuy nhiên, với kiến thức còn hạn chế, kinh nghiệm thực
tế ít ỏi nên bài viết này không tránh được những sai sót, em rất mong thầy giáo đóng
góp ý kiến, giúp em hoàn thành bài viết này.
Em xin chân thành cảm ơn!
2
Chương I. Những vấn đề lý luận chung về Thủy Sản và đầu tư phát
triển Thủy Sản
1. Những vấn đề lý luận chung về Thủy Sản
1.1 Khái quát chung về Thủy Sản
1.1.1 Khái niệm:
- Thủy sản là ngành kinh tế cấp I, bao gồm các hoạt động đánh bắt, nuôi
trồng, chế biến thủy sản và các hoạt động dịch vụ thủy sản có liên quan. Là một
ngành kinh tế học được phân ngành thuộc ngành nông nghiệp, ra đời sớm và được
Nhà Nước xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn.
- Ngành thủy sản là một bộ phận hay còn gọi là một phân ngành của nông
nghiệp, bởi vì ngành thủy sản có những đặc điểm cơ bản của nông nghiệp nói
chung. Tư liệu sản xuất chủ yếu của ngành thủy sản là mặt nước; đối tượng lao
động là những sinh vật thủy sinh; kết quả sản xuất của ngành là những sản phẩm
sinh vật, những kết quả sinh học.
- Khi nói đến ngành thủy sản thường nhắc tới các khía cạnh sau:
+ Thứ nhất: Mặc dù có những đặc điểm tương tự của nông nghiệp, ngành
thủy sản vẫn có tính độc lập tương đối về kinh tế, kỹ thuật và môi trường:
Tính độc lập tương đối về kinh tế biểu hiện ở chỗ trong ngành thủy
sản người ta rất khó phân biệt rạch ròi về quyền sở hữu, quản lý và sử dụng thủy
vực và các nguồn lợi thủy sản, nhất là đối với các lưu vực con sông, cửa biển, vùng
vịnh hay vùng biển. Do vậy, trong hình thức tổ chức sản xuất, sự hiệp tác thường
được coi trọng.
Về mặt kỹ thuật, tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ ngành thủy sản
cũng đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật riêng phục vụ cho nuôi
trồng hay đánh bắt.
Về môi trường, hoạt động của ngành thủy sản cũng có thể gây ô
nhiễm môi trường nước, lại cũng có thể làm các thủy vực và nguồn lợi thủy sản bị ô
nhiễm hay hủy hoại do hoạt động của các ngành khác gây ra. Do vậy, sự phát triển
hài hòa giữa thủy sản với trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp trên từng vùng sinh
thái là điều kiện phát triển bền vững của nông nghiệp nói chung.
+ Thứ hai: Những hoạt động xuất phát điểm của ngành thủy sản là nuôi
trồng và đánh bắt thủy sản. Tùy vào điều kiện cụ thể của của mỗi vùng, mỗi địa
phương về mặt nước và nguồn lợi nuôi trồng thủy sản mà địa phương đó coi trọng
3
hoạt động nuôi trồng, đánh bắt hay kết hợp phát triển hài hòa các hoạt động nói
trên.
+ Thứ ba: ngành thủy sản là một ngành có tính chất liên ngành cao. Khi trình
độ phát triển và nhu cầu xã hội còn thấp, sản xuất ngành thủy sản có quy mô nhỏ,
sản phẩm ít nên chỉ đáp ứng nhu cầu trực tiếp dưới dạng sản phẩm tươi. Khi quy mô
sản xuất tăng lên, nhu cầu tiêu dùng của xã hội đa dạng và phức tạp thì việc chế
biến phần lớn các sản phẩm thủy sản đòi hỏi phát triển mạnh mẽ các ngành chuyên
môn hóa hẹp như: công nghiệp đánh bắt cá biển, cơ khí chế tạo và sửa chữa tàu
thuyền, công nghiệp chế biến thức ăn cho chăn nuôi thủy sản, công nghiệp chế biến
thủy sản,…
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngành thủy sản bao gồm :
Khai thác thủy sản
Là hoạt động khai thác tài nguyên dưới nước và mặt nước có nhiệm
vụ đánh bắt động thực vật nhằm cung cấp cho các nhu cầu chế biến, sơ biến hoặc
trực tiếp cho bữa ăn hàng ngày.
Lực lượng sản xuất chủ yếu là:
Lao động đánh bắt
Tàu thuyền khai thác với các trang thiết bị hàng hải và phụ trợ khác.
Ngư cụ: lưới câu, vây, câu.
Nguồn lợi thủy hải sản
Sản phẩm chủ yếu là: thủy hải sản tươi sống hoặc ướp lạnh
Nuôi trồng thủy sản
Là hoạt động sản xuất chuyên cung cấp các sản phẩm động thực vật
dưới nước sau một quá trình nuôi trồng có sự tác động lên hệ sinh trưởng bằng các
phương pháp thông thường hoặc đặc biệt khác nhau
Lực lượng sản xuất chủ yếu:
Lao động nuôi trồng thủy sản với trình độ kỹ thuật
Hệ thống ao, đầm, bè… được đầu tư cải tạo.
Con giống
Hệ thống máy móc phụ trợ: máy bơm, máy trộn oxy, hệ thống xử lý
nước.
Thức ăn cho nuôi trồng, thuốc chữa bệnh và phòng dịch.
Các ứng dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng.
Sản phẩm chủ yếu là: thủy sản tươi sống, ướp lạnh cung cấp cho các
nhu cầu tiêu dung hàng ngày của nhân dân qua việc chế biến, sơ biến hoặc ăn tươi.
Chế biến thủy sản:
4
Là hoạt động sản xuất cung cấp các sản phẩm thủy sản sau một quá
trình tác động cơ, lý, hóa, lên các đối tượng thủy sản tươi sống hoặc đã qua sơ chế
để đáp ứng nhu cầu càng cao, phong phú và đa dạng của người tiêu dùng trong và
ngoài nước.
Lực lượng sản xuất chủ yếu:
Lao động với trình độ tay nghề tương ứng
Hệ thống nhà xưởng, dây chuyền sản xuất
Nguyên vật liệu chế biến
Cơ khí dịch vụ hậu cần
Đây là ngành sản xuất các sản phẩm dịch vụ cho các hoạt động khai
thác, nuôi trồng và chế biến, là một trong những hoạt động làm cầu nối giữa cung
cấp đầu vào và sản xuất, ogiữa sản xuất và tiêu thụ, có chức năng hỗ trợ và tiêu thụ
sản phẩm cho các hoạt động sản xuất thủy sản.
Các hoạt động cụ thể là:
Đóng sửa tàu thuyền
Cung cấp các yếu tố đầu vào: thức ăn công nghiệp, thuốc phòng và
chữa bệnh, chế biến đá lạnh, xăng dầu, sản xuất và cung ứng ngư cụ…
Dịch vụ thương mại đầu ra
Hoạt động xây dựng, sửa chữa các cảng, bến cá.
1.1
Đặc điểm của ngành Thủy Sản
Thủy sản là một ngảnh kinh tế kỹ thuật đặc trưng gồm các lĩnh vực
khai thác, nuôi trồng, chế biến và cơ khí dịch vụ hậu cần. Là một trong những
ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước. sản xuất kinh doanh thủy sản dựa trên
khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh tiềm năng các vùng nước, do vậy
có mối liên hệ rất chặt chẽ với sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, dịch vụ, …
Cụ thể ngành có các đặc điểm sau:
- Ngành thủy sản vừa mang tính nông nghiệp, công nghiệp, thương mại lại
vừa chịu sự chi phối rất lớn của thiên nhiên.
- Ngành thủy sản là ngành có năng suất và hiệu quả lao động tự nhiên cao, có
tác dụng tái sản xuất mở rộng. Có nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất đa
dạng.
- Ngành thủy sản có khả năng thu hồi vốn nhanh có thể thu hoạch được sản
phẩm và tiêu thụ trong thời gian ngắn.
- Ngành thủy sản là ngành có nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn,
tạo khả năng khai thác với quy mô lớn và con người có thể tái tạo nguồn tài nguyên
này.
- Sản xuất thủy sản mang tính thời vụ cao.
5
Những đặc điểm chủ yếu của sản xuất kinh doanh thủy sản
- Đối tượng sản xuất là các sinh vật sống trong nước: Các loài động vật sống
trong môi trường nước mặt là đối tượng sản xuất của ngành thủy sản. Môi trường
nước mặt cho sản xuất thủy sản gồm có biển và các mặt nước trong nội địa. Những
sinh vật sống trong môi trường nước, với tư cách là đối tượng lao động của ngành
thủy sản có đặc điểm: khó xác định về trữ lượng, chịu tác động của yếu tố thời tiết,
khó bảo quản sau khi thu hoạch hoặc đánh bắt, cần có những nghiên cứu cơ bản để
nắm vững qui luật sinh trưởng và phát triển của từng giống, loài.
- Thủy vực là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế: Các loại mặt nước
bao gồm: sông, hồ, ao, mặt nước ruộng, cửa sông, biển…gọi chung là thủy vực
được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, thủy vực là tư liệu sản xuất đặc biệt, chủ
yếu không thể thay thế của ngành thủy sản. Không có thủy vực sẽ không có sản
xuất thủy sản. Vì vậy, cần sử dụng thủy vực một cách tiết kiệm, thực hiện quy
hoạch các loại hình thủy vực, chú trọng bảo vệ môi trường nước, biển…
- Ngành thủy sản là ngành sản xuất vật chất có tính hỗn hợp, tính liên ngành
cao: Với tính cách là một ngành sản xuất vật chất, ngành thủy sản bao gồm nhiều
hoạt động sản xuất cụ thể có tính chất tương đối khác nhau nhưng có mối liên quan
chặt chẽ nhau như: khai thác, nuôi trồng, chế biến và các dịch vụ thủy sản.
Ngày nay, dưới tác động mãnh mẽ của sự phát triển lực lượng sản xuất và
phân công lao động xã hội làm cho các hoạt động sản xuất thủy sản được chuyên
môn hóa ngày càng cao. Các hoạt động chuyên môn hóa khai thác, nuôi trồng, chế
biến và dịch vụ thủy sản có trình độ và qui mô phát triển tùy thuộc nhu cầu thị
trường và mỗi hoạt động lại dựa trên nền tảng nhất định về cơ sở vật chất kỹ thuật
và phương pháp công nghệ, tạo nên những ngành chuyên môn hóa hẹp có tính chất
độc lập tương đối. Tuy vậy, do đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm
thủy sản, tính liên kết vốn có của các hoạt động, khai thác, nuôi trồng, chế biến và
dịch vụ thủy sản lại đòi hỏi phải gắn bó các ngành chuyên môn hóa hẹp nói trên
trong một thể thống nhất, ở trình độc cao hơn mang tính liên ngành. Tính hỗn hợp
và tính liên ngành cao của các hoạt động sản xuất có tính chất tương đối khác nhau,
làm cho ngành thủy sản vừa có tính chất của một ngành sản xuất công nghiệp, vừa
có tính chất của sản xuất nông nghiệp.
1.3. Vai trò của thủy sản trong nền kinh tế quốc dân
6
1.3.1 Tăng tổng sản phẩm quốc nội, góp phần thực hiện mục tiêu tăng
trưởng kinh tế:
Ngành thủy sản là ngành có khả năng tạo ra nhiều giá trị gia tăng. Vì vậy,
phát triển mạnh ngành thủy sản đặc biệt phát triển công nghiệp chế biến thủy sản sẽ
góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của không chỉ ngành nông nghiệp mà của cả
nền kinh tế.
Ngành thủy sản là ngành sản xuất vật chất vì vậy đứng trên giá độ nền kinh
tế, nó không chỉ làm tạo thêm của cải vật chất cho xã hội, gia tăng thu nhập quốc
dân mà còn tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Ngành thủy sản có tác
động rất nhiều đến tốc độ tăng trưởng chung của ngành nông, lâm nghiệp và thủy
sản, trong bối cảnh tỷ trọng của các ngành này trong GDP ngày càng có xu thế giảm
dần theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Chính vì vậy, ngành thủy sản góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế vững chắc, thu hẹp ngành nông, lâm nghiệp và
thủy sản nhưng vẫn đảm bảo tỷ trọng đóng góp của những ngành này cho GDP duy
trì ở tỉ lệ an toàn. Do đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế.
1.3.2. Gia tăng giá trị xuất khẩu, thúc đẩy tiến trình hội nhập KT thế giới:
Đối với những nước có tiềm năng về thủy lực và nguồn lợi thủy sản, phát
triển ngành thủy sản tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị, tăng thu ngoại tệ cho
đất nước.
Ngoài ra, việc mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo ra quan hệ thương mại với
nhiều nước trên thế giới, góp phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều
bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào
khu vực và thế giới.
Trong những năm qua, sản phẩm của ngành thủy sản đã chiếm tỷ trọng lớn
trong hàng xuất khẩu Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản luôn chiếm lớn,
khoảng 5-7% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đang có xu hướng tăng lên.
Bảng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam 2005-2009
(đơn vị: triệu USD)
Năm
2005
Giá trị XK 2732,5
Thủy Sản
2006
2007
2008
2009
3358,0
3763,4
4510,1
4251,3
7
( số liệu: niêm giám thống kê 2009)
Theo thống kê sơ bộ từ Tổng cục Hải quan, giá trị xuất khẩu thủy sản chính
ngạch của cả nước trong 6 tháng năm 2010 đạt 398.8 triệu USD, tăng 4,5% so với
cùng kỳ năm ngoái; 6 tháng đầu năm 2010 đạt 2,047 tỷ USD (gồm cả lũy kế), tăng
17%.
Nguồn thu ngoại tệ lớn từ xuất khẩu sẽ góp phần thúc đẩy quá trình CNHHĐH đất nước một cách có hiệu quả, vững chắc.
Thị trường cho xuất khẩu Việt Nam ngày càng được mở rộng đặc biệt là
các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU.
Thị
trường
Khối lượng
(tấn)
Giá trị (triệu
Thị phần(%)
USD)
Nhật
5233
37,586
Mỹ
2816
28,589
18,2%
16,6%
EU
2936
23,033
24,5%
Hàn Quốc
1093
7,978
7,4%
Ôxtrâylia
463
4,250
2,8%
ASEAN
260
1,615
4,7%
Trung Quốc
1359
9,333
5%
2566
18,948
20,7%
16726
131,332
100%
Thị trường khác
Tổng
Bảng: khối lượng và giá trị và thị phần của các thị trường xuất khẩu thủy sản
chính 6 tháng đầu năm 2010
1.3.3. Cung cấp thực phẩm, tạo nguồn dinh dưỡng và đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia:
Các kết quả nghiên cứu của các chuyên gia về dinh dưỡng đã khẳng định hầu
hết các loại thủy sản đều là loại thực phẩm giàu đạm, dễ tiêu hóa, phù hợp với sinh
lý dinh dưỡng ở mọi lứa tuổi. Càng ngày thủy sản càng được tin tưởng như một loại
8
thực phẩm ít gây bệnh tật (tim mạch, béo phì, ung thư…) và ít chịu ảnh hưởng của ô
nhiễm hơn. Xét về thành phần phần dinh dưỡng cho thấy: so với các loại thịt, các
loại thực phẩm là thủy sản có chứa ít chất mỡ hơn, nhiều chất khoáng hơn nhưng
chất đạm cũng khá cao. Ngành đã góp phần đảm bảo được yêu cầu cụ thể là tăng
nhiều đạm và vitamin cho thức ăn, cải thiện dinh dưỡng bữa ăn, làm tăng sức khỏe
cho của người lớn và giảm suy dinh dưỡng trẻ em.
Ngành thủy sản cung cấp một phần thức ăn cho chăn nuôi, đặc biệt cho chế
biến thức ăn chăn nuôi công nghiệp. Bột cá và các chế phẩm, phụ phẩm thủy sản
chế biến là nguồn thức ăn giàu đạm được sử dụng làm thức ăn hoặc để chế biến
thức ăn phục vụ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Theo tính toán của FAO, hàng năm có
khoảng trên 25% sản lượng thủy sản được sử dụng trực tiếp vào chế biến thức ăn
chăn nuôi.
Ngành thủy sản cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và
một số ngành công nghiệp khác. Nguồn cung cấp cho công nghiệp chế biến thực
phẩm gồm tôm, các, nhuyễn thể, rong biển…Các nguyên liệu thủy sản còn được sử
dụng làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp dược phẩm, mỹ nghệ…
Ở tầm vĩ mô, ngành thủy sản đã cung cấp thực phẩm trực tiếp cho người dân,
góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
1.3.4. Tạo việc làm
Ngành thủy sản là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều
cộng đồng nhân dân, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng ven biển. Những
năm gần đây, đặc biệt từ năm 2001, công tác khuyến ngư đã tập trung vào hoạt
động trình diễn các mô hình khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, hướng dẫn người
nghèo làm ăn. Hiện tại, mô hình kinh tế hộ gia đình được đánh giá là đã giải quyết
cơ bản công ăn việc làm cho ngư dân ven biển. Bên cạnh đó, mô hình kinh tế tiểu
chủ và kinh tế tư bản tư nhân đã góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động ở
các vùng, nhất là lao động nông nhàn ở các tỉnh Nam Bộ và Trung Bộ. Nghề khai
thác thuỷ sản ở sông Cửu Long được duy trì đã tạo công ăn việc làm cho 48.000 lao
động ở 249 xã ven sông.
1.3.5. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn
9
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một nền kinh
tế biển. Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn những ảnh hưởng của biển để
mở rộng đất đai canh tác là định hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước
thì hiện nay việc tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một
nền kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây dựng,
khiến nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa sông, ven biển. Đối với
nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm hoạ, nhưng với nuôi
trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng
mới, vì hoạt động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng chục
lần hoạt động canh tác lúa nước.
Một phần lớn diện tích canh tác nông nghiệp kém hiệu quả đã được chuyển
sang nuôi trồng thuỷ sản. Nguyên nhân của hiện tượng này là do giá thuỷ sản trên
thị trường thế giới những năm gần đây tăng đột biến, trong khi giá các loại nông sản
xuất khẩu khác lại bị giảm sút dẫn đến nhu cầu chuyển đổi cơ cấu diện tích giữa
nuôi trồng thủy sản và nông nghiệp càng trở nên cấp bách. Chính phủ đã đưa ra
nghị quyết 09 NQ/CP ngày 15/6/2000 về chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và đó cũng là yếu tố giúp cho quá trình
chuyển đổi diện tích nuôi trồng thuỷ sản càng diễn ra nhanh, mạnh và rộng khắp
hơn. Tại nhiều vùng nông thôn, phong trào nuôi cá ruộng trũng phát triển mạnh mẽ.
Đây là hình thức nuôi cho năng suất và hiệu quả khá lớn, được đánh giá là một
trong những hướng chuyển đổi cơ cấu trong nông nghiệp, góp phần làm tăng thu
nhập cho người lao động và xoá đói giảm nghèo ở nông thôn.
1.3.6. Giúp xóa đói giảm nghèo
Ngành Thuỷ sản đã lập nhiều chương trình xóa đói giảm nghèo bằng việc
phát triển các mô hình nuôi trồng thuỷ sản đến cả vùng sâu, vùng xa, không những
cung cấp nguồn dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói
giảm nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ sản nước lợ đã chuyển
mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang quảng canh cải tiến, bán thâm canh và
thâm canh, thậm chí nhiều nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ
nuôi công nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản xuất
10
hàng hoá lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven biển đã giàu lên
nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ chứa cũng
đã phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các chương trình phát triển trung
du miền núi, các chính sách xoá đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa. Về mặt xã hội
các chương trình này tạo thêm nhiều việc làm, tăng thu nhập cho đồng bào dân tộc;
trợ giúp cho việc xóa bỏ tập quán du canh du cư của đồng bào.
1.3.7. Giúp đảm bảo chủ quyền quốc gia, an ninh quốc phòng trên biển và
hải đảo:
Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh, chủ quyền
trên biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng ven biển, hải đảo, góp phần
thực hiện chiến lược quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân. Việc phát triển các
trạm tàu khai thác thủy sản xa bờ, hệ thống cảng cá tuyến đảo sẽ góp phần đảm bảo
an ninh quốc phòng cho vùng biên giới biển đảo của Tổ quốc.
2. Những vấn đề chung về đầu tư phát triển Thủy Sản
2.1
Đặc điểm đầu tư phát triển Thủy Sản
2.1.1 Quy mô tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát
triển Thủy Sản thường rất lớn.
Đầu tư phát triển ngành Thủy Sản đòi hỏi một lượng vốn đầu tư khá lớn. Chủ
yếu là vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Đầu tư xây dựng các nhà máy công
nghiệp phụ trợ như nhà máy sản xuất thức ăn công nghiệp nuôi tôm và nhà máy chế
biến…đầu tư xây dựng hệ thống đê điều, thủy lợi, cảng cá… chi phí để xây dựng
một hệ thống thủy lợi cũng không kém việc xây dựng một nhà máy hay một khách
sạn. Ngoài ra, phát triển hệ thống đường xá, kho bãi và bến cảng cũng là những cơ
sở hạ tầng cần thiết để hoạt động khai thác, vận chuyển, chế biến và xuất khẩu quy
mô vốn đầu tư lớn đòi hỏi đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cần tính đồng bộ và trên
diện rộng vì vậy cần có kế hoạch quản lý đầu tư và có những chính sách biện pháp
huy động đủ vốn và kịp tiến độ.
2.1.2 Thời kì đầu tư kéo dài
Thời kì đầu tư tính từ khi thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành và đưa
vào hoat động. Cũng giống như các công trình xây dựng khác, hoạt động đầu tư
11
phát triển cơ sở hạ tầng Thủy lợi có thời gian đầu tư kéo dài. Tuy nhiên do đặc
trưng của ngành Thủy Sản đối với hoạt động đầu tư nuôi trồng thủy sản hay đầu tư
khai thác thủy sản thì thời kì đầu tư được tính theo vụ hoặc mùa.
2.1.3 Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài
Sau khi hệ thống cơ sở hạ tầng (hệ thống đê điều thủy lợi, càng cá, nhà máy
công nghiệp phụ trợ, bến cảng,…) hoàn thành. Thời gian đưa các công trình vào
hoạt động đến khi hết thời hạn sử dụng là kéo dài. Ví dụ như hệ thống đê điều thủy
lợi có thể hoạt động 20năm, 30 năm và lầu hơn thế nữa.
2.1.4 Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển mà là các công trình
xây dựng thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được tạo dựng nên, do đó quá
trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lướn
của các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, xã hội vùng.
Đầu tư trong lĩnh vực thủy sản là quá trình thực hiện một công cuộc đầu tư
cũng như việc thu hoạch những kết quả của nó chịu ảnh hưởng nhiều của các điều
kiện tự nhiên. Đặc trưng này là do đặc điểm của ngành Thủy Sản chi phối.
Khí hậu là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới kết quả đầu tư, khi đầu tư
người ta thường phải nghiên cứu rõ điều kiện khí hậu, bởi nó ảnh hưởng mạnh đến
kết quả sản xuất thủy sản hay kết quả đầu tư. Ví dụ như khi tiến hành xây dựng hệ
thống thủy lợi thì thường phải tiến hành vào mùa nước cạn, bởi khi nước lên thì
việc xây dựng rất tốn kém. Do vậy mà khi đầu tư vào thủy sản để có những công
cuộc đầu tư mang lại hiệu quả cao hoặc có những biện pháp phòng tránh ảnh hưởng
xấu của tự nhiên hữu hiệu.
2.1.5 Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao
Đầu tư phát triển trong thủy sản có độ rủi ro cao, đây là vấn đề thiệt thòi cho
Thủy Sản. Sở dĩ rủi ro cao vì đầu tư trong ngành Thủy Sản một mặt chịu tác động
chung của các công cuộc đầu tư (do quy mô vốn lớn, thời kì đầu tư kéo dài, thời
gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài..) mặt khác nó còn chịu ảnh hưởng cực mạnh
của những biến đổi tự nhiên xấu (lũ lụt,..). Ngoài ra việc kiểm soát và hạn chế
những rủi ro này là rất khó, đôi khi không thể ngăn chặn nổi. Một thiệt thòi lớn của
đầu tư là tỉ suất lợi nhuận của hoạt động đầu tư trong Thủy Sản rất thấp thường chỉ
vài phần trăm một năm trong khi các ngành khác đạt hơn 10%, do thủy sản có tốc
độ tăng trưởng khôn cao.
2.2
Nội dung đầu tư vào ngành thủy sản:
12
2.2.1 Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng:
Ngành thủy sản là ngành có tư liệu sản xuất là mặt nước mặt, phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên. Chính vì vậy, để tăng trưởng và phát triển ngành cần chú
trọng đến đầu tư cơ sở hạ tầng, là yếu tố nền tảng: nguồn lực về diện tích mặt nước
phải được sử dụng nhiều hơn trong nuôi trồng thủy sản, chất lượng nước cao hơn,
giảm ô nhiễm môi trường nước, mở rộng các vùng lãnh hải khai thác trên biển,
hướng tới khai thác cá viễn dương.
Ngành thủy sản cũng có đặc điểm giống với ngành nông nghiệp nói chung là
chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi khí hậu, thời tiết, thiên nhiên v.v…Để hạn chế tác
động tiêu cực của những yếu tố này, cần phải đầu tư xây dựng hệ thống đê điều,
thủy lợi, cảng cá…
Ngoài ra, phát triển hệ thống đường xá, kho bãi và bến cảng cũng là những
cơ sở hạ tầng cần thiết để hoạt động khai thác, vận chuyển, chế biến và xuất khẩu
được thuận lợi, tiết kiệm chi phí và cho hiệu quả cao. Để thuận tiện cho việc quản
lý, phát triển và đạt hiệu quả đầu tư cao nhất cần xây dựng và phát triển các trung
tâm nghề cá, các hợp tác xã ngư nghiệp.
Nước mặt là tư liệu sản xuất khó phân ranh giới sở hữu, hoạt động sản xuất
ngư nghiệp trên khúc sông này, đoạn biển này có ảnh hưởng ngoại ứng đến khúc
sông khác, đoạn biển khác. Vì vậy để phát triển ngành thủy sản khó có thể phát triển
theo từng cá nhân riêng lẻ mà cần sự hợp tác, thống nhất của cả tập thể. Đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng cần tính đồng bộ và trên diện rộng vì vậy cần có kế hoạch quản
lý đầu tư và huy động nguồn vốn, thường là từ ngân sách và vốn từ doanh nghiệp,
hộ gia đình cùng đóng góp.
Đầu tư xây dựng các nhà máy công nghiệp phụ trợ như nhà máy sản xuất
thức ăn công nghiệp nuôi tôm và chăn nuôi công nghiệp, nhà máy chế biến v.v..đảm
bảo đầu vào và đầu ra cho ngành.
2.2.2 Đầu tư khai thác thủy sản:
Với tốc độ gia tăng dân số chóng mặt, sinh vật sống trong nước không phát
triển kịp với tốc độ đánh bắt, khai thác của con người. Dần dần trữ lượng thủy hải
sản ở vùng biển gần bờ cũng hết, để phát triển ngành thủy sản lâu dài và thu được
13
giá trị cao hơn, chúng ta cần phải biết đầu tư tàu thuyền, dụng cụ để đánh bắt được
ở ngoài khơi xa.
Ngư dân cũng cần trang bị thêm thiết bị, máy móc để tăng năng suất và hiệu
quả, cũng như đảm bảo an toàn đi biển. Nhà nước cũng tích cực xây các đài phát
sóng, phát tín hiệu giữ liên lạc với tàu thuyền trong hải phận nước mình, thông báo
tin thời tiết, bão lũ để các tàu tránh bão kịp thời.
Đầu tư phát triển mới còn cần kết hợp với biện pháp bảo vệ nguồn lợi thủy
sản, đầu tư phát triển công nghệ lọc dầu, xử lý chất thải ở những vùng biển bị ô
nhiễm nghiêm trọng bởi dầu, chất thải công nghiệp và thuốc bảo vệ thực vật. Đầu tư
phát triển công cụ khai thác, đánh bắt thủy sản hiện đại và an toàn hơn, không sử
dụng các công cụ khai thác có tính hủy diệt nguồn lợi như: chất nổ, xung điện, chất
độc…
2.2.3 Đầu tư nuôi trồng thủy sản:
Phát triển nuôi trồng thủy sản kết hợp với việc lập dự án đầu tư cụ thể như
quy hoạch phát triển thủy lợi và đê biển chung trên địa bàn nuôi trồng thủy sản.
Những vùng ruộng sản xuất lúa kém hiệu quả cần khuyến khích người dân chuyển
đổi sang nuôi trồng thủy sản. Tùy theo điều kiện sinh thái, môi trường, thổ nhưỡng
và khả năng thủy lợi của từng vùng và địa phương mà chọn hướng đầu tư tổ chức và
đầu tư vào công nghệ cho thích hợp như: như nuôi thâm canh, bán thâm canh, nuôi
luân canh một vụ lúa, một vụ tôm hoặc cá, nuôi xen canh kết hợp lúa – cá, lúa –
tôm, nuôi thủy sản kết hợp với trồng rừng, nuôi sinh thái hoặc làm vườn.
Đầu tư vào khoa học công nghệ sản xuất giống thủy sản nhân tạo phục vụ
cho nuôi trồng thủy sản. Nghiên cứu tạo ra nhiều giống mới có khả năng sinh sản
cao, kháng bệnh tốt, thích ứng nhanh với thay đổi môi trường và cho năng suất cao,
tạo khả năng chủ động về giống nuôi cho thủy sản thương phẩm ở quy mô ngày
càng tăng. Đặc biệt, những giống thủy sản có giá trị xuất khẩu cao, có nhu cầu cao
trên thị trường thế giới cần được quan tâm lai tạo để thích nghi được với khí hậu
vùng nuôi trồng.
Đầu tư xây dựng và nâng cấp các trung tâm giống thủy sản quốc gia và các
trại giống cấp I cấp tỉnh.
2.2.4 Đầu tư cho chế biến và xuất khẩu thủy sản:
14
Đầu tư đổi mới công nghệ hiện đại và nâng cấp xí nghiệp chế biến, tạo ra sản
phẩm chất lượng và có tính đa dạng, tạo ra những sản phẩm có chất lượng ổn định,
đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, tiết kiệm nhiên liệu, giữ vệ sinh môi
trường, an toàn cho người sử dụng.
Đầu tư phát triển công nghệ vận chuyển, bảo quản nguyên liệu sau thu
hoạch, đảm bảo khả năng cung cấp nguyên liệu cho hoạt động sản xuất vận hành
với công suất tối đa.
Đầu tư marketing, hệ thống phân phối để mở rộng thị trường và đa dạng hóa
các mặt hàng chế biến cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Lấy sự đa dạng của
mặt hàng chế biến để kích thích lại sự đa dạng của nguồn nguyên liệu từ khao thác
và nuôi trồng. Đồng thời tận dụng sản phẩm của khai thác để tạo ra hàng hóa giá trị
gia tăng, lấy chế biến làm cơ sở cho việc nâng cao giá trị các sản phẩm thủy sản.
Nói chung, một mặt nâng cao khả năng cạnh tranh của thủy sản xuất khẩu, mặt khác
tập trung khai thác thị trường nội địa có sức mua lớn, đang tiếp tục tăng cùng sự
phát triển ngành du lịch nước ta.
2.2.5 Đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực:
Con người là yếu tố quan trọng có tính quyết định đến quá trình phát triển
sản xuất và chế biến sản phẩm. Vì vậy cần coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng để
thường xuyên nâng cao trình độ về chuyên môn kỹ thuật cho người lao động làm
công tác chế biến thủy sản. Đồng thời việc nâng cao cả thể trạng cho người lao
động bằng các giải pháp thích hợp đảm bảo cho họ có đủ khả năng và thể lực dồi
dào để thực hiện tốt yêu cầu nhiệm vụ chế biến thủy sản đặt ra.
Đào tạo, thay đổi nhận thức ngư dân để họ không sử dụng các công cụ khai
thác lỗi thời, lạc hậu, gây hủy diệt và ô nhiễm nguồn nước như chất nổ, chất độc,
xung điện…
Về lao động đánh cá, cần đào tạo mới và bổ sung nghiệp vụ cho số lao động
này vì không có thuyền trưởng giỏi thì khó mà phát triển đánh bắt xa bờ. Chọn các
thuyền trưởng và thuyền viên đã qua sản xuất đi đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao
trình độ hoặc đưa đi đào tạo, bồi dưỡng đồng bộ ở nước ngoài theo loại nghề mà có
chủ trương du nhập công nghệ.
15
Về lao động nuôi trồng thủy sản, cần chú trọng đào tạo chuyên môn, tạo
nguồn nhân lực và khuyến ngư. Xóa bỏ tập quán nuôi trồng lạc hậu, áp dụng khoa
học kỹ thuật vào nuôi trồng, đào tạo nguồn nhân lực làm chủ được các khoa học kỹ
thuật áp dụng.
2.3
Các chỉ tiêu đánh giá kết quả, hiệu quả đầu tư phát triển Thủy
Sản
2.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá kết quả
Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư, tuy nhiên sau đây là 2 chỉ tiêu
quan trọng, và phản ánh chính xác nhất kết quả đầu tư phát triển ngành Thủy Sản.
2.3.1.1 Ảnh hưởng của ngành Thủy Sản tới sự phát triển chung của đất nước.
- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2010 ước tính tăng
6,52% so với chín tháng năm 2009. Trong tổng sản phẩm trong nước chín tháng, khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 21,09%; khu vực công nghiệp và xây dựng
chiếm 40,85%; khu vực dịch vụ chiếm 38,06%; Trong đó Kinh tế thủy sản đóng góp
16,52% GDP trong khối nông – lâm – ngư nghiệp. Trong mức tăng trưởng chung của
toàn nền kinh tế chín tháng năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng
2,89%.
=> Qua các số liệu trên cho thấy ngành thủy sản đã đóng góp một phần không
nhỏ vào GDP của đất nước. Bên cạnh đó, do đặc trưng của ngành Thủy Sản có tính
chất liên ngành cao, nên sư phát triển của ngành sẽ tác động tích cực tới sự phát triển
của các ngành chuyên môn hóa hẹp như: công nghiệp đánh bắt cá biển, cơ khí chế
tạo và sửa chữa tàu thuyền, công nghiệp chế biến thức ăn cho chăn nuôi thủy sản,
công nghiệp chế biến thủy sản,…
- Theo kế hoạch của bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020
Kinh tế thủy sản đóng góp 20-35% GDP trong khối nông – lâm – ngư nghiệp,tạo
việc làm cho 5 triệu lao động nghề cá có thu nhập bình quân đầu người cao gấp 3
lần so với hiện nay…
2.3.1.2 Giá trị sản xuất Thủy Sản
Theo kết quả điều tra 8 tháng đầu năm 2010, tổng sản lượng thủy sản ước đạt
3.347,6 nghìn tấn, tăng 4,6% so cùng kỳ năm trước; trong đó sản lượng cá đạt
2.557,4 nghìn tấn, tăng 4,4%, tôm 348,7 nghìn tấn, tăng 5,7%; sản lượng thủy sản
nuôi trồng đạt 1.760,3 nghìn tấn, tăng 4,9%, sản lượng thủy sản khai thác đạt 1.587
16
nghìn tấn, tăng 4,2% (trong đó khai thác biển đạt 1.471 nghìn tấn). Về xuất khẩu
thuỷ sản tháng 8 ước đạt 460 triệu USD, đưa giá trị xuất khẩu 8 tháng đầu năm
2010 lên 2,9 tỷ USD.
Tính riêng tháng 8/2010, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 454,4 nghìn tấn,
tăng 4,3% so cùng kỳ năm trước; trong đó cá đạt 327 nghìn tấn tăng 3,6%, tôm 74,7
nghìn tấn, tăng 7% so với cùng kỳ năm 2009.
Được biết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đưa ra mục tiêu tổng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 4,5 tỷ USD trong năm nay.
2.3.2 Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư
2.3.2.1 Chỉ tiêu : GDP / vốn đầu tư
Trong đó : + GDP : Tổng sản phẩm
+ Vốn đầu tư: là số vốn đầu tư của một dự án, của nhiều dự án
đầu tư hay của cả một tỉnh, một nước trong thời kì nhất định.
Chỉ tiêu nay cho biết tỉ lệ tương ứng giữa GDP và vốn đầu tư: GDP gấp bao
nhiêu lần vốn đầu tư của cùng năm đó và cũng cho biết mức độ tiết kiệm của nền
kinh tế và hiệu quả của đồng vốn đầu tư của tỉnh. Nếu tỉ lệ tích lũy và tích kiệm của
nền kinh tế cao ( tức là mức tiết kiệm cuả nền kinh tế bằng 30-35% GDP, nếu đảo
ngược lại nghĩa là GDP gấp 3,4 lần mức tích lũy tiết kiệm ( hay vốn đầu tư).
Trong các chỉ tiêu tính hiệu quả đầu tư trong ngành Thủy Sản thì đây là chỉ
tiêu dễ tính nhất cũng như đơn giản nhất bởi vì các số liệu thu thập về GDP cũng
như về vốn đầu tư là tương đối dễ.
2.3.2.2 Giá trị sản phẩm thuần túy tăng thêm (NVA)
Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô của đầu
tư. NVA là mức chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào.
Công thức tính : NVA = O – (MI+ Iv)
Trong đó: + NVA: giá trị sản phẩm thuần túy tăng thêm do đầu tư mang lại
+ O : giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư (doanh thu)
+ MI: giá trị đầu vào của vật chất thường xuyên và các dịch
vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây ( năng lượng. nhiên liệu, lao
động…)
17
+ Iv: vốn đầu tư hoặc khấu hao.
Trong ngành Thủy Sản, chỉ tiêu này rất phù hợp bởi nhiều dự án Thủy Sản
mang lại lợi ích xã hội hơn là lợi nhuận. nếu tính theo chỉ tiêu này thì mức lợi ích
tính được của đầu tư trong ngành Thủy sản là tương đói cao. Tuy nhiên đây lại là
chỉ tiêu rất khó được xác định.
2.3.2.3 Hệ số ICOR:
- Biểu hiện tập trung của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng
kinh tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR. Ở đây ta chỉ xét đến mối quan hệ giữa
đầu tư và phát triển kinh tế ngành.
- Hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio – tỷ số gia tăng của vốn so
với sản lượng) là tỷ số giữa quy mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng,
hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng tăng thêm.
- Về phương pháp tính, hệ số ICOR ngành được tính như sau:
=
: hệ số ICOR ngành i
Chia cả tử số và mẫu số cho giá trí sản lượng nghành, có công thức thứ hai:
=
Từ công thức trên cho thấy, nếu ICOR không thay đổi tốc độ tăng sản lượng
ngành hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Tuy nhiên, hệ số ICOR ngành còn chịu
ảnh hưởng của nhân tố:
+ Thứ nhất, sự phát triển của khoa học và công nghệ có ảnh hưởng hai mặt
đến hệ số ICOR. Gia tăng đầu tư cho khoa học công nghệ làm cho tử số của công
thức tăng, mặt khác, sẽ tạo ra nhiều công nghệ mới, giống nuôi mới, làm máy móc
hoạt động hiệu quả hơn, năng suất cao hơn, kết quả đầu tư tăng lên (tăng mẫu số
của công thức). Như vậy, hệ số ICOR tăng hay giảm phụ thuộc vào xu hướng nào
chiếm ưu thế.
18
+ Thứ hai, do thay đổi cơ chế chính sách và phương pháp tổ chức quản lý.
Cơ chế chính sách phù hợp, đầu tư có hiệu quả hơn (nghĩa là, kết quả đầu tư ở mẫu
số tăng lớn hơn chi phí tử số) làm cho ICOR giảm và ngược lại.
- ICOR của mỗi mỗi ngành phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình
độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách của đất nước. Ở một số ngành, ICOR
thường cao do phải đầu tư nhiều vào máy móc, công nghệ thay thế cho lao động,
hoặc thời hạn đầu tư dài, chi phí đầu tư lớn, lao động không thay thế được như du
lịch, công nghiệp điện tử…ICOR ngành thủy sản phải thấp do cần phải sử dụng
nhiều lao động để thay thế cho vốn. ICOR ngành thủy sản mà cao chứng tỏ việc sử
dụng vốn chưa hiệu quả, còn thất thoát lãng phí vốn.
Tuy nhiên, hệ số ICOR là một chỉ tiêu phản ảnh mối quan hệ giữa đầu tư và
tăng trưởng không hoàn hảo, do các nguyên nhân sau:
+ ICOR bỏ qua sự tác động của các ngoại ứng như điều kiện tự nhiên,
xã hội, cơ chế chính…
+ Hệ số ICOR không tính đến yếu tố độ trể thời gian của kết quả và chi phí,
nhiều khi đầu tư tăng ở thời kì, giai đoạn này đến thời kì sau mới có kết quả.
Vì vậy hệ số ICOR sẽ có một số sai lệch nhất định, vấn đề tái đầu tư…
2.3.2.4 Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành thủy sản trong ngành nông lâm ngư
nghiệp:
- Để đánh giá tốc độ phát triển của ngành thủy sản so với các ngành khác
trong nông lâm ngư nghiệp, chúng ta còn sử dụng tỷ trọng giá trị sản xuất ngành
thủy sản trong ngành nông lâm ngư nghiệp. Theo mục tiêu hiện đại hóa – công
nghiệp hóa nông nghiệp nông thôn và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông
nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất ngành thủy sản phải ngày càng tăng.
Tỷ trọng giá trị sản xuất của ngành thủy sản so với các ngành nông lâm ngư
nghiệp khác được tính bằng:
D=
x 100%
- Ngoài ra có thể sử dụng chỉ tiêu dưới đây để đánh giá vai trò của đầu tư tác
động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
19
Hệ số co dãn giữa việc
thay đổi cơ cấu đầu tư
=
với thay đổi cơ cấu
kinh tế của ngành
Chỉ tiêu này cho biết, để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP
(thay đổi cơ cấu kinh tế) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu.
2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư phát triển thủy sản
2.4.1 Cung – cầu thủy sản
2.4.1.1 Cầu
Cần khẳng định ngay rằng thị trường và nhu cầu tiêu dùng có ảnh hưởng trực
tiếp đến các quyết định đầu tư. Bởi vì thị trường và nhu cầu của xã hội là người đặt
hàng cho tất cả các ngành nghề, cơ sở kinh tế, đến xu hướng phát triển và phân công
lao động xã hội, đến lĩnh vực kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế. Nếu như xã hội
không có nhu cầu thì tất nhiên không có bất kì một quá trình sản xuất nào. Cũng
như vậy không có thị trường thì không có kinh tế hàng hóa.
Thị trường và nhu cầu xã hội không chỉ quy định về số lượng mà cả về chất
lượng các sản phẩm hàng hóa dịch vụ, nên nó có tác động trực tiếp đến quy mô,
trình độ phát triển của các vị trí, tỷ trọng của các ngành, các khu vực, các thành
phần kinh tế trong cơ cấu đầu tư.
Theo ước tính của Tổ chức lương thực thế giới (FAO), nhu cầu thủy hải sản
trên thế giới ở mức cao. Đối với các nước công nghiệp phát triển, thị trường xuất
khẩu chính của Việt Nam, mức tiêu thụ thủy hải sản là trên 30kg/người/năm. Trong
khi đó, nhu cầu nội địa cũng đang tăng cao do đời sống người dân ngày càng được
cải thiện. Theo ước tính hiện nay là trên 20kg/người/năm. Như vậy, nhu cầu tiêu thụ
các sản phẩm thủy hải sản là rất tiềm năng. Đặc biệt bước sang năm 2010, khi cuộc
khủng hoảng kinh tế đã qua, đời sống người dân dần ổn định và nâng cao, nhu cầu
tiêu thụ mặt hàng thủy hải sản trên thế giới cũng như nội địa sẽ tăng lên.
2.4.1.2 Cung
Xét về nguồn cung thủy sản hiện nay ở Việt Nam, Việt Nam có hơn 1 triệu
km đường bờ biển và 1,4 triệu hecta mặt nước nội địa vì vậy nguồn cung thủy hải
20
sản rất dồi dào và ổn định. Trữ lượng hải sản ở Việt Nam ước tính có khoảng 4,2
triệu tấn và nguồn tái tạo là khoảng 1,73 triệu tấn. Mở rộng diện tích nuôi trồng
thủy sản và cải thiện khả năng khai thác đánh cá xa bờ đã giúp sản lượng thủy hải
sản Việt Nam không ngừng tăng trong những năm qua.
2.4.1.3 Cung –cầu
P
D’
D
S
A’
C’
S’
B
Tác động của cung, cầu và giá cả thủy sản
Q
Giả sử cung cầu thủy sản đang đạt điểm cân bằng tại C, lúc đó giá thủy sản ở
P*, sản lượng đạt Q*. Nếu cung thủy sản tăng lên, tức là đường cung dịch chuyển
sang phải, từ S dịch chuyển sang S’, lúc này giá thủy sản sẽ giảm xuống từ P*
xuống . Nhà đầu tư nhận thấy đầu tư vào ngành thủy sản không còn hấp dẫn nữa,
lợi nhuận không cao sẽ quyết định chuyển vốn sang đầu tư ngành khác.
Nếu nhu cầu thủy sản tăng lên, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải từ D
chuyển sang D’, cung không đủ cầu, giá thủy sản tăng từ P* lên . Nhận thấy đầu
tư vào ngành thủy sản có lợi nhuận cao, nhà đầu tư tăng đầu tư vào ngành thủy sản.
Và tương tự ngược lại với nhu cầu giảm hoặc nguồn cung giảm. Tác động
của cung, cầu và giá cả thủy sản có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định đầu tư
ngành thủy sản.
- Xem thêm -