1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LUẬT
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015-2016
ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM DO NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
2
Bình Dương, ngày 14 tháng 03 năm 2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LUẬT
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2015-2016
ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM DO NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện: Đặng Vũ Khánh Nam, Nữ: Nam
Dân tộc: Kinh
Lớp, khoa: D14LU02, Luật
Năm thứ: 2 /Số năm đào tạo: 4
Ngành học:
Người hướng dẫn:Th.s Huỳnh Thị Lệ Kha
3
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:
Ảnh 4x6
Họ và tên: Đặng Vũ Khánh
Sinh ngày: 23 tháng 02 năm 1996
Nơi sinh: huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh
Lớp: D14LU02
Khóa: 2014-2018
Khoa: Luật
Địa chỉ liên hệ: 248/50/32 tổ 4, khu 8, phường Phú Hòa, tp.Thủ Dầu Một, tỉnh Bình
Dương
Điện thoại: 0937894596
Email:
[email protected]
II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP
* Năm thứ 1:
Ngành học: Luật
Khoa: Luật
Kết quả xếp loại học tập: Khá
Sơ lược thành tích: HK I: 7.53 ; HK II: 8.14; cả năm: 7.82
* Năm thứ 2:
Ngành học: Luật
Khoa: Luật
Kết quả xếp loại học tập: khá
Sơ lược thành tích: HK I: 7.02
Ngày 14 tháng 03 năm 2016
Xác nhận của lãnh đạo khoa
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
(ký, họ và tên)
thực hiện đề tài
(ký, họ và tên)
4
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: “Đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện”
- Sinh viên/ nhóm sinh viên thực hiện:
ST
T
Họ và tên
MSSV
Lớp
Khoa
Năm thứ/ Số
năm đào tạo
1
Đặng Vũ Khánh
1423801010089
D14LU02
Luật
2/4
2
Nguyễn Thị Thu Hiền
1423801010072
D14LU02
Luật
2/4
- Người hướng dẫn: Th.s Huỳnh Thị Lệ Kha
2. Mục tiêu đề tài:
Đề tài là tâm huyết của những con người đang hằng ngày đi tìm ánh sáng pháp luật.
Qua đề tài, tác giả mong muốn cải thiện về tư duy, lối suy nghĩ, nhận thức của những
người chưa thành niên và những chủ thể khác có liên quan trong công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Đề tài còn cho mọi người
nhìn thấy rõ tình trạng người chưa thành niên phạm tội ở nước ta hiện nay, khai thác
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và đưa ra những giải pháp cụ thể giáo dục
và răn đe nhằm hướng người chưa thành niên có những nhận thức, hành động đúng
đắn, có lối sống tích cực hơn trong cuộc sống và làm kéo giảm tình hình tội phạm do
người chưa thực hiện.
3. Tính mới và sáng tạo:
Vận dụng hài hòa các phương pháp nghiên cứu khoa học và tiếp thu có chọn lọc từ
những tài liệu, công trình nghiên cứu khác có liên. Liên hệ từ thực tế cuộc sống để
phát triển vấn đề.
4. Kết quả nghiên cứu:
Đề tài đã làm rõ tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam
hiện nay, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến người chưa thành niên phạm tội. Từ đó,
đưa ra các biện pháp phòng chống người chưa thành niên phạm tội.
5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và
khả năng áp dụng của đề tài:
Đề tài giúp chúng ta thấy rõ tình hình tội phạm do người thành niên thực hiện ở nước
ta hiện nay, hiểu rõ các nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó và những biện pháp đấu
tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện. Từ đó, các chủ thể có
liên quan sẽ có những biện pháp, chính sách, chiến lược đúng đắn để ngăn chặn, kéo
giảm tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở nước ta. Đề tài còn có
thể được xem như một tài liệu để tuyên truyền rộng rãi để mọi người cùng chung tay
5
đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện, với mong muốn
phát triển thế hệ tương lai của đất nước.
Ngày 14 tháng 03 năm 2016
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài
Nhận xét của người hướng dẫn về những đóng góp khoa học của sinh viên thực
hiện đề tài:
Ngày
Xác nhận của lãnh đạo khoa
(ký, họ và tên)
tháng
năm
Người hướng dẫn
(ký, họ và tên)
6
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...............................................................4
1.1.Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.......................4
1. 1.1 Khái niệm người chưa thành niên..........................................................4
1.1.2 Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra............................5
1.1.3 Dấu hiệu pháp lý các tội phạm do người chưa thành niên gây ra……...8
1.2. Tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện......................11
1.2.1Tình hình tội phạm ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2012.........................11
1.2.2 Tình hình tội phạm do người chưa thành niên gây ra ở Việt Nam........14
1.3. Đặc điểm nhân thân người chưa thành niên phạm tội..........................20
1.3.1 Đặc điểm nhân thân người chưa thành niên phạm tội giai
đoạn trước năm 2007.....................................................................................20
1.3.2 Đặc điểm nhân thân người chưa thành niên phạm tội giai đoạn
2008-nay …….…………………………………………………………...…22
1.4.Dự báo về diễn biến tình hình tội phạm ở Việt Nam thời gian tới...............24
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM.................................29
2.1 Nguyên nhân và điều kiện từ phía người chưa thành niên phạm tội.....29
2.2 Nguyên nhân và điều kiện từ phía gia đình.............................................30
2.3 Nguyên nhân và điều kiện từ phía nhà trường........................................33
2.4 Các nguyên nhân khác..............................................................................34
Chương III. CÁC BIỆN PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI PHẠM
DO NGƯỜI CHƯA THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM...............................................38
3.1. Nguyên tắc chỉ đạo công tác đấu tranh phòng chống tội phạm do
người chưa thành niên thực hiện...................................................................38
3.1.1 Huy động sức mạnh của hệ thống chính trị .........................................38
3.1.2 Chú trọng tăng cường, nâng cao hiệu quả các biện pháp phòng
ngừa xã hội ..................................................................................................38
3.1.3 Từng bước nâng cao năng lực phòng, chống tội phạm của các cơ quan
bảo vệ pháp luật và các lực lượng chuyên trách............................................39
3.1.4 Chủ động, tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại và tăng cường
hợp tác quốc tế về phòng, chống tội phạm....................................................39
3.2. Các chủ thể có trách nhiệm trong công tác đấu tranh phòng chống
tội phạm do người chưa thành niên thực hiện..............................................39
3.2.1 Tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam ......................................................41
3.2.2 Quốc hội, Hội đồng nhân dân...............................................................41
3.2.3. Các cơ quan hành chính nhà nước.......................................................42
3.2.3.1 Chính phủ......................................................................................42
3.2.3.2 Uỷ ban nhân dân các cấp...............................................................43
3.2.4. Các cơ quan công an, Viện kiểm sát, Tòa án.......................................43
3.2.4.1 Cơ quan công an............................................................................43
3.2.4.2 Viện Kiểm sát................................................................................43
3.2.4.3 Tòa án ...........................................................................................44
3.2.5 Các tổ chức, cá nhân người chưa thành niên và công dân....................44
7
3.3. Các giải pháp cụ thể đấu tranh phòng chống tội phạm do người
chưa thành niên thực hiện.............................................................................45
3.3.1 Tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật quản lý
nhà nước về an ninh, trật tự..........................................................................45
3.3.2 Đối với nhà nước, chính quyền các cấp, truyền thông, giáo dục,
các tổ chức đoàn thể và gia đình...................................................................46
3.3.3 Lực lượng Công an cần tiếp tục đổi mới hoạt động phòng chống
người chưa thành niên phạm tội....................................................................50
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
8
PHẦN MỞ ĐẦU
Hơn nửa thế kỷ đấu tranh phòng, chống tội phạm, Đảng, Nhà nước ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác phòng ngừa tội phạm là vấn đề cơ bản, có ý nghĩa
chiến lược. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, thành lập
chính quyền cách mạng non trẻ, trong Sắc lệnh số 23/SL ngày 21 tháng 2 năm 1946
của Chính phủ về việc hợp nhất Sở Cảnh sát, Sở Liêm phóng thành Việt Nam Công
an, vụ tư tưởng về phòng ngừa tội phạm đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định:
"Đề nghị và thi hành các phương pháp đề phòng những sự hành động làm rối việc trị
an và mất trật tự trong nước...".Trước tình hình hiện nay quốc tế và khu vực đang
diễn ra hết sức phức tạp, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta vẫn đang tiếp tục
thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện về kinh tế - xã hội, nhiều thời cơ thuận lợi mới
nhưng xuất hiện cũng không ít những khó khăn, thách thứcvà cả những nguy cơ đan
xen, nhiệm vụ giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự an toàn xã hội đã trở thành
một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Đảng,Nhà nước, toàn quân và toàn dân ta. Do
vậy, để góp phần phục vụ thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước ta đã
đề ra nhiều chương trình hành động phòng chống tội phạm, trong đó có chương trình
hành động phòng chống tội phạm trong lứa tuổi vị thành niên.
Thanh thiếu niên là nguồn nhân lực tương lai của đất nước, có vai trò quan
trọng, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ là một trong những mối quan tâm hàng đầu, là vấn đề
chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã
căn dặn: "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc làm rất quan trọng và cần
thiết". Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế tri thức đang chiếm một vị trí
quan trọng trong quá trình phát triển đất nước thì lực lượng thanh, thiếu niên là những
người đóng góp rất lớn vào sự phát triển chung này.Tuy nhiên, bên cạnh lực lượng
thanh, thiếu niên tích cực, còn một số thanh, thiếu niên không chịu học tập, lao động,
khôngcó ý chí vươn lên, có những nhận thức sai lệch, sa ngã vào các hoạt động tệ nạn
xã hội, nguy hiểm hơn là đi vào con đường phạm tội, gây ra những hậu quả xấu cho xã
hội và dư luận không tốt trong nhân dân.
Trên cơ sở phân tích, tổng hợp tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện ở Việt Nam thời gian qua chúng ta có thể nhận thấy rằng: Đấu tranh phòng,
chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm do người chưa thành niên thực hiện để giữ vững
an ninh chính trị, trật tự xã hội, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới đất nước là nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu- đó không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước, của toàn Đảng, mà
còn là trách nhiệm, sự đóng góp của toàn dân ta. Qua đó,“Chủ động phòng ngừa và
đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch tội phạm và bọn tội phạm. Sử dụng đồng
bộ các biện pháp đấu tranh, kết hợp chặt chẽ phòng ngừa với tiến công, lấy phòng
ngừa là cơ bản, nghiêm trị khoan hồng, trấn áp với giáo dục cải tạo” phương châm này
luôn được nhấn mạnh trong các kì Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX. Bên cạnh đó theo
chỉ thị 135-CT/HĐBT ngày 14/4/1989 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cũng chỉ rõ:
“Phát động quần chúng xây dựng phong trào toàn dân giữ gìn trật tự an toàn xã hội,
toàn dân tham gia phòng ngừa và đấu tranh với các loại tội phạm, tệ nạn xã hội”.
Chính vì những lí do và tình hình trên mà nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài
9
“Đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt
Nam” để nghiên cứu, một vấn đề mang tính thực tiễn và vô cùng cấp thiết.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tội phạm ở nước ta ngày càng diễn biến phức tạp, có dấu hiệu gia tăng về số lượng
tội phạm và tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội. Đặc biệt người chưa thành niên
phạm tội ngày càng nhiều, với các hành vi côn đồ, man rợ, hoạt động ngày càng tinh vi
và có tổ chức. Đòi hỏi nước ta cần phải có những quy định, những biện pháp thiết thực
vừa mang tính giáo dục, thuyết phục và phải thật sự đủ sức mạnh cưỡng chế để làm
một một rào cản ngăn chặn những hành vi phạm tội của người chưa thành niên và
hướng các em trở thành một người tốt, một công dân có ích cho xã hội và là một thế hệ
tiếp nối cha anh đầy tiềm năng. Do đó việc nghiên cứu đề tài “Đấu tranh phòng
chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam” là vấn đề mang
tính thời sự và cấp thiết.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu từ năm 2000-2015 về tình hình phạm tội của người chưa
thành niên. Quan sát thực tế, cập nhật thông tin từ các sách, báo, tạp chí pháp luật.
Ngoài ra, tác giả còn bám sát những công trình nghiên cứu có giá trị cao như: Tội
phạm học Việt Nam, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm; Những khía cạnh tâm lý xã hội về
tình trạng phạm tội của người chưa thành niên, Nhà xuất bản Pháp Lý, Hà Nội;...và
vận dụng các kiến thức đã được học vào bài nghiên cứu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài là tâm huyết của những con người đang hằng ngày đi
tìm ánh sáng pháp luật. Qua đề tài, tác giả mong muốn cải thiện về tư duy, lối suy
nghĩ, nhận thức của những người chưa thành niên và những chủ thể khác có liên quan
trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện.
Đề tài còn cho mọi người nhìn thấy rõ tình trạng người chưa thành niên phạm tội ở
nước ta hiện nay, khai thác những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này và đưa ra
những giải pháp cụ thể giáo dục và răn đe nhằm hướng người chưa thành niên có
những nhận thức, hành động đúng đắn, có lối sống tích cực hơn trong cuộc sống và
làm kéo giảm tình hình tội phạm do người chưa thực hiện.
Nhiệm vụ nghiên cứu: nghiên cứu về tình hình tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện giai đoạn 2000 - 2015, nguyên nhân dẫn đến người chưa thành niên vi phạm
pháp luật và các biện pháp cụ thể để phòng, chống tội phạm do người chưa thành niên
thực hiện.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Những quy định đối với người chưa thành niên phạm tội
trong bộ luật Hình sự Việt Nam 1999 (sửa đổi bổ sung 2009), Tội phạm học, các văn
bản pháp luật, các bài viết, bài báo cáo, các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí
có liên quan và những người chưa thành niên.
- Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu chủ yếu vào những yếu tố có liên quan
đến người chưa thành niên, tình hình phạm tội do người chưa thành niên thực hiện từ
giai đoạn 2000-2015, những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do
người chưa thành niên thực hiện dưới góc độ tội phạm và những biện pháp đấu tranh
phồng, chống do người chưa thành niên thực hiện. Trên cơ sở đó đề xuất tiếp tục các
biện pháp phòng ngừa trên phạm vi cả nước.
10
- Cách tiếp cận: từ sách vở, các phương tiện truyền thông và thực tế cuộc sống.
- Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng và nhà
nước về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thanh thiếu niên; về đấu tranh phòng chống tội
phạm nói chung và phòng chống tội phạm do người chưa thành niên thực hiện nói
riêng. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn vận dụng và kết hợp các
phương pháp như: phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, giải thích, phân tích,
so sánh, toán học,...
3. Kết cấu của đề tài
Đề tài bao gồm các phần: lời nói đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.
Nội dung bài nghiên cứu được chia thành ba chương:
Chương I: Tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện ở Việt Nam hiện
nay
Chương II: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện ở Việt Nam
Chương III: Các biện pháp đấu tranh phòng chống tội phạm do người chưa thành
niên thực hiện ở Việt Nam
11
CHƯƠNG I. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
THỰC HIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên thực hiện
1. 1.1 Khái niệm người chưa thành niên
Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về
nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi
quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là
người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi
thành niên sớm hơn”.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong
Hiến Pháp năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự , Bộ luật
Lao động, Bộ luật Dân sự, Luật Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy
phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người
chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với
người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Theo Điều 1 Luật
Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới
16 tuổi”.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển
về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi
trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những
quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành
niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the
Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu
chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên
(United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile
Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng
ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for the
Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan
niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile)
là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ
tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên.
Ở Việt Nam, tuổi kết nạp Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh là từ 10 đến
15 tuổi, tuổi kết nạp Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh là từ 15 đến 30 tuổi.
12
Trong tuổi Đoàn gọi là thanh niên, trong tuổi Đội là thiếu niên, dưới tuổi Đội gọi là
nhi đồng. Ở mỗi lứa tuổi, người chưa thành niên được Nhà nước và xã hội quan tâm
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục để phát triển tốt nhất về thể chất và nhân cách, trở thành
người khỏe mạnh, có ích cho xã hội.1
Như vậy, có thể khái niệm: Người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi, chưa
phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ
pháp lý như người đã thành niên.
1.1.2 Khái niệm tội phạm do người chưa thành niên gây ra
Theo Điều 20, Bộ luật dân sự hiện hành quy định: “ Người từ đủ 18 tuổi trở lên
là người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”. Điều 68 Bộ luật
Hình sự hiện hành thay đối với việc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội ghi
rõ: “ Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự theo những quy định của chương này đồng thời theo những quy định
khác của phần chung bộ luật không trái với những quy định của chương này”.
Điều 12 Bộ luật hình sự quy định cụ thể về tuổi chiu trách nhiệm hình sự:
“1. Người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm .
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Theo quy định này:
+ Người chưa thành niên từ 16 tuổi trở lên thì tội phạm mà họ thực hiện có thể là
mọi loại tội được quy định trong Bộ luật hình sự nếu đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm.
+ Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi - chưa đủ 16 tuổi thì tội phạm mà họ thực
hiện là loại tội rất nghiêm trọng - tức là có mức hình phạt do lỗi cố ý hoặc loại tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, tức là có khung hình phạt cao nhất mà khung hình phạt
cao nhất đối với tội ấy là chung thân hoặc tử hình.
Theo Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật hình sự 2015 có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13
tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các
điều sau đây:
a) Điều 143 (tội cưỡng dâm); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán
http://luatminhgia.com.vn
TGV.ThS. Bùi Thành Chung
1
13
người dưới 16 tuổi);
b) Điều 170 (tội cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội
trộm cắp tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản);
c) Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất
ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái
phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy);
d) Điều 265 (tội tổ chức đua xe trái phép); Điều 266 (tội đua xe trái phép);
đ) Điều 285 (tội sản xuất, mua bán, công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục
đích trái pháp luật); Điều 286 (tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt
động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử); Điều 287 (tội cản
trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện
điện tử); Điều 289 (tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc
phương tiện điện tử của người khác); Điều 290 (tội sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản);
e) Điều 299 (tội khủng bố); Điều 303 (tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan
trọng về an ninh quốc gia); Điều 304 (tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua
bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự)”.
Theo quy định tại điều này thì:
+ Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm mà họ
thực hiện nếu có đầy đủ các đấu hiệu cấu thành tội phạm.
+ Người từ đủ 14 tuổi trở lên - chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về
tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến
dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong các Điề u khoản quy định cụ thể
trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2016). Khác với quy định
tại Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 1999 ( sửa đổi bổ sung năm 2009).
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 8, bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) thì:
“2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định
trong bộ luật này, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng. Tội phạm
nghiêm trọng, tội pham rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
3.Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức
cao nhất khung hình phạt đối với tội ấy là đến 3 năm tù ,tội phạm nghiêm trọng là tội
phạm nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội áy là
đến bảy năm tù ; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây thiệt hại đặc biệt lớn
cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười năm tù,
tù chung thân hoặc tử hình.”
Như vậy, người chưa thành niên phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự có thể là:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý, phạm tội
đặc biệt nghiêm trọng.
14
- Nguời từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội
được quy định trong Bộ luật Hình sự.
phạm
Đối với người chưa thành niên, việc xác định một trường hợp cụ thể người có hành
vi phạm tội có trở thành tội phạm hay không còn căn cứ vào nguyên tắc được quy định
tại Điều 69 Bộ luật Hình sự:
“1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ
họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa
thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức
của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều
kiện gây ra tội phạm.
2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người
đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình
tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình
phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính
chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy
định tại Điều 70 của Bộ luật này.” …
Trên cơ sở các quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự và quy định tại khoản 2, khoản
3 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) về độ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và phân loại tội phạm, người chưa thành niên phạm tội trong độ tuổi mà pháp
luật hình sự quy định (từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi) khi thực hiện nguy hiểm tương
ứng với một trong 4 loại tội phạm quy định tại khoản 2,3 Điều 8 Bộ luật Hình sự và
tương ứng với độ tuổi sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự và khi đó cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự để tiến hành điều tra xử lý theo đúng nguyên tắc, trình tự thủ tục.
Như vậy, theo quy định của Bộ luật Hình sự về phần các tội phạm cụ thể cũng như
quy định về phân loại tội phạm theo khoản 2,3 Điều 8 Bộ luật Hình sự, có thể khẳng
định rằng có rất nhiều tội danh quy định trong bộ luật hình sự (trừ các tội phạm có dấu
hiệu đặc biệt) có thể là tội phạm của người chưa thành niên gây ra.
Qua đó ta thấy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra chỉ xuất hiện (phát sinh)
khi có đầy đủ 3 điều kiện sau đây:
Một là, có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực hiện.
Hai là, người thực hiện hành vi phạm tội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự tương
ứng với loại tội phạm và lỗi gây ra tội phạm.
15
Ba là, người đó thực tế phải chịu trách nhiệm hình sự sau khi các cơ quan có thẩm
quyền cân nhắc tính cần thiết phải xử lý bằng hình sự mà không thể áp dụng các biện
pháp tư pháp hoặc các biện pháp khác để quản lý, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
Như vậy, tội phạm do người chưa thành niên gây ra là những hành vi phạm tội do
người chưa đủ 18 tuổi nhưng đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, phù hợp
với loại tội phạm và lỗi theo quy định của pháp luật hình sự và bị cơ quan có thẩm
quyền truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.1.3 Dấu hiệu pháp lý các tội phạm do người chưa thành niên gây ra
Các tội phạm do người chưa thành niên gây ra, về mặt lý thuyết là rất nhiều, tuy
nhiên căn cứ vào thực tế đấu tranh phòng chống tội phạm và phạm vi nghiên cứu, tác
giả chỉ đề cập đến tội danh : Giết người (Điều 93); Cố ý gây thương tích làm tổn hại
đến sức khỏe của người khác (Điều 104); Hiếp dâm (Điều 111); Hiếp dâm trẻ em
(Điều 112); Cướp tài sản (Điều 133); Cuớp giật tài sản (Điều 136), Trộm cắp tài sản
(Điều 138), Đua xe trái phép (Điều 207), Gây rối trật tự công cộng (Điều 245); Chống
người thi hành công vụ (Điều 257)... Trên cơ sở các cấu thành cơ bản của tội danh
này, có thể tổng hợp các dấu hiệu pháp lý các tội phạm do người chưa thành niên gây
ra như sau:
- Khách thể của tội phạm: Các tội phạm do người chưa thành niên gây ra xâm
phạm vào các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tùy từng tội danh mà
người phạm tội thực hiện có thể xâm phạm vào khách thể như: Quyền sống,
quyền bảo vệ sức khỏe, quyền bất khả xâm phạm về tự do, quyền sở hữu về tự
do, quyền sở hữu tài sản, trật tự quản lý hành chính, trật tự an toàn xã hội, trật
tự công cộng,..
- Khách quan của tội phạm: Đa số các tội phạm được thực hiện bằng hình thức
hành động. Tùy từng tội danh, người phạm tội có thể sử dụng các công cụ
phương tiện khác nhau để phạm tội hoặc sử dụng sức mạnh vật chất thông qua
chân tay để tác động đến đối tượng tác động của tội phạm.
- Chủ quan của tội phạm; tội phạm do người chưa thành niện gây ra đa số bằng
hình thức lỗi cố ý, với dộng cơ, mục đích phạm tôi khác nhau, tủy từng tội danh
và từng vụ phạm tội cụ thể.
- Chủ thể của tội phạm; là người chưa thành niên từ đủ 14 tuồi dến dưới 18 tuổi
có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tùy từng tội phạm theo phân loại tội phạm,
có thể xác định đối tượng phạm tội ở độ tuổi theo quy định.
1.3 Tình hình tội phạm do người chưa thành niên thực hiện
1.3.2 Tình hình tội phạm ở Việt Nam giai đoạn 2001- 2012
Trong những năm qua, nhất là sau Đại hội lần thứ VI của Đảng đất nước ta có những
đổi mới sâu sắc và đã có những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Đảng và chính phũ đã có nhiều chủ trương, biện pháp, ban hành nhiều văn bản pháp
luật, pháp lệnh nhằm tăng cường quản lý nhà nước về an ninh trật tự, đấu tranh phòng
chống tội phạm, ngăn chặn tệ nạn xã hội, giữ vững an ninh chính trị và đảm bảo trật tự
an toàn xã hội. Tình hình hoạt động các loại tội phạm tuy đã được kiềm chế, không có
những đột biến xảy ra nhưng vẫn diễn biến phức tạp.
16
Theo thống kê chưa đầy đủ của ngành Công an, từ năm 2001 đến năm 2012, trên
toàn quốc đã phát hiện 925.659 vụ phạm tội các loại, trong đó có: 614.905 vụ xâm hại
trật tự an toàn xã hội; 152.667 vụ phạm tội về kinh tế; 159,184 vụ phạm tội về ma túy.
BẢNG THỐNG KÊ TÌNH HÌNH TỘI PHẠM Ở VIỆT NAM
TỪ 2001 ĐẾN 2012
Năm
Tội xâm phạm Tội phạm về Tội phạm về
trật tự xạ hội
kinh tế, tham ma túy
nhũng
2001
55.533
12.627
12.627
2001
53.644
14.788
13.959
2003
49.270
10.018
12.888
2004
47.477
7.937
12.068
2005
50.855
11.134
11.772
2006
53.847
11.256
10.783
2007
50.878
12.003
8.905
2008
53.573
14.453
12.850
2009
50.963
17.290
13.219
2010
48.836
14.093
14.828
2011
49.393
15.130
17.417
2012
50.636
11.620
17.823
Cộng
614.905
152.677
159.184
Nguồn: : “Tội phạm học Việt Nam”, tập 2, GS.TS Nguyễn Xuân Yêm
Tổng số vụ
81.115
82.931
72.176
67.482
73.761
74.994
71.831
80.876
81.472
77.575
81.940
80.079
925.659
Theo số liệu thống kê cho thấy, mỗi năm từ năm 2001 đến năm 2012 trên phạm vi
toàn quốc xảy ra trung bình khoảng 77.138 vụ phạm tội các loại, 51.242 vụ xâm hại
trật tự an toàn xã hội; 12.723 vụ phạm tội về kinh tế và 13.265 vụ phạm tội về ma túy.
Nhìn chung các loại tội phạm đếu có xu hướng giảm hoặc tốc độ gia tăng đã được
kiềm chế và kiểm soát. Tuy nhiên ở giai đọn này, các vụ tội phạm nghiên trọng như
giết người, cướp, cố ý gây thương tích, hiếp dâm, bắt cóc trẻ em, tội phạm do nguyên
nhân xã hội, tội phạm về may túy lại có chiều hướng diễn biến rất phức tạp.
Kết quả phân tích tình hình tội phạm từ năm 2001- 2012 cho thấy, về cơ bản tội
phạm tiếp tục được kiềm chế nhưng ở các tỉnh, thành phố lớn và các địa bàn trọng
điểm còn diễn biến rất phức tạp, tính chất nguy hiểm và nghiêm trọng hơn. Phân tích
hai năm gần nhất, 2011 – 2012, nổi lên một số ấn đề sau:
Một là, đối với tội phạm về trật tự an toàn xã hội và tệ nạn xã hội: Tội phạm có tồ
chức tiềm ẩn phức tạp trở lại nhất là các đô thị lớn (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Quảng Ninh, Đồng Nai, Bình Dương,…) có sự đan xen, gắn kết với các
hoạt động kinh tế; các băng nhóm hình sự hoạt động bảo kê, đâm thuê, chém mướn,
siết nợ, đòi nợ thuê, cưỡng đoạt tài sản, cho vay nặng lãi, tổ chức các hoạt động cờ
bạc, cá độ đá bóng,…hoạt động phức tạp, có lúc, có nơi chúng hoạt động lộng hành,
gây ra nhiều vụ đâm chém, rằn mặt, thanh toán, trả thù, gây bức xúc dư luận xã hội.
Năm 2011- 2012, lực lượng cảnh sát đã tập trung đấu tranh với 330 băng nhóm, 1.912
đối tượng nghi vấn phạm tội (tại 18 địa bàn quan trọng điểm chiếm 46,6%).
17
Tính chất của tội phạm hình sự manh động hơn, nhiều vụ hành vi gây án dã man,
tàn bạo, trắng trợn gây lo lắng trong nhân dân (thảm sát 4 người cướp tiệm vàng ở Phố
Sàn, Bắc Giang; giết 03 người cướp tài sản ở Hà Giang…); xảy ra nhiều vụ sử dụng vũ
khí nóng gây án (195 vụ), trong khi vũ khí trôi nổi ngoài xã hội còn nhiều, thậm chí
được rao bán công khai qua mạng Internet là điều kiện thuận lợi để tội phạm sử dụng
gây án.
Tội phạm cướp, cướp giật tài sản diễn ra phức tạp tạo các thành phố lớn và các
tuyến quốc lộ trọng điểm, số vụ cướp tiệm vàng, chi nhánh ngân hàng, trộm cắp tiền từ
máy ATM có chiều hướng gia tăng, nhiều vụ nghiêm trọng (Hà Nội, Bắc Giang, Hải
Dương, Bình Thuận, thành phố Hồ Chí Minh,...). Các băng nhóm cướp, cướp giật tài
sản hoạt động có tính chất lưu động cao, liên tuyến, liên tỉnh nếu không bị bắt giữ thì
liên tục gây án. Tội phạm trộm cắp tài sản chiếm 50,2% số vụ phạm pháp hình sự.
Nhóm tội phạm do nguyên nhân từ mâu thuẫn xã hội có chiều hướng gia tăng (giết
người do nguyên nhân xã hội tăng 1,6% trong đó 15% là giết người thân trong gia
đình, cố ý gây thương tích tăng 3,2%). Phân tích 36000 bị can cho thấy số đối tượng
phạm tội lần đầu chiếm 78,5%, đốit tượng phạm tội trong độ tuổi từ 18-30 chiếm
68,,7%. Đáng lưu ý, số đối tượng thanh thiếu niên phạm tội ngày càng nhiểu, chủ yế
uliên quan đến số thanh thiếu niên bỏ học, bỏ nhà đi lang thang (tụ tập thành các hội
“tam mao”), chơi bời, càn quấy,…đa phần bị ảnh hưởng tiêu cực văn hóa phẩm đồi
trụy, trò chơi bạo lực trên mạng Internet. Tội phạm chống người thi hành công vụ tăng
5,9%, nhiều vụ ngang nhiên, công khai, trắng trợn thể hiện những vấn đề đang báo
động về kỉ cương xã hội.
Tội phạm mua bán vẫn diễn ra phức tạp, chủ yếu là mua bán phụ nữ, rẻ em sang
Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Singapore làm gái mại dâm, ép lấy chồng hoặc làm
con nuôi.Đáng lưu ý, phát hiện đường dây mua bán đua người sang Trung Quốc để
bán lấy thận, tuy nhiên do pháp luật chưa quy định nên rất khó xử lý.
Tệ nạn xã hội, nhất là cờ bạc, mại dâm diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương; tình
trạng đánh bạc, cá độ xuyên quốc gia qua mạng Imnternet chưa ngăn chặn được. Đáng
lo ngại là tình trạng người Việt Nam sang Campuchia đánh bạc nghiêm trọng hơn, số
Casino, trường gà tiếp tục tăng, một số có sự bảo kê của số cán bộ cao cấp Campuchia.
Trung bình 01 ngày có khoảng trên 3.500 người Việt Nam qua biên giới đánh bạc với
số tiền mỗi ngày lên đến khoảng 02 triệu USD. Đã hình thành các đường dây bảo kê,
môi giới, dẫn dắt người Việt Nam sang Capuchia đánh bạc kiên siết nợ, đòi nợ thuê,
bắt giữ con bạc đòi tiền chuộc làm tình hình thêm phức tạp.
Nguyên nhân của tình hình tội phạm chủ yếu là do tình hình kinh tế - xã hội khó
khăn, nhiều doanh nghiệp phá sản, lao động mất việc làm; lạm phát tăng cao tác động
trực tiếp tới các giai tầng trong xã hội, phân hóa giàu nghào tiếp tục diễn ra sâu sắc; sự
xuống cấp về đạo đức xã hội có mặt nghiêm trọng hơn, nhất là trong thanh thiếu niên;
tác động tiêu cực của văn hóa phẩm đồi trụy, trò chơi trực tuyến (game online) trên
mạng Internet chưa có giải pháp ngăn chặn. Các yếu tố tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tội
phạm chưa được giải quyết cơ bản (gần 17.000 đối tượng truy nã; trên 126.000 người
nghiện ma túy…). Hệ thống văn bản pháp luật còn nhiều bất cập, nhất là các quy định
liên quan đến xử lý tình trạng vay nợ trong nhân dân, tạo điều kiện cho sự tồn tại của
tội siết nợ, đòi nợ thuê. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm còn nhiều hạn chế,
hiệu quả trấn áp chưa cao, công tác nghiệp vụ cơ bản bị buông lỏng trong thời gian
dài; sự vào cuộc của các nghành, đoàn thể còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa
cao; phong trào toàn dân phòng, chống tội phạm ở cơ sở chưa rộng khắp…
18
Hai là, đối với tội phạm và vi phạm pháp luật về kinh tế, tham nhũng: Do tác động
của chính sách tiền tệ thắt chặt, hoạt động sản xuất các doanh nghiệp gặp nhiều khó
khăn, thị trường bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, lãi
suất cho vay ở mức độc cao, nợ xấu ngân hàng tăng,…làm cho bức tranh về tình hình
tội phạm kinh tế, tham nhũng ảm đạm hơn, cụ thể là:
Tình hình tội phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng rất đáng báo động với tính
chất nghiêm trọng, thiệt hại gây ra lớn nhất từ trước đến nay (đã phát hiện trên 40 vụ,
thiệt hại trên 5.250 tỷ đồng), có vụ gây thiệt hại rất lớn như vụ tại Công ty cho thuê tài
chính II thiệt hại trên 600 tỷ đồng, mất khả năng thanh toán trên 8.000 tỷ đồng; vụ án
Huỳnh Thị Huyền Như (34 tuổi, trú tại Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh), nguyên Phó
phòng Quản lý rủi ro Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
(Vietinbank), chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh đã câu kết với 9 bị can khác từ tháng
3/2010 đến tháng 9/2011, với thủ đoạn lấy danh nghĩa huy động vốn cho Vietinbank,
chi nhánh Nhà Bè, thành phố Hồ Chí Minh, làm giả 8 con dấu của Vietinbank, chi
nhánh Nhà Bè cùng nhiều đơn vị, cá nhân khác để lừa đảo, chiếm đoạt của 9 công ty, 3
ngân hàng, 3 cá nhân với tổng số tiền hơn 4.911 tỷ đồng,… Hầu hết các vụ đều có sự
tiếp tay trực tiếp hoặc gián tiếp của một số cán bộ thoái hóa biến chất trong ngành
Ngân hàng, kể cả những cán bộ làm công tác thanh tra, giám sát. Phương thức, thủ
đoạn chủ yếu là:
+ Nhóm các đối tượng là cán bộ ngân hàng: làm giả con dấu, chữ ký, của lãnh đạo
có thẩm quyền trong ngân hàng để tạo ra các giấy tờ giả rút tiền trong ngân hàng
chiếm đoạt; sử dụng chức vụ quyền hạn, vị trí công tác để tạo uy tín đối với khách
hàng; rút tài sản đảm bảo của khách hàng mang đi bán, cầm cố, chiếm đoạt; nhận hối
lộ và tạo điều kiện để các đối tượng ngoài xã hội chiếm đoạt tiền của ngân hàng; trộm
cắp mật khẩu điện tử của đổng nghiệp trong ngân hàng; tạo các lệnh chuyển tiền đi nơi
khác để chiếm đoạt; nhận tiền gửi của khách hàng nhưng không nhập vào hệ thống mà
làm giả giấy tờ rồi chiếm đoạt...
+ Nhóm các đối tượng ngoài xã hội: Đưa hối lộ, đem thế chấp tài sản bằng hàng
hóa hình thành từ nguồn vốn vay sau đó đem hàng hóa đi bán và chiếm đoạt; lập các
dự án “ma”, dùng cổ phiếu giả, giấy tờ có giá giả, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
hợp đồng mua bán căn hộ giá rẻ để thế chấp vay tiền rồi chiếm đoạt...
Tình trạng “tín dụng đen”, huy động vốn tự phát trong nhân dân diễn ra hầu hết ở
các địa phương nhưng chưa có cơ chế kiểm soát, nhiều vụ mất khả năng thanh toán
dẫn đến vỡ nợ, vỡ hụi tác động xấu đến an ninh, trật tự ở nhiều địa phương, số tiền vỡ
nợ lên đấn hàng nghìn tỷ đồng.
Nhìn chung, tội phạm tham nhũng vẫn diễn ra ở hầu hết các lĩnh vực, nhất là trong
xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thực hiện các chính sách xã hội gây bức xúc dư luận
xã hội. Riêng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, sai phạm diễn ra ở hầu hết các khâu của
dự án, từ việc mua bán thầu đến thông đồng, móc ngoặc khai khống vật liệu, nâng giá
quyết toán khống, nhũng nhiễu trong giám sát, quyết toán, xác nhận khối lượng thi
công để đòi hối lộ...Trong lĩnh vựa đất đai, các sai phạm chủ yếu là lợi dụng chức vụ
quyền hạn phê duyệt các dự án sử dụng đất sai quy định, thông đồng trong đền bù, giải
phóng mặt bằng để chiếm đoạt tài sản...
Tội phạm buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng cấm, trốn thuế tiếp tục diễn ra phức
tạp, nhất là buôn lậu hàng hóa từ Trung Quốc vào Việt Nam và xuất lậu khoáng sản từ
Việt Nam sang Trung Quốc gây nhiều hệ lụy phức tạp cả trước mắt và lâu dài. Ngoài
các phương thức, thủ đoạn truyền thống trên đường bộ còn phát hiện các vụ buôn lậu
lớn qua đường sắt liên vận, đường tàu viễn dương hoặc lợi dụng phương thức tạm
19
nhập, tái xuất hàng hóa qua cửa khẩu.
Nguyên nhân của tình hình trên là do: Công tác quản lý Nhà nước về kinh tế chưa
theo kịp sự phát triển của tình hình và còn nhiều sơ hở, thiếu sót để tội phạm lợi dụng
hoạt động, nhất là trong các lĩnh vực: tài chính, ngân hàng, quản lý đầu tư công, quản
lý thị trường vàng, ngoại tệ, chứng khoán, quản lý đất đai, xuất nhập khẩu, khai thác
khoáng sản...; chưa phân định rõ vai trò của cơ quan quản lý Nhà nước với đại diện
chủ sở hữu tại doanh nghiệp dẫn đến buông lỏng quản lý; các quy định pháp luật về
thành lập doanh nghiệp, đầu tư ngoài luồng như chứng khoán, bất động sản còn rất
lỏng lẻo. Sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ trong các cơ quan
công quyền dẫn đến tham nhũng, tiêu cực, nhũng nhiễu, tiếp tay cho đối tượng phạm
tội; công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán còn nhiều tồn tại,...
Ba là, tội phạm sử dụng công nghệ cao: Cùng với xu hướng gia tăng của tội phạm
sử dụng công nghệ cao trên thế giới, tội phạm sử dụng công nghệ cao ở Việt Nam tiếp
tục diễn ra phức tạp. Nổi lên là các hành vi tấn công, phá hoại website, phát tán virus,
phần mềm gián điệp thông qua mạng Internet; vi phạm các quy định về an ninh, an
toàn hệ thống cơ sở dữ liệu, các quy định về bảo mật hệ thống để chiếm đoạt tiền của
các ngân hàng; sử dụng công nghệ cao trộm cắp, sử dụng trái phép, làm giả thẻ tín
dụngđể mua hàng từ nước ngoài rồi chuyển về Việt Nam; lừa đảo trong lĩnh vực
thương mại điện tử và thanh toán điện tử, nhắn tin lừa đảo...đáng lưu ý, phát hiện thủ
đoạn lấy cắp thông tin và làm giả thẻ tín dụng để lấy tiền từ các máy ATM; tình trạng
các đối tượng Đài Loan, Trung Quốc sử dụng công nghệ thông tin, truyền thông để lừa
đảo diễn ra phức tạp ở các nước ASEAN trong đó có nước ta.
Nguyên nhân của tình hình trên là do: Tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
trên thế giới diễn ra phức tạp tác động đến nước ta. Trong khi đó hạ tầng mạng máy
tính, mạng viễn thông, mạng Internet và thiết bị số ở nước ta chưa được đảm bảo tốt
về an ninh, an toàn; nhận thức các cấp, ngành và nhân dân về tác hại của tội phạm
công nghệ cao còn hạn chế; hành lang pháp lý còn thiếu, lực lượng chuyên trách đấu
tranh chống tội phạm sử dụng công nghệ cao chưa đủ mạnh...
Bốn là, tội phạm vi phạm pháp luật về môi trường: Diễn ra phổ biến, ảnh hưởng
đến chất lượng cuộc sống nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước. Đáng quan
tâm là: Tình trạng xả thải công nghiệp không qua xử lý tiếp tục diễn ra nghiêm trọng ở
nhiều địa phương, nhiều doanh nghiệp không xây dựng hệ thống xử lý nước thải, có
xây dựng nhưng không vận hành hoặc chỉ vận hành để đối phó là nguyên nhân dẫn
đến tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng các dòng sông, kênh rạch như sông Hồng, Nhuệ,
Đáy, La Ngà, Trà Khúc, Đồng Nai, Thị Vải, Tiền, Hậu, kênh Tham Lương, Ba Bò...Vi
phạm pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm tiếp tục diễn ra đáng báo động (chủ yếu
là các dạng thu mua hàng giả, kém chất lượng rồi đóng gói mới, làm giả bao bì sản
phẩm; sử dụng dầu thực vật tái chế hoặc đã qua sử dụng nhiều lần, sử dụng các chất
phụ gia độc hại, không đảm bảo vệ sinh để chế biến thực phẩm; vận chuyển, buôn bán
các loại gai cầm không qua kiểm dịch...). Tình hình nhập khẩu phế liệu lẫn tạp chất và
chất thải nguy hại qua các cửa khẩu lớn tại Hải Phòng, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí
Minh vẫn tiếp diễn. Hoạt động săn bắn, nuôi nhốt, vận chuyển buôn bán động vật
hoang dã, quý hiếm có chiều hướng gia tăng. Tình hình khai thác, mua bán, vận
chuyển trái phép lâm sản, khai thác cát, sỏi trái phép diễn ra phức tạp ở nhiều địa
phương, gây ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến đời sống người dân.
Nguyên nhân của tình hình trên là do: Công tác quản lý Nhà nước về mội trường
20
bị buông lỏng trong thời gian dài, nhiều vi phạm kéo dài nhưng chưa giải quyết dứt
điểm; ý thức bảo vệ môi trường nhìn chung còn thấp, nhiều doanh nghiệp vì lợi ích
kinh tế mà xem nhẹ công tác bảo vệ môi trường. Các quy định pháp luật về môi trường
còn thiếu và chưa đồng bộ nên phần lớn các vụ vi phạm chỉ dừng ở mức xử phạt hành
chính, việc xử lý hình sự rất khó khăn do đó chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa các vi
phạm.
Năm là, tội phạm về ma túy tiếp tục diễn ra gay gắt và quyết liệt: Nguồn ma túy
chủ yếu được vận chuyển từ nước ngoài vào nước ta qua các tuyến biên giới, một phần
sử dụng trong nước và mộ phần chuyển tiếp sang nước thứ ba. Ma túy hiện nay chủ
yếu là Heroin, thuốc phiện, cần sa giảm dần nhưng ma túy tổng hợp tăng nhanh và
ngày càng có nhiều ma túy tổng hợp dạng mới không nằm trong danh mục kiểm soát.
Đã phát hiện một số vụ tội phạm sử dụng phương pháp thủ công để điều chế ma túy
tổng hợp trong nước xảy ra ở Hải Phòng, Hà Nội, Thái Bình, Thanh Hóa, thành phố
Hồ Chí Minh với thủ đoạn chủ yếu là tách chiết các chất gây nghiện từ các loại thuốc
ho, cảm cúm rồi pha trộn thêm một số tiền chất thành ma túy tổng hợp. Đáng lưu ý,
phát hiện phương thức vận chuyển tiển chất sang Campuchia sản xuất ma túy tổng hợp
sau đó vận chuyển về Việt Nam và chuyển sang Australia tiêu thụ bằng đường biển.
Tình trạng trên đã làm gia tăng tình trạng thanh thiếu niên tụ tập, sử dụng trái phép ma
túy tổng hợp trong các quán bar, nhà hàng, karaoke, vũ trường, khách sạn, nhất là ở
các tỉnh, thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh...).
Phương thức thủ đoạn của tội phạm ma túy ngày càng tinh vi, xảo quyệt, manh
động hơn, hầu hết có sử dụng vũ khí nóng, sẵn sàng chống trả quyết liệt khi bị phát
hiện, bắt giữ; đặc biệt, tội phạm ma túy có xu hướng câu kết với tội phạm hình sự để
hoạt động làm cho tính chất nguy hiểm ngày càng tăng lên. Trên cả nước còn 126.498
người nghiện ma túy có hồ sơ kiểm soát.
Nguyên nhân của tình hình trên là do: Sự gia tăng của tội phạm ma túy khu vực
tam giác vàng và một số nước trong khu vực đã tác động trực tiếp đến nước ta; đời
sống của đồng bào dân tộc khu vực biên giới còn nhiều khó khăn nên dễ bị các đối
tượng lợi dụng, lôi kéo phạm tội; số người nghiện ma túy còn cao trong khi công tác
cai nghiện chưa đáp ứng yêu cầu, tạo ra nhu cầu sử dụng ma túy trong nước rất lớn.
Lực lượng chuyên trách về phòng, chống ma túy còn thiếu, trang bị phương tiện phục
vụ chiến đấu chưa đáp ứng nhu cầu. Sự vào cuộc của cấp ủy, chính quyền một số nơi
trong phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ma túy còn hình thức. Sự phối hợp giữa
các lực lượng trong ngăn chặn ma túy khu vực biên giới, cửa khẩu còn hạn chế...
Sáu là, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm có yếu tố nước ngoài có liên quan đến
Việt Nam tiếp tục diễn ra phức tạp trên nhiều lĩnh vực (số lượng tin tức trao đổi liên
quan đến tội phạm xuyên quốc gia qua kênh Interpol tăng 47%); số đối tượng truy nã
người nước ngoài trốn vào Việt Nam ngày càng nhiều, người nước ngoài phạm tội tại
Việt Nam mở rộng hơn về diện đối tượng với nhiều phương thức thủ đoạn mới tinh vi.
Tình trạng người Việt Nam phạm tội ở nước ngoài có chiều hướng gia tăng, chủ yếu
liên quan đến các hoạt động nhập cư bất hợp pháp ở các nước châu Âu; trồng cây cần
sa tại Cộng hòa Séc, Vương quốc Anh, Cộng hòa Ai- len, Cộng hòa liên bang Đức...
1.2.2 Tình hình tội phạm do người chưa thành niên gây ra ở Việt Nam