Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đấu giá tài sản để thads theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố hà nội...

Tài liệu đấu giá tài sản để thads theo pháp luật việt nam từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
69
122
98

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ...........................................................................................7 1.1. Khái niệm, đặc điểm của đấu giá tài sản để thi hành án dân sự ...................7 1.2. Vai trò của đấu giá tài sản để thi hành án dân sự .........................................11 1.3. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án dân sự.............13 Chương 2: THỰC TIỄN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................................................................19 2.1. Thực trạng pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự .....................19 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự tại thành phố Hà Nội .................................................................................................33 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI .............................................................................51 3.1. Quan điểm đảm bảo hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội .............................................................................51 3.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án dân sự trên địa bàn thành phố Hà Nội .........................................................................................54 KẾT LUẬN ........................................................................................................64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................66 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đấu giá tài sản là một phương thức phổ biến được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới. Mục đích của đấu giá tài sản là bán tài sản một cách công khai để thu được giá trị bán tài sản cao nhất cho người có quyền sở hữu, sử dụng tài sản. Ở Việt Nam, đấu giá tài sản lần đầu tiên quy định trong Pháp lệnh THADS năm 1989 (bán đấu giá tài sản kê biên để thi hành án) và ngày càng được hoàn thiện với những dấu mốc lập pháp quan trọng như Nghị định số 86/1996/NĐ-CP ngày 19/12/1996 về việc ban hành quy chế bán đấu giá tài sản; Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Luật THADS năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Luật Đấu giá tài sản năm 2016. Vì vậy, có thể nói rằng quá trình hoàn thiện pháp luật về đấu giá tài sản đã tạo cơ sở cho hoạt động bán đấu giá tài sản ngày càng đi vào nề nếp, chuyên nghiệp hơn và giảm thiểu tiêu cực phát sinh, nhất là đấu giá tài sản trong thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là THADS). Trong THADS, đấu giá tài sản là việc tổ chức bán tài sản bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên để đảm bảo thi hành án, khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp cho người được thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; góp phần nâng cao hiệu quả THADS và giảm lượng án tồn đọng phải thi hành. Trong năm công tác 2017 (từ 01/10/2016 đến 30/9/2017), tổng số việc bán đấu giá thành tài sản để THADS trong toàn quốc là 2.145 việc, tương ứng với số tiền là 3.350.176.350.000 đồng, chiếm tỷ lệ 61,9% về việc và 51,74% về tiền [3]. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động bán đấu giá tài sản để THADS cũng còn những tồn tại, hạn chế nhất định. Chất lượng nhiều phiên đấu giá nhìn chung còn chưa có hiệu quả; còn tồn tại tình trạng “quân xanh, quân đỏ”, thông đồng, dìm giá; giá trị tài sản 1 bán vượt mức giá khởi điểm chưa cao; chưa có tiêu chí lựa chọn tổ chức bán đấu giá, cơ chế kiểm soát việc bán đấu giá; còn nhiều vụ việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhiều lần nhưng không bán được tài sản; việc bàn giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người mua được tài sản ngay tình...(trong năm 2017, tổng số vụ việc đã kê biên, định giá lại và đấu giá nhưng không thành là 7.535 việc, tương ứng với số tiền là 10.898 tỷ 734 triệu 293 nghìn đồng, chiếm 1,09% số việc và 11,8% số tiền có điều kiện thi hành của toàn quốc, trong đó số việc bán đấu giá từ 3 lần trở lên là 5.225 việc, tương ứng với số tiền là 11.572 tỷ 942 triệu 820 nghìn đồng)[3]. Nguyên nhân của thực trạng trên là một số quy định pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án còn vướng mắc, bất cập; các quy định về bán đấu giá tài sản chưa có sự tách bạch rõ ràng giữa hoạt động bán đấu giá với các hoạt động thi hành án khác, dẫn tới tình trạng các tổ chức bán đấu giá tài sản can thiệp sâu vào hoạt động THADS, thao túng, vi phạm pháp luật trong hoạt động bán đấu giá tài sản để thi hành án; một số tổ chức bán đấu giá hoạt động không chuyên nghiệp... Thực trạng và nguyên nhân nêu trên đòi hỏi phải có những phương hướng, giải pháp để khắc phục tồn tại, khó khăn và nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS. Vì vậy, xuất phát từ thực tiễn thành phố Hà Nội là một trong những địa bàn có số lượng việc THADS cũng như bán đấu giá tài sản để thi hành án lớn nhất trong cả nước, tác giả chọn đề tài “Đấu giá tài sản để THADS theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hà Nội” nhằm nhận diện, đánh giá thực trạng hoạt động đấu giá tài sản để THADS và đưa ra các kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này trên địa bàn thành phố Hà Nội cũng như trên phạm vi toàn quốc. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Liên quan đến đấu giá tài sản nói chung, đấu giá để THADS nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố. Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn như: "Những vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác bán đấu giá tài sản" của tác giả Phạm Văn Chung đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10 năm 2006; “So sánh đấu giá hàng hóa trong Luật Thương mại với đấu giá tài sản trong Luật Dân sự" của tác giả Nguyễn Mạnh Cường đăng trên Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 7 năm 2008; “Pháp luật về đấu giá tài sản trong thương mại ở Việt Nam" của tác giả Nguyễn Mạnh Cường, Luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, 2012; “Quản lý nhà nước về hoạt động bán đấu giá tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh" của tác giả Phạm Văn Sỹ, Luận văn Thạc sĩ quản lý công, Học viện Hành chính Quốc gia năm 2006; "Bán đấu giá tài sản - thực trạng và hướng hoàn thiện" của tác giả Đỗ Khắc Trung đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2007; “Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Hoa, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật- Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2010; “Những khó khăn vướng mắc trong công tác kiểm soát việc bán đấu giá tài sản thi hành án” của tác giả Nguyễn Hồng Sinh đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 23, tháng 12/2011; “Một số vướng mắc về bán đấu giá tài sản để thi hành án” của Đinh Duy Bằng đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 02/2012; “Một số bất cập trong việc định giá, định giá lại tài sản kê biên" của tác giả Vũ Hòa đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số chuyên đề tháng 12/2012; “Bán đấu giá tài sản trong THADS vẫn còn là điểm nghẽn” của tác giả Nguyễn Quang Thái & Đào Thị Thúy Lan đăng trên http://tcdcpl.moj.gov.vn; “Nâng cao hiệu quả bán đấu giá tài sản trong THADS” của tác giả Bùi Thị Thu Hiền đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Số chuyên đề tháng 7/2015 về THADS. 3 Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên các báo, tạp chí đề cập đến đấu giá tài sản để THADS ở các góc độ khác nhau…Nhìn chung, các công trình được công bố đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về đấu giá tài sản nói chung, đấu giá tài sản để THADS nói riêng nhưng ít có công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến đấu giá tài sản để THADS từ thực tiễn một địa bàn cụ thể là thành phố Hà Nội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này nhằm phân tích, đánh giá tương đối toàn diện về đấu giá tài sản để THADS ở thành phố Hà Nội và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động này trên địa bàn thành phố Hà Nội và phạm vi toàn quốc nói chung có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đấu giá tài sản để THADS ở góc độ thể chế và thực tiễn ở thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật; bảo đảm thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu một một số vấn đề lý luận về đấu giá tài sản để THADS như: xây dựng khái niệm, làm rõ đặc điểm, vai trò, và các yếu tố ảnh hưởng đến đấu giá tài sản để THADS. - Đánh giá thực trạng đấu giá tài sản để THADS ở thành phố Hà Nội (trong đó chú trọng những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc và nguyên nhân). - Xác định mục tiêu, quan điểm và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS đáp ứng yêu cầu công tác 4 THADS nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng hoạt động đấu giá tài sản trong THADS ở thành phố Hà Nội để từ đó luận giải các giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Hoạt động THADS nói chung, đấu giá tài sản để THADS nói riêng có thể được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu đấu giá tài sản để THADS ở thành phố Hà Nội từ năm 2013 đến nay. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của học thuyết MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền; cải cách tư pháp và cải cách nền hành chính nhà nước ở Việt Nam. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng phương pháp duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện và kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, lịch sử, tổng hợp, thống kê, so sánh, tổng kết thực tiễn. Cụ thể là: - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng chủ yếu tại chương 1 để phân tích cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu, qua đó khái quát hóa 5 thành những quan điểm làm cơ sở cho việc nghiên cứu các nội dung khác trong luận văn. - Phương pháp phân tích, so sánh được áp dụng nhằm làm rõ những nội dung của chương 2. Đây là chương đánh giá thực trạng đấu giá tài sản để THADS ở thành phố Hà Nội, qua đó nhận diện những ưu điểm, hạn chế và đề xuất các giải pháp ở chương 3. - Phương pháp phân tích, chứng minh được sử dụng chủ yếu ở chương 3 nhằm làm rõ những yêu cầu, giải pháp về đấu giá tài sản để THADS. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện, có hệ thống về cơ sở lý luận, thực tiễn thực hiện pháp luật về đấu giá tài sản để THADS. Luận văn đã chỉ ra những ưu điểm, tồn tại và nguyên nhân của thực trạng đấu giá tài sản để THADS ở thành phố Hà Nội, từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật; nâng cao hiệu quả đấu giá tài sản để THADS nói chung và ở thành phố Hà Nội nói riêng. Vì vậy luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho học viên, sinh viên tại các cơ sở đào tạo pháp luật và cá nhân, tổ chức quan tâm. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đấu giá tài sản để THADS. Chương 2: Thực trạng đấu giá tài sản để THADS tại thành phố Hà Nội Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để THADS từ thực tiễn thành phố Hà Nội. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm của đấu giá tài sản để thi hành án dân sự 1.1.1. Khái niệm đấu giá tài sản để thi hành án dân sự Đấu giá tài sản là một trong những cách thức bán tài sản, chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác nhằm góp phần thúc đẩy hoạt động kinh tế trong đời sống xã hội. Đấu giá tài sản có thể được nghiên cứu, tiếp cận theo các góc độ khác nhau. Có quan điểm cho rằng "Đấu giá tài sản là hình thức bán công khai một tài sản, một khối tài sản, theo đó có nhiều người muốn mua tham gia trả giá, người trả giá cao nhất nhưng không thấp hơn giá khởi điểm là người mua được tài sản" [25, tr.31]. Quan điểm khác cho rằng “Đấu giá là quá trình mua và bán tài sản hoặc dịch vụ bằng cách đưa món hàng cần đấu giá, ra giá và sau đó bán món hàng cho người trả giá cao nhất” [Bách khoa toàn thư mở Wikipedia]. Cũng có quan điểm cho rằng “Đấu giá là hình thức bán những tài sản hoặc tài sản thường thuộc loại đắt tiền, hàng quý hiếm. Người bán đặt mức giá chuẩn, những người mua trả giá từ thấp đến cao, tài sản được bán cho người mua trả cao nhất” [13, tr.136]. Đấu giá tài sản còn được hiểu là hình thức bán tài sản có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự và thủ tục được quy định tại Luật này, trừ trường hợp đấu giá trong trường hợp chỉ có một người đăng ký tham gia đấu giá, một người tham gia đấu giá, một người trả giá, một người chấp nhận giá [19]... Như vậy, tuy có thể có nhiều quan điểm khác nhau về đấu giá tài sản, nhưng về bản chất đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo 7 nguyên tắc và trình tự, thủ tục nhất định; có hai chủ thể trở lên tham gia đấu giá và người mua được tài sản là người trả giá cao nhất. Với bản chất đấu giá tài sản như trên, có thể thấy rằng tài sản đưa ra đấu giá rất đa dạng, song có thể chia thành hai loại: tài sản thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của cá nhân (ví dụ quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất) được người có tài sản tự nguyện đưa ra đấu giá và tài sản đưa ra bán đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (ví dụ đấu giá tài sản là tang vật vi phạm hành chính, đấu giá tài sản bị kê biên để đảm bảo thi hành án...). Trong hoạt động THADS- hoạt động thi hành các bản án, quyết định về dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án, Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh [18, Điều 1] khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên cơ quan THADS sẽ xác minh, kê biên tài sản của người phải thi hành án (kể cả tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ) để đảm bảo thi hành án. Sau khi kê biên tài sản, nếu người phải thi hành án và người được thi hành án không thỏa thuận được về việc nhận tài sản kê biên để thi hành án thì Chấp hành viên căn cứ vào quy định của pháp luật về loại tài sản, giá trị tài sản để thực hiện trình tự, thủ tục thẩm định giá, bán đấu giá tài sản kê biên hoặc tự tổ chức bán đấu giá tài sản để đảm bảo thi hành án. Bởi vậy, tài sản đưa ra đấu giá để THADS phải là tài sản của người phải thi hành án bị hạn chế quyền sở hữu, quyền sử dụng bởi quyết định cưỡng chế kê biên tài sản của Chấp hành viên cơ quan THADS; trên cơ sở kết quả kê biên tài sản, Chấp hành viên đề nghị tổ chức đấu giá tài sản thực hiện việc bán đấu giá tài sản kê biên hoặc tự bán đấu giá tài sản theo quy định pháp luật. Từ đó, có thể khái niệm: Đấu giá tài sản để THADS là bán công khai tài sản của người phải thi hành án đã bị kê biên theo trình tự, thủ tục pháp luật về đấu giá tài sản. 8 1.1.2. Đặc điểm của đấu giá tài sản để THADS Mục đích của đấu giá tài sản để THADS là thu hồi tiền thi hành án với giá trị cao nhất có thể, vì vậy, đấu giá tài sản để THADS có những đặc điểm chung của đấu giá tài sản, đó là: việc bán đấu giá tài sản công khai; có từ hai chủ thể trở lên tham gia đấu giá và người mua tài sản là người trả giá cao nhất. Ngoài ra, đấu giá tài sản để THADS có một số đặc điểm cơ bản sau đây: Một là, tài sản đưa ra đấu giá để THADS là tài sản đã bị kê biên theo quyết định cưỡng chế của Chấp hành viên cơ quan THADS. Hoạt động THADS nhằm đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và khi đương sự không tự nguyện thi hành án thì cơ quan THADS sẽ áp dụng các biện pháp cưỡng chế pháp luật quy định để đảm bảo thi hành án, trong đó có biện pháp "Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ" [18, Điều 71]. Vì vậy, điểm khác biệt quan trọng của đấu giá tài sản để THADS so với đấu giá tài sản thông thường là tài sản đưa ra đấu giá là tài sản đã bị kê biên. Điều này có nghĩa là người phải thi hành án mặc dù có quyền sở hữu, sử dụng tài sản nhưng bị hạn chế quyền quyết định việc đưa tài sản ra bán đấu giá; quyền đưa tài sản đã kê biên ra đấu giá thuộc về Chấp hành viên, trừ trường hợp trước khi mở cuộc bán đấu giá 01 ngày làm việc, người phải thi hành án nộp đủ tiền thi hành án và thanh toán các chi phí thực tế, hợp lý đã phát sinh từ việc cưỡng chế thi hành án, tổ chức bán đấu giá để nhận lại tài sản [Luật THADS, Điều 101]. Thực tế cho thấy rằng việc đấu giá tài sản kê biên để thi hành nghĩa vụ về tiền thường gắn với các tài sản đảm bảo có giá trị lớn, có tính đặc thù (nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, tàu biển, nhà ở, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, cổ phần....) nên việc xử lý tài sản thông qua đấu giá thường gặp nhiều khó khăn, kéo dài do không có người mua tài sản, do người phải thi hành án trì hoãn, cản trở việc giao tài sản cho người trúng đấu giá. 9 Hai là, đấu giá tài sản để THADS được thực hiện theo phương thức trả giá lên. Theo quy định của pháp luật đấu giá tài sản hiện hành ở nước ta, đấu giá tài sản có thể thực hiện theo hai phương thức: Phương thức đặt giá xuống (theo đó đấu giá viên đặt giá từ cao xuống thấp cho đến khi xác định được người chấp nhận mức giá do đấu giá viên đưa ra) và phương thức trả giá lên (theo đó người tham gia đấu giá trả giá từ thấp lên cao cho đến khi xác định được người trả giá cao nhất so với giá khởi điểm). Tuy nhiên, do tài sản kê biên để thi hành án được bán đấu giá trên cơ sở "giá khởi điểm" (do tổ chức thẩm định giá đưa ra) nên việc đấu giá tài sản để THADS được thực hiện một cách công khai, trực tiếp bằng lời nói theo phương thức trả giá lên. Việc đấu giá tài sản để THADS theo phương thức này sẽ đảm bảo sự an toàn, tránh được những khiếu nại, tố cáo phát sinh và đảm bảo tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và tổ chức, cá nhân liên quan. Ba là, có sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự phối hợp của nhiều chủ thể trong đấu giá tài sản để THADS. Đấu giá tài sản để THADS được thực hiện trên cơ sở kết quả kê biên tài sản của cơ quan THADS, vì vậy khác với bán đấu giá thông thường đó là người có tài sản có thể tự mình tổ chức bán đấu giá, nhưng cũng có thể bán thông qua tổ chức trung gian làm dịch vụ bán đấu giá thì đấu giá tài sản để THADS được thực hiện theo trình tự, thủ tục phức tạp hơn. Đối với đấu giá tài sản để THADS, ngoài bên có tài sản bán đấu giá (người phải thi hành án) và tổ chức làm dịch vụ đấu giá, thì cơ quan THADS và Chấp hành viên là người có vai trò quan trọng. Sự tham gia của cơ quan THADS và Chấp hành viên thể hiện ở việc quyết định lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản, ở việc ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản...và trong một số trường hợp, Chấp hành viên còn có thẩm quyền trực tiếp bán đấu giá tài sản để thi hành án nếu tại 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản chưa có tổ chức bán đấu giá hoặc có nhưng tổ chức bán đấu giá từ chối ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản hoặc đối với tài sản là động sản có giá trị nhỏ. Bên cạnh đó, đấu giá tài sản để THADS phải có sự tham gia, phối hợp của nhiều chủ thể để thực hiện các trình tự, thủ tục pháp luật quy định (ví dụ như: phối hợp trong định giá tài sản, thỏa thuận về lựa chọn tổ chức đấu giá tài sản của các đương sự, ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản giữa Chấp hành viên và tổ chức đấu giá tài sản, phối hợp trong giao tài sản cho người mua được tài sản đấu giá…Sự phối hợp này còn là cơ sở để kiểm tra, giám sát và đảm bảo cho việc đấu giá tài sản được khách quan, minh bạch, đúng pháp luật. 1.2. Vai trò của đấu giá tài sản để thi hành án dân sự Từ thực tiễn THADS nói chung, đấu giá tài sản để THADS nói riêng có thể khái quát một số vai trò của đấu giá tài sản để THADS như sau: Thứ nhất, đấu giá tài sản trong THADS đảm bảo hiệu quả thi hành các bản án, pháp luật có hiệu lực pháp luật. Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật là kết quả xét xử, giải quyết tranh chấp trong đời sống xã hội, vì vậy đòi hỏi đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng, nghiêm chỉnh chấp hành theo đúng quy định tại Điều 106 Hiến pháp năm 2013. Thực tế cho thấy rằng, trong các bản án, quyết định về dân sự được đưa ra thi hành theo trình tự, thủ tục THADS thì nghĩa vụ thi hành án về tiền chiếm tỷ lệ rất lớn (trả tiền, bồi thường thiệt hại về tiền, tiền phạt...), vì vậy, khi người phải thi hành án có tài sản mà không tự nguyện thi hành hoặc có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản thì Chấp hành viên cơ quan THADS phải áp dụng biện pháp kê biên tài sản để ngăn chặn hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản và giữ nguyên hiện trạng tài sản để xử lý theo pháp luật. Việc áp dụng biện pháp kê biên tài sản kịp thời cũng chính là cơ sở để đảm bảo 11 hiệu quả đấu giá tài sản, thu tiền thi hành án, góp phần khôi phục các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Đồng thời, thông qua đấu giá tài sản sẽ đảm bảo tính công khai, minh bạch trong việc xử lý tài sản của người phải thi hành án để thu được giá trị cao nhất, tránh sự lạm quyền, tiêu cực trong bán tài sản để THADS và đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, có thể nói rằng đấu giá tài sản có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong đời sống xã hội. Thứ hai, đấu giá tài sản để THADS góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội. Đấu giá tài sản để THADS được thực hiện được trên cơ sở kết quả kê biên tài sản của người phải thi hành án, vì vậy, việc đưa tài sản ra đấu giá thể hiện tính công khai, nghiêm minh của pháp luật đối với trường hợp người phải thi hành án hoặc cá nhân, tổ chức liên quan chống đối, trì hoãn, cản trở việc thi hành án. Thực tế cho thấy rằng, đấu giá tài sản là bước tiếp sau của việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản thể hiện sự hạn chế quyền sở hữu, sử dụng tài sản của người phải thi hành án (thường là tài sản có giá trị lớn, trực tiếp ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh hoặc đời sống thường ngày của người phải thi hành án). Vì vậy, đấu giá tài sản để THADS có thể coi là biện pháp có tính răn đe, nghiêm khắc và thu hút sự quan tâm của xã hội qua đó tuyên truyển, chuyển tải thông điệp về trách nhiệm tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và nâng cao ý thức pháp luật của người phải thi hành án và các chủ thể khác trong xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào hoạt động xét xử và thi hành án của Tòa án và cơ quan THADS. Thứ ba, đấu giá tài sản để THADS góp phần nâng cao hiệu quả công tác xét xử và THADS 12 Bản án, quyết định là kết quả hoạt động xét xử của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền qua nhiều trình tự, thủ tục tố tụng cụ thể, vì vậy, nếu bản án, quyết định được các đương sự tự nguyện thi hành thể hiện tính đúng đắn, hiệu quả của công tác xét xử và THADS. Tuy nhiên, bên cạnh đó có những trường hợp khi áp dụng biện pháp đấu giá tài sản đã kê biên của người phải thi hành án gặp phải sự phản ứng, chống đối của người phải thi hành án cũng như không nhận được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận xã hội về tính đúng đắn của bản án, quyết định, thậm chí nghi ngờ đối với công tác xét xử và THADS. Thực tế cho thấy rằng khi Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để đấu giá thì phát hiện những điểm không rõ, thiếu sót, vi phạm trong các bản án, quyết định; sự sai lệch, khác biệt giữa nội dung tuyên xử lý tài sản và thực trạng tài sản thực tế của người phải thi hành án (không rõ diện tích, không rõ tứ cận diện tích đất bị kê biên của người phải thi hành án)... nên cơ quan THADS phải đề nghị Tòa án đã xét xử đính chính, sửa chữa sai sót, giải thích bản án hoặc đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại bản án theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm, thậm chí phải hủy kết quả đấu giá tài sản. Vì vậy, việc đấu giá tài sản kê biên ngoài mục đích đảm bảo thi hành án thì cũng là một kênh để đánh giá lại tính đúng đắn của hoạt động xét xử, khắc phục những hạn chế, tồn tại, vi phạm. 1.3. Các yếu tố bảo đảm hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án dân sự Đấu giá tài sản để THADS có vai trò quan trong trong việc đảm bảo thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong THADS, việc kê biên được tài sản của người phải thi hành án có ý nghĩa quan trọng, song quan trọng hơn là bán được tài sản kê biên để đảm bảo thi hành án. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, trong đó có một số yếu tố cơ bản sau: 13 1.3.1. Điều kiện kinh tế - xã hội Điều kiện kinh tế- xã hội luôn là yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động THADS nói chung, đấu giá tài sản để thi hành án nói riêng. Thực tế cho thấy rằng điều kiện kinh tế sẽ ảnh hưởng đến khả năng bán được tài sản đấu giá. Đặc biệt là khi điều kiện kinh tế khó khăn, thị trường bất động sản chậm khởi sắc sẽ ảnh hưởng nhiều đến việc thỏa thuận thi hành án cũng như đấu giá tài sản. Thực tế thời gian qua, có nhiều việc thi hành án mà tài sản kê biên qua nhiều lần đấu giá nhưng không có người mua, thậm chí nhiều người có tâm lý không muốn mua tài sản đấu giá để thi hành án vì phải mất thời gian chờ đợi được giao tài sản; do đương sự khiếu nại, tố cáo có thể dẫn đến việc hủy kết quả đấu giá hoặc khó khăn trong việc làm thủ tục chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng tài sản đấu giá thành... Từ đó, việc đấu giá tài sản kê biên để thi hành án cần phải dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội thực tế của đất nước, của từng địa phương và của người bị cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án trong từng thời điểm cụ thể. 1.3.2. Mức độ hoàn thiện của hệ thống quy phạm pháp luật Để đảm bảo tính minh bạch, công khai trong hoạt động THADS thì đấu giá tài sản để thi hành án phải tuân thủ các trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Vì vậy, pháp luật là cơ sở quan trọng để cơ quan THADS và tổ chức, cá nhân liên quan tổ chức thi hành án, đấu giá tài sản nhưng cũng là yếu tố ảnh hưởng, chi phối mang tính quyết định đối với hiệu quả THADS nói chung, đấu giá tài sản để thi hành án nói riêng. Hệ thống quy phạm pháp luật là cơ sở cho Chấp hành viên, cơ quan THADS, tổ chức đấu giá tài sản và các cá nhân, tổ chức liên quan trong đấu giá tài sản được quy định trong Luật THADS, Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS; Luật Đấu giá tài sản; Nghị định số 62/2017/NĐ-CP ngày 16/5/2017 của Chính phủ quy định chi tiết 14 một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu giá tài sản và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan (Bộ luật Dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở....). Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả đấu giá tài sản để thi hành án thì các quy định pháp luật phải thống nhất, đồng bộ, minh bạch và khả thi. Điều này đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải không ngừng rà soát, đánh giá việc thi hành pháp luật để kịp thời phát hiện, sửa đổi, bổ sung các quy định khả thi, phù hợp với yêu cầu công tác THADS và đấu giá tài sản để thi hành án (ví dụ: trong thời gian tới cần sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành để đảm bảo sự thống nhất quy định về lựa chọn tổ chức đấu giá theo quy định của Điều 56 Luật Đấu giá tài sản và Điều 101 Luật THADS). 1.3.3. Năng lực của Chấp hành viên và Đấu giá viên Theo quy định pháp luật thì Chấp hành viên là người có thẩm quyền tổ chức thi hành án với nhiệm vụ, quyền hạn là: kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi hành án theo thẩm quyền; thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án...trong đó có việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản để đảm bảo thi hành án; đồng thời, pháp luật cũng quy định Đấu giá viên là người điều hành cuộc đấu giá để bán đấu giá tài sản. Trong THADS, việc kê biên tài sản của Chấp hành viên và đấu giá tài sản kê biên của Đấu giá viên là hai trình tự, thủ tục thi hành án có tính tiếp nối, có liên hệ biện chứng với nhau; việc kê biên tài sản là cơ sở cho đấu giá tài sản. Vì vậy, có thể nói Chấp hành viên và Đấu giá viên có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính khả thi, hiệu quả thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Điều này cũng có nghĩa là hiệu quả THADS, hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản và đấu giá tài sản phụ thuộc chủ yếu vào năng lực tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và đấu giá tài sản của Đấu giá viên (kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng áp dụng pháp luật trong 15 thực thi nhiệm vụ...). Trong quá trình kê biên tài sản và đấu giá tài sản, năng lực của Chấp hành viên và Đấu giá viên thể hiện qua vai trò của những người đảm bảo sự tuân thủ các trình tự, thủ tục THADS. Do đó, để đảm bảo năng lực tổ chức thi hành án và đấu giá tài sản, đòi hỏi Chấp hành viên và Đấu giá viên phải là những người được đào tạo, bồi dưỡng bài bản về lý thuyết và kinh nghiệm thực tiễn, tri thức, kinh nghiệm để có thể áp dụng vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao trong quá trình thi hành án. Ngoài ra, năng lực tổ chức thi hành án của Chấp hành viên và Đấu giá viên còn được đảm bảo thông qua việc lựa chọn được những Chấp hành viên, Đấu giá viên có đủ bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, vững vàng trước sức ép, ảnh hưởng, tác động từ những tiêu cực của xã hội và sự chỉ đạo, can thiệp trái pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn, những người thân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Đây là những đòi hỏi, yêu cầu quan trọng để đảm bảo hiệu quả THADS, bởi thực tế thời gian qua cho thấy có nhiều việc thi hành án có giá trị lớn, phức tạp cần phải áp dụng biện pháp kê biên và đấu giá tài sản của người phải thi hành án đã đưa lại kết quả, nhưng cũng còn có những việc thi hành án mà việc kê biên tài sản và đấu giá tài sản không đúng pháp luật, kết quả đấu giá tài sản bị hủy, gây thiệt hại cho đương sự. Do đó, để đảm bảo hiệu quả cưỡng chế kê biên tài sản và đấu giá tài sản thì đội ngũ Chấp hành viên và Đấu giá viên cần được đào tạo, tập huấn thường xuyên để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, bản lĩnh, trách nhiệm và được lựa chọn, bổ nhiệm đúng các điều kiện theo quy định để quá trình tổ chức thi hành án đảm bảo đúng pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, cá nhân, tổ chức liên quan và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. 16 1.3.4. Ý thức pháp luật của đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan Nguyên tắc có tính hiến định là các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật phải được cá nhân, tổ chức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành, vì vậy hiệu quả thi hành án cũng như đấu giá tài sản để thi hành án cũng phụ thuộc nhiều vào ý thức chấp hành pháp luật của các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan. Thực tiễn cho thấy rằng khi các bản án, quyết định được đưa ra thi hành, nếu các đương sự nhận thức đầy đủ được trách nhiệm, nghĩa vụ thi hành án và tự nguyện, tích cực phối hợp thi hành thì sẽ tạo thuận lợi, đảm bảo hiệu quả thi hành án. Tuy nhiên, trong quá trình thi hành án, nhất là đối với những việc thi hành án có giá trị lớn và Chấp hành viên phải kê biên tài sản để đấu giá thì các đương sự, đặc biệt là người phải thi hành án thường chống đối, cản trở việc thi hành án...Vì vậy, để nâng cao hiệu quả kê biên và đấu giá tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên và Đấu giá viên không chỉ phải thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ của mình mà còn chú trọng tuyên truyền, giải thích pháp luật để đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan nhận thức đúng đắn quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật, từ đó tích cực phối hợp, giảm thiểu sự cản trở, can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi hành án cũng như khiếu nại, tố cáo khi cơ quan THADS kê biên tài sản, phối hợp với tổ chức đấu giá tài sản tổ chức giao tài sản cho người mua được tài sản đấu giá. Kết luận chương 1 Đấu giá tài sản là một phương thức bán tài sản công khai để thu được giá trị bán tài sản cao nhất cho người có quyền sở hữu, sử dụng tài sản. Tài sản đưa ra đấu giá có thể thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của người có tài sản tự nguyện đưa ra đấu giá hoặc tài sản bị buộc đưa ra đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 17 Ở nước ta, trong quá trình thi hành phần dân sự trong các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện thi hành thì cơ quan THADS có quyền áp dụng biện pháp kê biên tài sản của người phải thi hành án để đảm bảo thi hành án. Trên cơ sở kết quả kê biên, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ đấu giá tài sản với tổ chức đấu giá tài sản để đấu giá tài sản đã kê biên để thi hành án. Đấu giá tài sản để THADS là bán công khai tài sản của người phải thi hành án đã bị kê biên theo trình tự, thủ tục pháp luật về đấu giá tài sản. Đấu giá tài sản để THADS có một số đặc điểm cơ bản là: tài sản đưa ra đấu giá để THADS là tài sản đã bị kê biên theo quyết định cưỡng chế của Chấp hành viên cơ quan THADS; việc đấu giá tài sản để THADS được thực hiện theo phương thức trả giá lên và quá trình đấu giá có sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và sự phối hợp của nhiều chủ thể. Đấu giá tài sản để THADS có vai trò quan trọng trong đảm bảo hiệu quả thi hành các bản án, pháp luật có hiệu lực pháp luật; góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các chủ thể trong xã hội và hiệu quả công tác xét xử và THADS. 18 Chương 2 THỰC TIỄN ĐẤU GIÁ TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 2.1. Thực trạng pháp luật về đấu giá tài sản để thi hành án dân sự Nghiên cứu pháp luật ở nước ta có thể thấy rằng đấu giá tài sản được hình thành, phát triển từ bán đấu giá tài sản trong hoạt động THADS. Dấu mốc lập pháp quan trọng đầu tiên về đấu giá tài sản để THADS là Pháp lệnh THADS năm 1989, theo đó tại Điều 28 của Pháp lệnh quy định thẩm quyền của Chấp hành viên được bán đấu giá tài sản kê biên để thi hành án. Tiếp đó, cùng với quá trình hoàn thiện pháp luật, nội dung pháp luật điều chỉnh về đấu giá tài sản để THADS cũng ngày càng hoàn thiện hơn qua các văn bản quy phạm pháp luật như: Pháp lệnh THADS năm 1993; Pháp lệnh THADS năm 2004; Nghị định số 86/1996/CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản; Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Luật THADS năm 2008; Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014 và Luật Đấu giá tài sản năm 2016. Qua nghiên cứu khái quát các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên, có thể thấy rằng nội dung pháp luật điều chỉnh về đấu giá tài sản để thi hành án ngày càng hoàn thiện, chặt chẽ hơn, nhất là vấn đề tài sản kê biên được đưa ra đấu giá; thẩm quyền bán đấu giá tài sản kê biên; quản lý nhà nước về đấu giá tài sản để thi hành án; việc thành lập các tổ chức đấu giá tài sản, đặc biệt là trình tự, thủ tục đấu giá tài sản ngày càng tạo cơ sở cho việc đấu giá tài sản công khai, minh bạch hơn. Trên cơ sở Luật THADS, Luật Đấu giá tài sản và các văn bản hướng 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan