Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đầu tư phát triển các kcn – kcx vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ. thực trạng và gi...

Tài liệu đầu tư phát triển các kcn – kcx vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ. thực trạng và giải pháp

.DOC
58
40
134

Mô tả:

MỞ ĐẦU Trước bậc thềm của thế kỷ XXI, kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đang từng bước tạo những dấu ấn cho một thời kỳ phát triển đầy năng động. Đặc biệt hơn, Đảng và Nhà nước ta đã và đang chủ trương phát triển đất nước, tạo một bước nhảy lớn để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để làm được điều đó, chúng ta phải không ngừng phấn đấu trong mọi khía cạnh xã hội nhất mà biểu hiện rõ nhất là tốc độ phát triển kinh tế. Tuy vậy, những năm 2008 -2009 là giai đoạn mà toàn thế giới đang phải đối mặt với những thách thức của cuộc khủng hoàng tài chính – kinh tế toàn cầu diễn ra ngoài mong đợi. Bắt nguồn từ Mỹ, cuộc khủng hoảng đã nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới với quy mô và mức độ nghiêm trọng. Theo đó, Việt Nam cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng của cuộc đại khủng hoảng này. Khó khăn chồng chất khó khăn, con đường tiến tới mục tiêu của chúng ta đến năm 2020 lại càng trở lên gồ ghề hơn bao giờ hết. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo, thận trọng trong từng bước đi, các nhà quản lý kinh tế cần đưa ra được các giải pháp hữu hiệu cho những vấn đề còn tồn tại nhằm “một bước đi đôi”, đưa nền đất nước chúng ta đạt được mục tiêu đã định. Trong thời gian thực tập và nghiên cứu tại Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ Kế Hoạch và Đầu tư, em nhận thấy hoạt động phát triển các KCN – KCX hiện nay có rất nhiều vấn đề đáng quan tâm: KCN – KCX đã và đang là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời trong bức tranh chung của toàn nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh sự đóng góp không nhỏ vào quá trình tăng trưởng, quá trình thành lập và hoạt động của các KCN đã bộc lộ không ít những bất cập, hạn chế cần khắc phục. Từ nhận thức này, trong khi hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp tại Vụ, em đã lựa chọn cho mình đề tài nghiên cứu: “Đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Thực trạng và giải pháp” những mong nâng cao được sự hiểu biết về thực trạng phát triển các KCN – KCX cả nước nói chung và vùng KTTĐBB nói riêng. Đồng thời từ đó từng bước đề ra các giải pháp nhằm xử lý các vấn đề còn tồn tại nhằm tạo đà cho sự phát triển mạnh mẽ các KCN – KCX cả nước nói chung và vùng KTTĐBB nói riêng trong tương lai. Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã rất cố gắng nhưng không thể tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế do thiếu thông tin và kinh nghiệm thực tiễn có hạn. Bởi vậy, rất mong thầy Nguyễn Hồng Minh chỉ bảo, góp ý để chuyên đề của em được hoàn thiện hơn! Em cũng xin chân thành cảm ơn quá trình hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của thầy Nguyễn Hồng Minh, sự nhiệt tình và thiện chí giúp đỡ từ các cô chú, anh chị tại Vụ Quản lý các Khu kinh tế - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp em hoàn thành chyên đề này! CHƯƠNG 1 : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CÁCKCN-KCX TẠI VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM BẮC BỘ. 1.1. Những nét khái quát về Khu công nghiệp, Khu chế xuất. 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm KCN - KCX. 1.1.1.1. Khái niệm. Xuất phát từ các quốc gia ven bờ Đông và Nam Địa Trung Hải vào đầu thế kỷ XIX, mô hình KCN đã manh nha sang Châu Á dưới hình thức hải cảng tự do. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và đầu tư, KCN dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như khu mậu dịch tự do, khu quá cảng, các đặc khu kinh tế… KCN, KCX ở nước ta được hình thành và phát triển từ năm 1991, khởi đầu là KCX Tân Thuận tại thành phố Hồ Chí Minh, đến nay đã trải qua 17 năm phát triển. Các KCN đã góp phần thúc đẩy công nghiệp phát triển, tăng trưởng kinh tế, hình thành các trung tâm công nghiệp gắn liền với phát triển đô thị, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH HĐH, góp phần giải quyết việc làm cho lao động địa phương, đào tạo cán bộ quản lý, công nhân lành nghề, tạo điều kiện để xử lý các tác động tới môi trường một cách tập trung. Các KCN thực sự đóng vai trò tích cực trong công cuộc CNH-HĐH đất nước. Theo luật Đầu tư 2005, định nghĩa về KCN, KCX như sau: Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính Phủ. Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính Phủ. Hai định nghĩa này đã cho chúng ta có một quan niệm đúng đắn, chính xác, từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý tiến tới phát triển một cách mạnh mẽ các KCN, KCX, góp phần trong tăng trưởng chính của đất nước. 1.1.1.2. Đặc điểm. Cho đến nay, các KCN đã được phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển. Mặc dù có sự khác nhau về quy mô, địa điểm và phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng nhưng nói chung, các KCN có những đặc điểm chủ yếu sau đây: - Về tính chất hoạt động: KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư; là nơi xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc các đơn vị kinh doanh dịch vụ gắn liền với sản xuất công nghiệp. Theo điều 6, Quy chế KCN, KCX, KCNC ban hành kèm Nghị định 36CP thì doanh nghiệp KCN có thể là các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các bên tham gia Hợp đồng hợp tác kinh doanh, các doanh nghiệp này được quyền kinh doanh các lĩnh vực sau: + Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. + Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu dùng ở trong nước; phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ. + Nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng và tạo ra sản phẩm mới. + Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. - Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: Các KCN đều xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đường xá, hệ thống điện nước, điện thoại…Thông thường việc phát triển cơ sở hạ tầng trong KCN do một công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng đảm nhiệm. Ở Việt Nam, những công ty này là các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp trong nước thực hiện. Các công ty phát triển cơ sở hạ tầng KCN sẽ xây dựng các kết cấu hạ tầng sau đó cho sau đó được phép cho các doanh nghiệp khác thuê lại. - Về tổ chức quản lý: Mỗi KCN đều thành lập hệ thống BQL KCN cấp tỉnh tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để trực tiếp thực hiện các chức năng quản lý Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh trong KCN. Ở tầm vĩ mô, quản lý các KCN còn gồm có nhiều Bộ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp. 1.1.2. Vai trò của khu công nghiệp, khu chế xuất. Hiện nay KCN - KCX đã và đang có những vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế đất nước. Dưới đây là một số vai trò tiêu biểu: 1.1.2.1. Đóng góp lớn vào thành tựu phát triển chung của kinh tế cả nước, thúc đẩy nền kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây có lẽ là một trong những vai trò hàng đầu và cũng là mục tiêu phát triển các KCN của nhà nước ta. Nếu như trước đây, các đơn vị sản xuất công nghiệp hình thành một cách manh mún, chưa có tổ chức. Điều đó không chỉ tạo cho việc khó khăn trong việc quản lý, quy hoạch mà còn không tạo được đà trong quá trình phát triển vì mạnh ai người ấy làm, không xem xét đến sự ảnh hưởng chung như đầu ra của sản phẩm, môi trường, xã hội. Thì nay, việc quy hoạch các đơn vị đó thành các khu công nghiệp, có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, các KCN đã và đang tạo ra một lượng sản phẩm lớn, góp phần không nhỏ vào tăng trưởng GDP chung của cả nước. Cụ thể như trung bình giai đoạn 2001-2005, các KCN có tốc độ phát triển trung bình 7,5%, riêng năm 2006 đạt 8,17% tổng GPD toàn xã hội, ước đạt 61,7 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 11,5 triệu đồng, tương đương 720USD… Các KCN đã và đang tạo nhân tố chủ yếu trong việc tăng trưởng công nghiệp theo quy hoạch, tăng khả năng thu hút đầu tư, đẩy mạnh nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và hạn chế tình trạng ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra. Chính sự phát triển các KCN cũng đã thúc đẩy việc phát triển các đô thị mới, phát triển các cơ sở phụ trợ và dịch vụ, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội chung. Ảnh hưởng tích cực tác động của các KCN có thể xác định rõ trên một số khía cạnh chủ yếu như: Tạo điều kiện mặt bằng thuận lợi cho việc hình thành các doanh nghiệp công nghiệp mới, tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư cho sản xuất công nghiệp (bao gồm cả vốn trong và ngoài nước, bao gồm cả vốn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất). Tạo điều kiện để tập trung xử lý chất thải, bảo vệ môi trường thuận lợi hơn, hợp lý hơn, đặc biệt là đảm bảo việc hình thành một đô thị hợp lý, bền vững. Trên cơ sở thuận lợi về mặt bằng sản xuất, các doanh nghiệp có điều kiện phát triển sản xuất, thu hút thêm lao động, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động (kể cả làm việc tại các KCN, các việc làm phụ trợ ngoài KCN, các dịch vụ cần thiết để hỗ trợ cho sự phát triển KCN). Tạo điều kiện để thực hiện các liên kết, hỗ trợ kinh tế mới (hỗ trợ về công nghệ, hỗ trợ về quản lý. Đặc biệt với sự phát triển của công nghệ thông tin, hiện nay sự gắn kết hỗ trợ các ngành cơ khí, điện, điện tử với nguyên lý điều khiển số, xử lý tri thức). Trên cơ sở các kết quả nêu trên sẽ đóng góp đáng kể vào sự phát triển ngành công nghiệp và đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của bản thân các địa phương có KCN và cả nước nói chung. Quá trình phát triển các KCN ở Việt Nam thời gian qua đã có những tác động tích cực đối với nền kinh tế nói chung và công cuộc CNH - HĐH nói riêng. Vai trò quan trọng của các KCN trong quá trình CNH - HĐH đã được thể hiện rõ trong sự đóng góp của các KCN trong việc tạo tốc độ tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế (khối lượng vốn đầu tư cho công nghiệp, giá trị doanh thu và xuất khẩu của các KCN, số việc làm tạo ra, trình độ công nghệ và kinh nghiệm quản lý.) tạo nên một số ngành công nghiệp có năng lực cạnh tranh, một vài ngành công nghệ cao (sản xuất các phụ tùng, phụ kiện cho máy bay Airbus) cũng như sự chuyển giao công nghệ tiên tiến hơn, kỹ năng quản lý và tiếp thị, đào tạo tay nghề cho người lao động Việt Nam (kể cả tâm lý xã hội và phong cách lao động công nghiệp - một yếu tố không nhỏ trong quá trình phát triển). 1.1.2.2. Phát triển KCN, KCX cũng là hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng Việc phát triển các KCN trong thời gian qua không những thúc đẩy các ngành dịch vụ phát triển, thúc đẩy CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn, mà còn đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa, góp phần đáng kể vào việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN. Điều này được thể hiện qua một số khía cạnh sau: Đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng các KCN có tác dụng kích thích sự phát triển kinh tế địa phương, góp phần rút ngắn sự chênh lệch phát triển giữa nông thôn và thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Điều này có thể dễ dàng nhận nhất ở những vùng có KCN phát triển mạnh như Biên Hòa, Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thuận An (Bình Dương), Tiên Sơn (Bắc Ninh), cùng với quá trình phát triển KCN, các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực đã được cải thiện đáng kể, nhu cầu về các dịch vụ gia tăng, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở dịch vụ trong vùng. Cùng với các chính sách ưu đãi về tài chính và công tác quản lý thuận lợi của nhà nước, có thể nói việc thu hút nguồn vốn để đầu tư xây dựng hoàn thiện và đồng bộ các kết cấu hạ tầng trong KCN có vai trò quyết định trong việc thu hút đầu tư. Việc các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế (doanh nghiệp quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp ngoài quốc doanh) tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KCN không những tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong KCN hoạt động hiệu quả, mà còn tạo sự đa dạng hóa thành phần doanh nghiệp tham gia xúc tiến đầu tư góp phần tạo sự hấp dẫn trong việc thu hút doanh nghiệp công nghiệp vào KCN. Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút các dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cư, tạo điều kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị, tái tạo và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng trong khu vực như KCN Tân Tạo (thành phố Hồ Chí Minh), Việt Hương (Bình Dương). Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển các khu dân cư mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch vụ, các công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong khu vực như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí. 1.1.2.3. KCN, KCX góp phần trong việc nâng cao trình độ công nghệ, hiện đại hóa cách thức quản lý sản xuất. KCN, KCX là khu vực có những điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng cùng với nhiều chính sách ưu đãi đầu tư được áp dụng. Đây chính là điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư, trong đó có đầu tư nước ngoài. Một số công nghệ tiên tiến, hiện đại trên thế giới cùng trình độ quản lý cao của đội ngũ cán bộ doanh nghiệp, trình độ tay nghề của công nhân theo các chuẩn mực quốc tế đã được áp dụng tại Việt Nam. Đây cũng là những nhân tố quan trọng góp phần để nước ta thực hiện việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. KCN là nơi tiếp nhận công nghệ mới, tập trung những ngành nghề mới, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Cùng với dòng vốn đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN, các nhà đầu tư còn đưa vào Việt Nam những dây chuyền sản xuất với công nghệ tiên tiến, hiện đại, trong đó có cả những dự án công nghiệp kỹ thuật cao (phần lớn của Nhật Bản), như Công ty TNHH Canon Việt Nam, Mabuchi Motor, Orion Hanel, những lĩnh vực mà chúng ta còn yếu kém và cần khuyến khích phát triển như cơ khí chính xác, điện tử. Các doanh nghiệp trong KCN, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp sức đào tạo được đội ngũ lao động công nghiệp sử dụng và vận hành thành thạo các trang thiết bị phục vụ quản lý và sản xuất, nắm vững công nghệ, có tác động lan tỏa và nâng trình độ tay nghề của đội ngũ lao động Việt Nam lên một bước. Một lượng đáng kể người lao động Việt Nam được đảm nhận các vị trí quản lý doanh nghiệp, được tiếp xúc với phương thức quản trị doanh nghiệp tiên tiến, hiện đại, kỹ năng marketing, quản lý tài chính, tổ chức nhân sự. Việc được trực tiếp làm việc trong môi trường có kỷ luật cao, yêu cầu tay nghề cao, dã rèn luyện được những kỹ năng và bản lĩnh làm việc giúp người lao động Việt Nam thích ứng với một nền công nghiệp tiên tiến, hiện đại. 1.1.2.4. KCN, KCX đã góp phần bảo vệ môi trường sinh thái. Hiện nay, với tốc độ phát triển nóng của kinh tế trong nước nói riêng cũng như thế giới nói chung, vấn đề giải quyết ô nhiễm môi trường do quá trình sản xuất công nghiệp để lại đã và đang trở lên cấp thiết hơn lúc nào. Bởi nếu chúng ta cứ chăm chú phát triển mà quên đi vấn đề môi trường, chẳng bao lâu chính chúng ta sẽ phải nhận hậu quả. Điều này hiện nay đã và đang thấy rõ. KCN, KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện tập trung, xử lý chất thải, tạo điều kiện kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do sự tập trung về địa điểm sản xuất. KCN, KCX góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất ô nhiễm ra khỏi thành phố, do đó góp phần giải quyết ô nhiễm đô thị, tạo điều kiện quy hoạch đô thị hiện đại. Thực tế cho thấy các một số KCN, KCX thực hiện rất tốt và hài hoà mục tiêu thu hút đầu tư với giải quyết vấn đề môi trường, thực sự là những “công viên công nghiệp”, là mẫu hình để các KCN, KCX khác tiếp tục triển khai áp dụng, điển hình là KCN Biên Hoà II, KCN Bắc Thăng Long, KCX Tân Thuận. 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư phát triển các KCN – KCX. 1.1.3.1. Các nhân tố vĩ mô: - Tình hình phát triển chung của toàn nền kinh tế: Đây một yếu tố dễ thấy trong sự ảnh hưởng đến sự phát triển của các KCN nói chung. Bởi khi nền kinh tế có tốc độ phát triển cao đồng nghĩa với cung - cầu linh hoạt, xuất nhập khẩu cũng có những biểu hiện tích cực, góp phần đẩy nhanh đầu ra mà còn dễ dàng trong việc thu hút các đầu vào như vốn, nguồn lực... Ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào suy thoái hoặc trì trệ phát triển. Biểu hiện dễ thấy nhất là tình hình kinh tế thế giới nói chung và trong nước nói riêng hiện nay. Điều đó sẽ gây ra nhiều tác động tới quá trình phát triển của nền kinh tế nói chung và sự phát triển của các KCN nói riêng: các nhà đầu tư dè dặt hơn, lao động bị cắt giảm, đầu ra sản xuất theo đó cũng giảm sút rõ rệt…Theo đó, đây là một trong những yếu tố khá quan trọng và có tác động lớn, từ đây đặt ra yêu cầu Chính phủ mỗi nước cần có các chính sách hợp lý, tránh để nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng mà nguyên nhân xuất phát từ chính nội tại nền kinh tế. - Chính sách thu hút đầu tư và quy hoạch phát triển của Chính phủ: Mỗi Chính phủ trong quá trình phát triển nền kinh tế của mình sẽ có những kế hoạch cụ thể. Theo đó việc đưa ra những chiến lược thu hút đầu tư nhiều hay ít, bằng biện pháp nào sẽ có những ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến lượng vốn thu hút và tốc độ phát triển các KCN. Khi chúng ta đưa ra được một quy hoạch chi tiết và một kế hoạch cụ thể trong giai đoạn, việc thực hiện và đạt được các mục tiêu đề ra đó sẽ đảm bảo cho tính phát triển ổn định và bền vững các KCN sau này. - Các cơ chế quản lý: Là hệ thống văn bản pháp luật như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Xây dựng, Đấu thầu…các Nghị định, Thông tư, Chế tài…nhằm điều chỉnh các quan hệ đầu tư nói chung và đầu tư vào các KCN nói riêng theo các quy tắc nhất định. Hệ thống các văn bản quy phạm Pháp luật này sẽ có những tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động đầu tư tùy theo trình độ xây dựng, soạn thảo của từng quốc gia, trong từng thời kỳ. Theo đó, khi hệ thống văn bản này được xây dựng và thể hiện khả năng điều chỉnh thực tiễn tốt, nó sẽ giúp giải quyết hài hòa các quan hệ mâu thuẫn, mặt khác nó sẽ góp phần tăng thêm lòng tin cho các nhà đầu tư trong quá trình bỏ vốn, ổn định sản xuất. Bởi vậy quá trình đầu tư cũng sẽ diễn ra nhanh và ổn định hơn. Thời gian qua chúng ta đang dần hoàn thiện mục tiêu “một cửa, tại chỗ” với các thủ tục đầu tư, đã góp phần tạo thêm sự thuận lợi và niềm tin cho các nhà đầu tư. Đây là một bước đi quan trọng trong tiến trình hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư. Do đó các cơ chế quản lý cũng là một trong những nhân tố vĩ mô quan trọng ảnh hưởng đến quá trình đầu tư phát triển các KCN, đòi hỏi các nhà quản lý cần có sự linh hoạt và nhanh nhạy trong việc xây dựng và triển khai một cách hợp lý. 1.1.3.2. Các nhân tố vi mô: - Cơ sở hạ tầng tại nơi hình thành KCN: Đây là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình thu hút vốn cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh khi xây dựng xong hàng rào KCN. Hệ thống CSHT gồm giao thông, điện nước, thông tin liên lạc có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các KCN. Một KCN đặt ở vị trí nơi đường xá đi lại khó khăn, điện nước không ổn định, thông tin liên lạc kém sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư, dần dần sẽ không còn nhiều nhà đầu tư bỏ vốn. Điều đó cũng giải thích cho tính hấp dẫn các nhà đầu tư tại các đô thị lớn, nơi có hệ thống đường xá, điện nước, thông tin liên lạc tốt phục vụ quá trình phát triển. Từ đó ta thấy được, trước khi xây dựng KCN cần nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố có ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, hoặc đầu tư vào CSHT trước khi xây dựng các KCN, vừa là đảm bảo cho các KCN phát triển tốt, vừa là tránh được những lãng phí không đáng có khi hình thành lên các KCN. - Định hướng phát triển KCN và chính sách thu hút nhà đầu tư của địa phương: Đây là một nhân tố thuộc nội tại địa phương hình thành KCN. Cũng giống như trên phạm vi vĩ mô, các chính sách và định hướng phát triển của địa phương cũng có những ảnh hưởng đáng kể đến mức độ phát triển các KCN. - Mức độ phát triển của địa phương: Đây là một yếu tố khách quan có tác động tích cực hay tiêu cực, giống như nhân tố vĩ mô là tốc độ phát triển của nền kinh tế, mức độ phát triển của địa phương phải đạt một ngưỡng nhất định để tạo điều kiện cho phát triển các KCN. - Tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực: Đây là các nhân tố về nguồn lực đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của các KCN. Nếu vị trí xây dựng KCN có tài nguyên đầu vào cho quá trình sản xuất phong phú, nguồn lao động đáp ứng yêu cầu…thì sẽ tạo động lực cho các KCN phát triển mạnh. - Ngoài ra, một yếu tố không thể thiếu khi đề cập đến hiệu quả hoạt động các KCN, trên phương diện chủ quan, là trình độ quản lý sản xuất của các nhà đầu tư. Đây là một yếu tố có ảnh hưởng quyết định sự hiệu quả của mỗi dự án nói riêng mà còn là hiệu quả của cả KCN nói chung. 1.2. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển các KCN, KCX Việt Nam. Khu công nghiệp (KCN), Khu chế xuất (KCX) hình thành và phát triển gắn liền với công cuộc Đổi mới được khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986). Đại hội VI đã đánh dấu bước đổi mới căn bản về nhận thức và tư duy về kinh tế mà trọng tâm là chủ trương chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Việc hình thành mô hình KCN, KCX kiểu mới đang được áp dụng hiện nay là nơi tập trung và thu hút các thành phần kinh tế đã thay thế dần mô hình KCN kiểu cũ là nơi tập trung các doanh nghiệp quốc doanh thuộc các ngành công nghiệp nặng bắt nguồn từ tư duy đổi mới về kinh tế tại Đại hội VI. Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ thứ 20, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và sự sụp đổ của Liên Xô đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế và đời sống xã hội nước ta, là một trong những đòi hỏi thực tiễn khách quan để Đại hội VII đề ra những đường lối, chủ trương đổi mới mạnh mẽ và toàn diện, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trên cơ sở điều kiện của đất nước và yêu cầu của thời đại, được cụ thể hoá bằng Chiến lược tổng thể phát triển kinh tế xã hội 1991 – 2010. Hàng loạt các chương trình kinh tế – xã hội được triển khai để thực hiện Nghị quyết của Đại hội VII, trong đó có chính sách phát triển KCN, KCX với sự ra đời của KCX Tân Thuận, thành phố Hồ Chí Minh (1991) và ban hành Quy chế KCX (Nghị định 322/HĐBT ngày 18/10/1991) và Quy chế KCN (Nghị định 192/CP ngày 28/12/1994). Tiếp đó, định hướng chiến lược về quy hoạch phát triển và phân bố KCN, KCX đã được Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ tại Hội nghị giữa nhiệm kỳ khoá VII 1-1994: “Quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung”. Đến Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, định hướng này được phát triển cụ thể: "Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị. Ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng các khu công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư". Lộ trình thực hiện được nêu ngắn gọn và tổng quát trong Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII là: "Phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp". Đây cũng là những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển các KCN, KCX nhằm thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII tại Đại hội IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2005 tiếp tục khẳng định: "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và các khu kinh tế mở". Báo cáo chính trị tại Đại hội X một lần nữa khẳng định chủ trương “Phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu kinh tế, nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất”, đồng thời khẳng định tư tưởng tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển bền vững, trong đó phát triển bền vững KCN, KCX được thể hiện ở những mục tiêu cụ thể trong Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2006 – 2010: “…tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung…”. Nghị quyết của Đảng tại các kỳ Đại hội từ năm 1986 đến nay đã hình thành hệ thống các quan điểm nhất quán của Đảng về phát triển KCN, KCX; khẳng định vai trò của KCN, KCX trong việc “tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” như Nghị quyết Đại hội X đã nêu rõ; đây chính là cơ sở để triển khai xây dựng quy hoạch, cơ chế, chính sách phát triển KCN, KCX trong 15 năm qua và trong giai đoạn tới. Trong năm 2008, có 48 dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập mới 40 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 15.675,6 ha (tăng 73% so với năm 2007) và mở rộng 8 KCN với tổng diện tích đất tự nhiên 2.810,8 ha (tăng 41,1% so với năm 2007). Năm 2008 là năm có số lượng KCN được thành lập mới và mở rộng nhiều nhất trong gần 17 năm xây dựng và phát triển KCN. Kết quả này xuất phát từ nhu cầu phát triển KCN của các địa phương nhằm tận dụng cơ hội thu hút đầu tư hiện đang tăng cao trên cả nước. Mặt khác, do nhiệm vụ cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho Dự án phát triển kết cấu hạ tầng KCN đã được phân cấp về địa phương, nên đã tạo điều kiện cho các địa phương chủ động và đẩy nhanh quá trình thực hiện thủ tục đầu tư. Tính đến cuối tháng 12/2008, cả nước đã có 219 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên là 61.472,4 ha, phân bố trên 54 tỉnh, thành phố trên cả nước. Trong đó, diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê theo quy hoạch đạt gần 40. 000 ha, chiếm 65% diện tích đất công nghiệp. Theo quy hoạch, từ nay đến năm 2015 sẽ thành lập thêm 91 KCN với tổng diện tích 20.839 ha và mở rộng thêm 22 KCN với tổng diện tích 3.543 ha. Dự kiến đến năm 2015 sẽ có thêm 24.381 ha đất KCN. Như vậy, sau 17 năm hình thành và phát triển, đến nay các KCN đã và đang có những đóng góp to lớn vào quá trình chuyển biến của nền kinh tế. Từ đó Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy được tầm quan trọng và việc thúc đẩy phát triển hơn nữa các KCN trong tương lai. 1.3. Thực trạng đầu tư phát triển các KCN vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. 1.3.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Đảng ta đã có chủ trương phát triển các lãnh thổ trọng điểm ở Việt Nam đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và tiếp tục được khẳng định trong các Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII, lần thứ IX và lần thứ X, trong đó với việc thành lập các vùng KTTĐBB, miền Trung và phía Nam nhằm phát huy tối đa các lợi thế so sánh của từng vùng, tạo ra các vùng kinh tế có tính chất động lực và điều kiện bứt phá, lôi kéo và lan tỏa phát triển các vùng khác. Trước năm 2003, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm 5 tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên và Hải Dương. Sau hội nghị các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm ngày 14-15/7/2003, Thủ tướng Chính Phủ ra quyết định mở rộng ranh giới vùng KTTĐ Bắc Bộ với việc bổ sung thêm 3 tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc. Tuy nhiên đến nay, khi tỉnh Hà Tây đã được sáp nhập vào Hà Nội thì vùng KTTĐ Bắc Bộ chỉ còn được đề cập đến như 7 tỉnh, trong đó thủ đô Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và quan hệ quốc tế của cả nước. Vùng KTTĐBB nằm trong lưu vực các sông lớn như sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống, sông Thái Bình; phía Bắc giáp vùng Đông Bắc, phía Tây giáp vùng Tây Bắc là cửa ngõ thông thương với Trung Quốc; phía Nam giáp vùng Bắc Trung bộ là cửa ngõ thông thương với Lào và phía Đông giáp biển Đông. Trong vùng vừa có đồng bằng, trung du, miền núi và duyên hải; là nơi hội tụ đầy đủ các lợi thế về đường biển, đường sắt, đường bộ và đường hàng không, giao lưu thuận lợi với các tỉnh trong cả nước và các quốc gia trên thế giới. Tài nguyên thiên nhiên như đất, nước, khoáng sản, tài nguyên rừng và đa dạng sinh học trong vùng hết sức đa dạng và phong phú. Hệ thống đô thị phát triển rộng khắp. Công nghiệp phát triển sớm, tập trung đội ngũ doanh nhân lớn. Nguồn nhân lực của Vùng KTTĐBB khoảng 7,48 triệu lao động (chiếm 55,4% tổng dân số - số liệu thống kê năm 2005), là nguồn lao động có chất lượng khá cao so với mức trung bình của cả nước. So với các vùng kinh tế khác, Vùng KTTĐBB là nơi tập trung nhiều nhất các viện nghiên cứu, các trường đại học. . Chủ trương và định hướng phát triển đối với Vùng KTTĐBB đã được đề cập khá rõ trong các Quyết định số 747/TTg, số 145/2004/QĐ-TTg và Nghị quyết số 54-NQ/TW. Mặc dù ảnh hưởng của lạm phát và biến động giá cả do trên thị trường thế giới thường xuyên tạo ra mặt bằng giá mới, song các tỉnh thuộc Vùng KTTĐ Bắc bộ vẫn tăng trưởng về kinh tế, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể. Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Vùng năm 2007 đạt 13,2%; thu nhập bình quân đầu người đạt 16,6 triệu đồng, cao gấp 1,4 lần so với mức bình quân chung của cả nước. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 26,2 tỷ USD; thu ngân sách tăng bình quân 19,2%, cao hơn với mức bình quân của cả nước (18,3%); tổng thu ngân sách đạt 75.260 tỷ đồng, tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt 34,8%. Trong 2 năm 2006-2007, tổng vốn đầu tư xã hội để phát triển của Vùng đạt khoảng 237 nghìn tỷ đồng, gần bằng tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 5 năm 2001-2005 (257 nghìn tỷ đồng), tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân đạt 25,4%/năm. Tính từ năm 1988 đến hết năm 2007, Vùng KTTĐ Bắc bộ có 2.220 dự án còn hiệu lực với vốn đầu tư trên 24 tỷ USD, chiếm 26% về số dự án và 27% tổng vốn đăng ký và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước. Trong đó Hà Nội đứng đầu với 987 dự án có tổng vốn đăng ký 12,4 tỷ USD, chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện của cả vùng. Nhìn chung, vùng KTTĐ Bắc Bộ đã và đang hội tụ đầy đủ các điều kiện về kinh tế-xã hội cho phát triển kinh tế nói chung và khai thác triệt để lợi thế của các KCN nói riêng, tiến tới trở thành đầu tầu trong phát triển kinh tế cả nước. 1.3.2. Nhu cầu phát triển các KCN vùng KTTĐ Bắc Bộ. Với lợi thế tập trung các nguồn lực, dễ dàng trong việc quản lý và triển khai các chính sách kích thích phát triển, các KCN vùng KTTĐ đã và đang góp phần không nhỏ trong tốc độ phát triển chung của kinh tế toàn vùng. Trước hiệu quả đó, nhu cầu phát triển, phát triển nhanh, bền vững các KCN đang ngày càng trở lên bức xúc. Dưới đây là bảng các KCN dự kiến mở rộng và thành lập mới với các tỉnh trong Vùng: Bảng 1.1. KCN dự kiến thành lập mới và mở rộng đến 2015 Tỉnh, thành phố KCN dự kiến thành lập mới đến 2015 STT Tên KCN Diện tích (ha) KCN dự kiến mở rộng đến 2015 STT Tên KCN Diện tích (ha) 1 KCN trong KCN, đô thị, dịch vụ Nam Sơn - Hạp Lĩnh (1.000 ha) 197.5 1 KCN Tiên Sơn 100 2 KCN trong KCN, đô thị, dịch vụ Yên Phong II (1.200 ha) 1000 2 KCN Đại Đồng Hoàn Sơn 300 3 KCN Thuận Thành 200 4 KCN trong KCN, đô thị, dịch vụ Đại Kim (1.000 ha) 766 5 KCN Đông Anh 300 6 KCN Sóc Sơn 300 7 KCN Bắc Thường Tín 162 8 KCN Phú Thái 72 3 KCN Đại An 37 9 KCN Quốc Tuấn - An Bình 180 4 KCN Phúc Điền 200 10 KCN Kim Thành 150 5 KCN Tân Trường 100 11 KCN Lương Điền Ngọc Liên 150 6 KCN Việt Hòa Kenmark 90 12 KCN Bình Giang 150 13 KCN Thanh Hà 150 14 KCN Hoàng Diệu 250 15 KCN Hưng Đạo 200 16 KCN Đò Nống - Chợ Hỗ 150 7 KCN Đình Vũ 200 17 KCN Nam Cầu Kiền 100 8 KCN Normura 200 18 KCN Tàu thuỷ An Hồng 30 Bắc Ninh Hà Nội Hải Dương Hải Phòng Hưng Yên 19 KCN thị xã Hưng Yên 60 20 KCN Vĩnh Khúc 200 21 KCN Minh Quang 350 22 KCN Đông Mai 200 23 KCN Tàu thuỷ Cái Lân 70 24 KCN Chấn Hưng 80 25 Bình Xưyên II 700 Quảng Ninh Vĩnh Phúc 9 KCN Quang Minh 95 Qua bảng trên ta thấy được tổn toàn Vùng có 25 KCN dự kiến thành lập mới với tổng diện tích 6167,5 ha và 9 KCN dự kiến mở rộng với tổng diện tích 1322 ha. Điều đó cho thấy nhu cầu phát triển các KCN của toàn Vùng rất lớn. Nếu trong 17 năm hình thành và phát triển, mới có 52 KCN được hình thành trên toàn Vùng thì chỉ tính từ nay đến 2015, trong 6 năm sẽ có 25 KCN được thành lập mới (tăng 48,1%) và nhiều KCN được mở rộng. Với tốc độ và xu thế phát triển kinh tế hiện nay, nhu cầu này cũng là dễ hiểu. Tuy nhiên cùng với đó cũng sẽ nảy sinh không ít vấn đề tồn tại cần giải quyết đòi hỏi các nhà quản lý cần có cái nhìn bao quát, toàn diện và những biện pháp triệt để khắc phục. Dưới đây là phần nghiên cứu thực trạng hiện nay, qua đó không chỉ thấy được hiệu quả đầu tư phát triển các KCN mà còn thấy được các tồn tại để từ đó đề xuất các giải pháp khắc phục. 1.3.3. Thực trạng đầu tư phát triển các KCN – KCX vùng KTTĐ Bắc Bộ. 1.3.3.1. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng các KCN. a) Sự phù hợp về quy hoạch KCN: Quy hoạch là một trong những vấn đề đang được đề cập nhiều đến hiện nay. Sở dĩ như vậy là vì quy hoạch là một phần tất yếu của quá trình phát triển. Chúng ta cũng thấy được là khi một nền kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định, nó sẽ kéo theo đòi hỏi một sự quy hoạch tốt, từ đó có thể dễ dàng triển khai các công nghệ quản lý, đáp ứng được yêu cầu phát triển. Bên cạnh đó, quy hoạch tốt còn mang lại nhiều lợi ích trên phương diện tổng thể như tiết kiệm chi phí, đảm bảo yêu cầu về thẩm mỹ kiến trúc thành phố…Về vấn đề này, thực trạng quy hoạch các KCN Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có những nét tương đồng với thực trạng của cả nước. Theo đó, người ta thường xem xét từ 2 khía cạnh: Quy hoạch tổng thể và Quy hoạch chi tiết. Về Quy hoạch tổng thể, cho đến nay, chúng ta đã xây dựng được Quy hoạch tổng thể phát triển các KCN Việt Nam đến năm 2015, tầm nhìn đến 2020. Ưu điểm cơ bản của quy hoạch tổng thể là đã cho chúng ta một cái nhìn toàn cục về sự phân bố và định hướng phát triển các KCN trên phạm vi cả nước trong những năm tới; thể hiện được quan điểm ưu tiên tập trung phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời vẫn chú trọng việc phát triển hợp lý những vùng khác; đưa ra được nhiều giải pháp có tính khả thi cao và đề xuất các cơ chế, chính sách cũng như tiến độ cụ thể để thực hiện quy hoạch. Đối với các công ty quy hoạch chi tiết, trước khi triển khai đầu tư xây dựng hạ tầng và kêu gọi các nhà đầu tư, mỗi KCN đều phải xây dựng và phê duyệt quy hoạch chi tiết; trong đó, dự kiến tỉ lệ đất đai và vị trí cụ thể cho xây dựng nhà máy, kho bãi, các công trình hạ tầng nội bộ KCN, khu vực xử lý chất thải tập trung, khu hành chính, quản lý, khu cây xanh, đồng thời cũng đề ra các giải pháp di dân, tái định cư (nếu có), đền bù, giải phóng mặt bằng, tiến độ đầu tư và dự kiến các ngành công nghiệp sẽ bố trí trong KCN để làm căn cứ kêu gọi đầu tư. Như vậy, có thể thấy việc xây dựng các KCN hình thành dựa trên nguyên tắc phải tuân thủ quy hoạch. Xét về tính chất, quy hoạch tổng thể các KCN có thể coi là quy hoạch “cứng”, tức là chỉ có thể đầu tư xây dựng KCN và được hưởng các khuyến khích, ưu đãi theo quy hoạch của Chính phủ nếu nó có tên trong quy hoạch được duyệt. Đối với quy hoạch chi tiết, độ mở có lớn hơn, tức là tỉ lệ diện tích đất đai dành cho các phân khu chức năng thì phải tuân thủ khá chặt chẽ, còn loại hình, quy mô, số lượng doanh nghiệp, cơ cấu sản phẩm dự kiến khi lập quy hoạch thì chỉ mang tính định hướng. Cả 2 loại quy hoạch “ tổng thể và chi tiết” đều dựa trên nguyên tắc sau khi được phê duyệt đều phải được công bố rộng rãi để không chỉ các nhà đầu tư mà cả nhân dân địa phương đều biết. Nhìn chung, trong những năm qua, về cơ bản công tác quản lý thực hiện quy hoạch các KCN ngày càng cao, các KCN ngày càng mang dáng vẻ chính quy và sự đóng góp của chúng vào sự nghiệp phát triển của ngành công nghiệp ngày càng rõ nét. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được, công tác quy hoạch các KCN thời gian qua cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cụ thể như sau: - Đối với quy hoạch tổng thể: Công tác quy hoạch tổng thể chưa đảm bảo tính “đi trước” do được xây dựng khá muộn, khi đã hình thành một loạt KCN. Nói cách khác, quy hoạch của chúng ta trên thực tế là chạy theo để khắc phục việc đã rồi. Do mô hình KCN còn khá mới mẻ nên suốt một thời gian dài (hơn 10 năm) các KCN đều được thành lập trên cơ sở các quyết định riêng biệt của Thủ tướng Chính phủ mà không có quy hoạch. Chính vì vậy, quy hoạch tổng thể được xây dựng trước hết trên cơ sở hợp thức hóa sự tồn tại của những KCN đã có hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận về mặt chủ trương, chỉ bổ sung thêm một số khu mới. Ngoài ra, do nhu cầu (đôi khi thiếu cơ sở) và áp lực của các địa phương mong muốn sớm có KCN nên tính hợp lý và khoa học của quy hoạch tổng thể chưa cao, chưa dựa trên các phân tích, đánh giá một cách tổng thể về tiềm năng, lợi thế, khả năng huy động các nguồn lực tổng hợp không chỉ của từng địa phương mà còn cả toàn vùng, dẫn đến tình trạng hiệu quả sử dụng đất đai chung chưa cao, một số KCN không phát huy được tác dụng mong muốn, tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong đầu tư còn khá phổ biến, nhiều KCN đã phải mở rộng, trong khi không ít KCN khác không tìm được nhà đầu tư, thậm chí phải giải thể (như KCN Đài Tư (Hà Nội), KCN Đồ Sơn (Hải Phòng). Thiếu sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với các quy hoạch liên quan khác trong quá trình xây dựng, trước hết là quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, quy hoạch hạ tầng, quy hoạch dân cư , đô thị, quy hoạch lao động, bên cạnh đó, khả năng dự báo lại chưa cao nên dẫn đến tình trạng bố trí các KCN nhìn trên bình diện tổng thể còn bất hợp lý, vừa có tình trạng dàn trải, vừa có biểu hiện tập trung quá cao ở một số vùng, địa phương, lãng phí vốn đầu tư, lựa chọn địa diểm không hợp lý , không hấp dẫn nhà đầu tư (vùng hoang vu, đồi núi, đầm lầy), bố trí KCN nhưng không tính đến khả năng mở rộng đô thị, chiếm dụng quá nhiều đất sản xuất nông nghiệp, thiếu lao động được đào tạo trong khi người dân bị thu hồi đất lại không có việc làm, thiếu nhà ở cho công nhân. Tính định hướng của quy hoạch tổng thể về phân loại trình độ (loại hướng tới tiêu chuẩn quốc tế, loại đạt tiêu chuẩn khu vực, tiêu chuẩn quốc gia) và tính chất của các KCN (tổng hợp hay chuyên ngành) chưa rõ ràng. Chính những điểm khiếm khuyết này cộng với tâm lý nôn nóng đầu tư của các địa phương đã dẫn đến các hệ quả là không có sự khác biệt về mức độ ưu tiên và hỗ trợ của Chính phủ. Vì thế, nhiều địa phương tự đưa ra các cơ chế, chính sách vượt khung và khi tiến hành xây dựng quy hoạch chi tiết các KCN, hầu hết các địa phương đều thiên về hướng xây dựng KCN tổng hợp trong đó bao gồm nhiều loại ngành nghề sản xuất, đôi khi tác động xấu lẫn nhau và làm giảm khả năng liên kết, hợp tác. - Đối với quy hoạch chi tiết: Lựa chọn quy mô không thích hợp, không tính toán đầy đủ đến khả năng thu hút các dự án đầu tư, cả đầu tư và kinh doanh hạ tầng KCN cũng như đầu tư sản suất trong KCN. Điều này dẫn đến nhiều bất cập khác: KCN đưa vào hoạt động không đồng bộ, tỉ lệ lấp đầy thấp, lãng phí vốn đầu tư, thiếu căn cứ để tính toán quy mô, công suất hợp lý của các công trình hạ tầng kỹ thuật phục vụ (cấp điện, nước, xử lý chất thải). Ví dụ, căn cứ vào tổng công suất điện tiêu thụ dự kiến trong quy hoạch chi tiết, ngành điện có trách nhiệm phải đầu tư điện đi trước một bước (trạm biến áp, đường dây), song trên thực tế do phụ tải thấp (không có dự án đầu tư), trạm biến áp chỉ sử dụng một phần nhỏ công suất, gây tổn thất rất lớn. Phần lớn các KCN đều mang tính tổng hợp, có mục tiêu thu hút nhiều loại hình doanh nghiệp, kinh doanh các ngành nghề khác nhau. Vì vậy, cơ cấu đầu tư đề ra trong nhiều trường hợp không hợp lý, không xuất phát từ việc phân tích đầy đủ, sâu sắc những tiềm năng, thế mạnh của địa phương (kể cả tiềm năng, thế mạnh sẵn có cũng như có thể chủ động tạo ra trong tương lai) và mối liên kết liên vùng. Đặc điểm này sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý về sau, chứa đựng nhiều nguy cơ ảnh hưởng xấu lẫn nhau (ví dụ: nhà máy hóa chất hoặc luyện kim sẽ tác động xấu đến nhà máy chế biến thực phẩm, may mặc, lắp ráp điện tử), gây khó khăn cho việc xử lý môi trường và khó thu hút đầu tư theo đúng mục tiêu dự kiến. Xây dựng quy hoạch chi tiết KCN, nhưng không tính toán đầy đủ đến khả năng cung cấp lao động hoặc coi việc tuyển dụng, đào tạo lao động là việc của nhà đầu tư hoặc của Ban Quản lý KCN. Vì vậy không thu hút được các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài. Trước đây, khi xây dựng quy hoạch chi tiết KCN thường ít chú đến vấn đề nhà ở và các công trình phúc lợi cho công nhân, do đó, phát sinh rất nhiều vấn đề phức tạp. Vài năm gần đây, nhược điểm này đã được chú trọng khắc phục khi xây dựng quy hoạch chi tiết các KCN mới. Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa công tác xây dựng quy hoạch với công tác xúc tiến, vận động đầu tư. Những tồn tại, bất cập nêu trên có nguyên nhân chủ yếu là do năng lực của các tổ chức tư vấn xây dựng quy hoạch cũng như cơ quan thẩm định quy hoạch còn hạn chế, thiếu tầm nhìn, thiếu kinh nghiệm. Bên cạnh đó, các yếu tố khác như tâm lý nôn nóng phát triển các KCN, coi KCN như một “phép màu” thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn của một số cấp chính quyền địa phương; sự chậm trễ, thiếu đồng bộ trong việc xây dựng các quy hoạch liên quan; sự thiếu quan hệ hợp tác, liên kết giữa các địa phương trong cùng một vùng cũng góp phần không nhỏ tạo ra những tồn tại, bất cập đó. Ngoài ra, còn phải kể đến một nguyên nhân nữa là chúng ta tiến hành xây dựng quy hoạch các KCN trong khi khái niệm, tiêu chí về KCN còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Nghị định số 36/CP ngày 24-4-1997 của Chính phủ về Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất và Khu công nghệ cao đã bộc lộ khá nhiều bất cập, không phù hợp với yêu cầu của tình hình mới song chưa được điều chỉnh, sửa đổi. Trên bình diện QLNN, việc tồn tại quá nhiều đầu mối hiện nay cũng là một trong những yếu tố hạn chế chất lượng của công tác quy hoạch các KCN. Ví dụ, theo các quy định hiện hành, việc xây dựng các quy hoạch tổng thể các KCN do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm, trong khi đó chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng và phê duyệt quy hoạch chi tiết lại do Bộ xây dựng thực hiện, còn chỉ đạo việc phát triển các ngành nghề trong KCN lại là việc của Bộ Công nghiệp. Đó là chưa nói đến việc thu hút, vận động đầu tư vào các KCN, có nơi thì giao cho Ban quản lý KCN làm đầu mối, có nơi giao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư, một vài địa phương lại giao cho Sở Công nghiệp. Trên đây là những nét chung trong bức tranh quy hoạch phát triển KCN cả nước, trong đó có các KCN vùng KTTĐ Bắc Bộ. Một số KCN có trong Quy hoạch phát triển các KCN đến năm 2000 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (tại các Quyết định số 519/TTg ngày 6/8/1996 và số 194/1998/QĐ-TTg ngày 01/10/1998 của Thủ tướng Chính phủ) hoặc đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương xây dựng KCN trước năm 2000 nhưng hiện chưa được thành lập gồm: KCN Đông Anh (Hà Nội), KCN Minh Đức (Hải Phòng). Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới việc KCN không được thành lập là do không có chủ đầu tư hạ tầng KCN. Ngoài ra, vị trí quy hoạch của KCN Tam Điệp nằm sát với thị xã Tam Điệp, sản lượng khai thác khí mỏ Tiền Hải giảm đã có tác động đáng kể tới tình hình phát triển của các KCN này. b) Tình hình thu hút đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng KCN:
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan