TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
----------
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC
2013-2014
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Bình Dương, 4/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN
----------
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC
2013-2014
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Sinh viên thực hiện
: Đỗ Thị Ngân Trâm
Dân tộc
: Kinh
Lớp
: D11NV01
Năm thứ
: 3/4
Ngành học
: Sư phạm Ngữ Văn
Nam, Nữ: Nữ
Khoa: Ngữ Văn
Bình Dương, 4/2014
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.............................................................................1
2. Lí do chọn đề tài.......................................................................................................2
3. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................................3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu........................................................................................3
6. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.......................................................4
7. Cấu trúc của đề tài...................................................................................................4
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM.................................................5
1.1. Đôi nét về nhà văn Đoàn Giỏi.............................................................................5
1.1.1. Cuộc đời.............................................................................................................5
1.1.2. Sự nghiệp văn học.............................................................................................6
1.2. Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam......................................................................8
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác ...........................................................................................8
1.2.2. Cốt truyện...........................................................................................................9
Chương 2 THIÊN NHIÊN NAM BỘ TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM.....12
2.1. Nền tảng địa văn hóa Nam bộ............................................................................12
2.2. Thiên nhiên Nam bộ trong Đất rừng phương Nam...........................................13
2.2.1. Hệ thống thực vật.............................................................................................14
2.2.2. Hệ thống động vật............................................................................................17
2.3. Ý nghĩa thiên nhiên đối với con người...............................................................21
CHƯƠNG 3 CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM....26
3.1. Cuộc sống con người Nam bộ ………………………………………………………………….26
3.1.1. Cách thức cư trú..............................................................................................26
3.1.2. Cách thức mưu sinh........................................................................................28
3.1.3. Phương tiện giao thông....................................................................................32
3.1.4. Ẩm thực Nam bộ.............................................................................................33
3.1.5. Ngôn ngữ Nam bộ............................................................................................37
3.2. Tính cách Nam bộ...............................................................................................40
3.2.1. Yêu nước nồng nàn.........................................................................................40
3.2.2. Bình dị, chất phác...........................................................................................45
3.2.3. Con người nghĩa khí, hào hiệp........................................................................47
3.2.4. Năng động, sáng tạo........................................................................................50
KẾT LUẬN................................................................................................................53
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................55
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin cảm ơn trường đại học Thủ Dầu Một và khoa Ngữ văn đã cho
tôi cơ hội thử sức với việc nghiên cứu khoa học. Qua công việc này, tôi được thể hiện
khả năng của mình và đây cũng như lần tập duyệt cho tôi khả năng làm luận văn tốt
nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Văn Đông đã tận tình
giúp đỡ chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài này. Nhờ sự giúp đỡ tận tình và luôn
quan tâm của thầy, chúng tôi đã hoàn thành bài nghiên cứu theo đúng thời gian quy
định. Qua đó, công việc này giúp tôi, một sinh viên năm thứ ba ngành Sư phạm Ngữ
văn, có thêm kiến thức chuyên ngành và kĩ năng làm một bài nghiên cứu khoa học
cũng như bài luận văn tốt nghiệp sau này.
Tuy chúng tôi đã cố gắng rất nhiều để hoàn thành bài nghiên cứu này, song vì
đây là lần đầu tiên tiếp xúc với việc làm một bài nghiên cứu khoa học thì việc sai xót
là không thể tránh khỏi. Mong thầy (cô) thông cảm và đóng góp ý kiến để bài nghiên
cứu được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
1
MỞ ĐẦU
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Đoàn Giỏi – Một người con của miền đất Nam bộ, ông là một trong những nhà
văn của Nam bộ thế kỉ XX. Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu về cuộc đời và cũng như
về các tác phẩm của ông. Như các bài viết sau:
Đoàn Giỏi – người lưu giữ huyền thoại phương Nam do Lưu Hồng Sơn. Người
viết cung cấp cho ta biết được cuộc đời con người nhà văn Đoàn Giỏi và các tác phẩm
chính của ông. Người viết nghiên cứu về nghệ thuật xây dựng nhân vật trong thể loại
văn xuôi của Đoàn Giỏi những con người đậm chất Nam bộ và không những con
người mà về thiên nhiên Nam bộ.
Bên cạnh bài viết của Lưu Hồng Sơn thì có bài viết của Huỳnh Mẫn Chi cũng
viết về Đoàn Giỏi nhưng nghiêng về tìm hiểu con người và tác phẩm để lại của ông và
một tác phẩm còn dang dở của nhà văn khi cuối đời chưa kịp hoàn thành đó là tác
phẩm Núi cả cây ngàn.
Có một số bài báo cũng viết về nhà văn Đoàn Giỏi và các tác phẩm của ông
như: Đoàn Minh Tuấn. 2005. Có một nhà văn – chiến sĩ công an. Tạp chí Nhà Văn, số
11, tr.80. Báo Sài Gòn giải phóng, số ra ngày 28/3/1999, tr.5.
Ngoài những bài viết đó về Đoàn Giỏi thì có những luận văn nghiên cứu về
cách viết truyện hay chất Nam bộ trong tác phẩm của ông. Tiêu biểu là luận văn thạc sĩ
văn học- chuyên ngành với đề tài: “Chất Nam bộ trong truyện, kí của Đoàn Giỏi” và
khóa luận “Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Đoàn Giỏi” của sinh viên Phan Thị Thu
Hiền (SV chuyên ngành Văn học hệ CNTN, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH
KHXH&NV TP.HCM) do TS. Võ Văn Nhơn hướng dẫn, đã được bảo vệ tại Trường
ĐH KHXH và Nhân văn tháng 6 năm 2012.
Đất rừng phương Nam (1957) của Đoàn Giỏi không chỉ là tác phẩm phổ biến
trong giới học sinh - sinh viên. Đối với độc giả khắp nơi trên mọi miền đất nước, họ
xem tác phẩm ấy như một áng văn về con người, về vùng đất Nam bộ khá điển hình.
Cho nên, Đất rừng phương Nam càng phổ biến khi được dịch ra nhiều thứ tiếng: Nga,
Ba Lan, Trung Quốc, Đức, Tây Ban Nha…
Bài nghiên cứu này của chúng tôi tiếp tục đi vào nghiên cứu chất văn hóa Nam
bộ trong tác phẩm của Đoàn Giỏi vì khả năng có hạn nên chúng tôi chỉ đi nghiên cứu
2
một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn mang đậm văn hóa Nam bộ để góp vào kho tàng
chung nghiên cứu về nhà văn Đoàn Giỏi cũng như tác phẩm của ông.
2. Lí do chọn đề tài
Hiện nay, khi đất nước đang trên đà hội nhập và phát triển với tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao đã kéo theo sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của khoa học công
nghệ. Và cũng chính từ đó đã có rất nhiều những đề tài nghiên cứu khoa học mang tính
thời sự, cấp thiết nhưng ta vẫn dễ dàng nhận thấy một điều rất thú vị là lĩnh vực nghiên
cứu về đất nước - con người Việt Nam, lâu nay vẫn luôn là vấn đề có sức cuốn hút đặc
biệt đối với mọi tầng lớp xã hội. Từ nhà khoa học - khoa học xã hội đến nhà khoa học
về tự nhiên, từ nhà hoạt động chính trị đến nhà hoạt động xã hội, mọi người từ mọi
ngành nghề đều cảm thấy cần phải có nhận thức, am hiểu sâu sắc hơn nữa về đất nước
con người Việt Nam và cũng chính là quê hương, dân tộc mình trên dải đất thân
thương hình chữ S.
Trên bước đường phát triển, chúng ta đang cố gắng tiếp thu, học hỏi những văn
minh, tiến bộ của nhân loại song cũng không nên vì thế mà quên đi những nét đẹp
truyền thống, bình dị, gần gũi ngay xung quanh mình hàng ngày mà do bộn bề cuộc
sống ta vô tình lãng quên đi. Đã đến lúc chúng ta cần sống “chậm” hơn để kịp nhận ra
những giá trị tốt đẹp của dân tộc, nhất là đối với thế hệ trẻ hôm nay và mai sau, họ cần
được tiếp xúc nhiều hơn nữa với những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Và trước hết, để thu
hút được sự quan tâm, tìm hiểu ở họ thì những tài liệu tham khảo trong học tập cũng
như trong nghiên cứu cần có sức hấp dẫn, lôi cuốn và cũng thật sinh động. Vậy tại sao
chúng ta lại không khai thác những đề tài này thông qua lĩnh vực văn chương, một lĩnh
vực vừa đảm bảo được tính nhân văn cao vừa đáp ứng được những yêu cầu khách
quan của độc giả khi họ có nhu cầu tìm hiểu về quê hương, đất nước mình.
Chính vì thế, trong đề tài nghiên cứu này, chúng tôi sẽ nghiên cứu về vùng đất,
con người miền Nam và cụ thể hơn là đất và người miền Tây Nam bộ dưới góc nhìn
văn hóa qua tiểu thuyết Đất rừng phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi để tìm hiểu sâu
sắc hơn về thiên nhiên miền sông nước trĩu nặng phù sa; văn hóa, cuộc sống, tính cách
của những con người nơi đây của một thời còn nhiều sơ khai dưới ách thống trị của
bọn thực dân.
Qua đề tài này chúng tôi mong muốn có được cái nhìn chân thật, sâu sắc về
thiên nhiên và con người Nam bộ để tìm ra nét đặc trưng vốn có, những điều thú vị,
3
mới mẻ tại nơi đây. Và khi hoàn thành thì bài nghiên cứu sẽ là tài liệu vừa có giá trị về
mặt văn học, vừa có giá trị về mặt tinh thần góp phần vào việc gìn giữ, bảo tồn nét văn
hóa Nam bộ nói riêng và văn hóa Việt Nam – đất nước – con người nói chung.
3.
Mục tiêu nghiên cứu
Qua đề tài nghiên cứu về “Đất và người Nam bộ trong Đất rừng phương Nam
của Đoàn Giỏi” chúng tôi nhận thấy đề tài sẽ:
- Là tài liệu tham khảo trong học tập cũng như tài liệu cung cấp thông tin về
văn hóa, thiên nhiên, con người miền Tây Nam bộ thuở còn sơ khai.
- Làm rõ được nét đặc trưng tiêu biểu về miền đất Nam Bộ trong tác phẩm của
nhà văn Đoàn Giỏi.
- Góp phần gìn giữ, bảo tồn, phát huy những bản sắc văn hóa, những nét đẹp
truyền thống của con người Việt Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sẽ tìm hiểu đôi nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của
Đoàn Giỏi để có cái nhìn khách quan về tác giả cũng như áp dụng vào việc triển khai
nghiên cứu.
Sau đó đề tài sẽ tìm hiểu về những đặc trưng thiên nhiên được thể hiện qua tác
phẩm, cụ thể là miền Tây Nam bộ, Việt Nam.
Cuối cùng, đề tài sẽ tìm hiểu về con người nơi đây qua những nét chính về văn
hóa cũng như phong cách sinh hoạt hàng ngày.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thống kê
Trên cơ sở tìm hiểu về tiểu thuyết Đất rừng phương Nam, người viết sẽ thống
kê các yếu tố, chi tiết miêu tả về thiên nhiên và con người miền Tây Nam bộ có
liên quan đến đề tài cũng như tần suất xuất hiện các yếu tố đó.
5.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp
Dựa vào kết cấu đề cương có sẵn, người viết sẽ tìm hiểu từng khía cạnh trong
tác phẩm để tiến hành nghiên cứu. Bên cạnh đó, người viết cũng sẽ tìm hiểu,
tham khảo các ý kiến, nhận định để rút ra những đặc trưng bản chất làm rõ cho
đề tài. Từ những nguồn tài liệu sưu tầm được người viết sẽ rút ra những gì tinh
túy, xác đáng nhất để phục vụ cho việc nghiên cứu về đề tài.
5.3. Phương pháp lịch sử - xã hội
4
Đặt văn học trong mối tương quan với các yếu tố xã hội và lịch sử, cụ thể trong
đề tài này là xã hội và lịch sử phát triển vùng Nam Bộ để đối chiếu và luận suy
ra những đặc điểm phát triển của văn học.
6. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
6.1. Đối tượng nghiên cứu
- Thiên nhiên miền Tây nam bộ.
- Nét đặc trưng về cuộc sống, tính cách của người dân miền Tây Nam bộ.
6.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thiên nhiên miền Tây Nam bộ
- Con người miền Tây Nam bộ.
- Không gian: khu vực miền Tây Nam bộ và thời gian vào khoảng năm 1945.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì đề tài được chia thành ba
chương chính:
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
Chương này giới thiệu về tiểu sử của nhà văn Đoàn Giỏi, nói về sự nghiệp sáng
tác của nhà văn qua các chặng đường sáng tác, giới thiệu về hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm cũng như tóm tắt cốt truyện tác phẩm Đất rừng phương Nam
CHƯƠNG II: THIÊN NHIÊN NAM BỘ TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
Nghiên cứu về thiên nhiên trong đất rừng phương Nam, đây vừa là một vùng
thiên nhiên được ưu đãi nhiều thuận lợi thế nhưng bên cạnh đó, thiên nhiên cũng thật
hoang sơ, dữ dội, đặt ra những thử thách cho con người. Ngoài ra người viết còn tìm
hiểu về vai trò của thiên nhiên đối với cuộc sống con người.
CHƯƠNG III: CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
Chương này nêu lên những nét đặc trưng của con người miền Tây Nam bộ về
những khía cạnh như: cách mưu sinh, cách cư trú, việc đi lại, ẩm thực cũng như những
đặc trưng về ngôn ngữ, tính cách con người nơi đây.
5
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.1.
Đôi nét về nhà văn Đoàn Giỏi
1.1.1. Cuộc đời
Đoàn Giỏi (17/5/1925 - 2/4/1989), tên thật là Đoàn Văn Giỏi. Ngoài bút danh
Đoàn Giỏi thường dùng, ông còn có nhiều bút danh khác: Nguyễn Hoài, Huyền Tư,
Nguyễn Phú Lễ…Đoàn Giỏi sinh ở quê tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc xã
Tân Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang), trong một gia đình địa chủ.
Nhà văn Đoàn Giỏi chính là người con thứ tư (Nam bộ gọi là thứ năm) của ông
Đoàn Văn Vàng và bà Nguyễn Thị Kiểu. Ông bà này có tất cả mười người con: Đoàn
Văn Mỹ, Đoàn Thị Ba, Đoàn Thị Tư, Đoàn Giỏi, Đoàn Phú, Đoàn Thị Đức, Đoàn
Ngọc Hưng, Đoàn Nhân và Đoàn Thị Tuyết.Trong những người con ấy, Đoàn Giỏi,
Đoàn Phú, Đoàn Nhân là những người từng tham gia hoạt động cách mạng trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp. Họ đều là những chiến sĩ bất khuất trung kiên, dũng cảm
trên khắp các chiến trường. Cha Đoàn Giỏi, ông Đoàn Văn Vàng là một địa chủ trí
thức tiến bộ và yêu nước. Ông từng làm chủ hàng trăm héc ta ruộng vườn. Khi Cách
mạng tháng Tám thành công và toàn quốc kháng chiến bùng nổ, gia đình ông đã tự
nguyện hiến toàn bộ nhà cửa, ruộng đất cho chính quyền Việt Minh. Từ nghĩa cử cao
đẹp ấy, ông Đoàn Văn Vàng như tạo điều kiện cho chính mình, một điền chủ lớn đã
xích lại gần với cách mạng.
Thuở nhỏ, Đoàn Giỏi học ở trường trung học Mỹ Tho. Sau đó, ông theo học trường
Cao đẳng Mỹ thuật Gia Định. Cứ tưởng, cuộc đời và số phận của Đoàn Giỏi đã gắn
liền với cây cọ, với nét vẽ nào ngờ năm 1943, khi Đoàn Giỏi sáng tác được một truyện
ngắn đầu tiên thì xem như cuộc đời ông chuyển sang bước ngoặt mới. Truyện ngắn ấy
được nhà văn Hồ Biểu Chánh chọn đăng trên tờ Nam kỳ tuần báo. Cũng từ truyện
ngắn đó, Đoàn Giỏi xem Hồ Biểu Chánh như một người thầy của mình đối với trong
văn chương. Sau đó, những truyện ngắn khác của Đoàn Giỏi viết bao giờ cũng được sự
góp ý chân tình từ Hồ Biểu Chánh. Về sau, tác phẩm của Đoàn Giỏi gần gũi với người
dân lao động như cách tư duy của Hồ Biểu Chánh. Nhưng phong cách và văn chương
của Đoàn Giỏi lại mạnh mẽ, gai góc, cuồng nhiệt như chính cá tính của ông.
6
Con đường nghệ thuật mở ra chào đón trước mắt ông, nhưng cuối cùng ông chọn công
việc không liên quan gì tới hội họa, tới văn chương. Ông có tinh thần giác ngộ cách
mạng sớm và ông chọn cho mình con đường khác. Năm 1947, Đoàn Giỏi về làm
trưởng công an huyện Châu Thành. Thời gian này, ông phải phụ trách mười xã đang
rơi vào thời kỳ khó khăn về mặt kinh tế cũng như tinh thần của người dân do chiến
tranh gây ra. Năm 1948, Đoàn Giỏi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và
giữ chức phó ty tuyên truyền tỉnh Định Tường (nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Cùng thời
gian này, Đoàn Giỏi kiêm luôn vị trí chủ bút tờ báo Tiền Phong của Mặt trận Việt
Minh Mỹ Tho. Được hai năm, Đoàn Giỏi chuyển công tác đến nơi khác, đó là năm
1949, ông chuyển sang làm phó ty công an tỉnh Rạch Giá (nay thuộc tỉnh Kiên Giang).
Từ năm 1949 đến năm 1954, ông công tác tại Chi hội Văn nghệ Nam Bộ, viết bài cho
tạp chí Lá Lúa, rồi tạp chí Văn nghệ Miền Nam.
Sau 1954, ông tập kết ra Bắc, ông đã mang hương sắc miền Nam ra Bắc. Mọi thói
quen hàng ngày, Đoàn Giỏi vẫn giữ đúng phong cách Nam bộ, dù sống trên mảnh đất
miền Bắc hay ở đất trời châu Âu.
Ông mất ngày 2 tháng 4 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh ung thư. Ngày
7 tháng 4 năm 2000, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định đặt tên
ông cho một phố thuộc Quận Tân Phú.
Hiện nay ở Châu Thành - Tiền Giang, tên tuổi của nhà văn Đoàn Giỏi đã gắn liền
với trường Trung học cơ sở Tân Lý Tây – huyện Châu Thành – tỉnh Tiền Giang. Còn
về cuộc đời riêng, Đoàn Giỏi đã trải qua hai cuộc hôn nhân. Thế nhưng ông chỉ có một
người con duy nhất với người vợ đầu tiên, đó là Đoàn Quang Viễn. Đoàn Quang Viễn
sinh năm 1958, sinh sống tại Tân Hiệp - Châu Thành - Tiền Giang, bên cạnh nền nhà
mà ông nội Đoàn Văn Vàng đã hiến cho cách mạng. Ông Đoàn Văn Viễn cũng có một
người con trai duy nhất đó chính là Đoàn Quang Minh, sinh năm 1980. Rất tiếc là số
phận của Đoàn Quang Viễn cũng rất ngắn ngủi như cha mình, ông đã ra đi vào một
ngày cuối năm của năm 2005 tại bệnh viện đa khoa thành phố Mỹ Tho – tỉnh Tiền
Giang, do tai biến mạch máu não.
1.1.2. Sự nghiệp văn học
Đoàn Giỏi viết rất nhiều, bao gồm các thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, ký,
kịch thơ, góp phần rất lớn vào kho tàng văn học Việt Nam. Có nhiều tác phẩm của ông
được chuyển thể thành phim như tiểu thuyết Đất rừng phương Nam. Tác phẩm của
7
ông thường đậm chất nghĩa khí và hào hùng. Dù có sinh sống, công tác, hoạt động ở
đâu, ông cũng luôn luôn hướng về vùng đất Nam bộ. Bản chất Đoàn Giỏi lại là người
rất chịu khó tìm tòi và hay nghiên cứu mọi chuyện một cách ngọn ngành cho nên văn
của ông thường rất góc cạnh, gồ ghề nhưng cũng chân tình và hồn nhiên như chính
miền đất hoang sơ và hào phóng của miền Tây Nam bộ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã
nhận xét: “Đoàn Giỏi là một trong những người đầu tiên truyền bá ngôn ngữ Nam bộ
hiện đại qua những tác phẩm của mình”
Sự nghiệp sáng tác của ông trải dài từ trước Cách mạng tháng Tám đến sau đổi
mới, đi qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; vượt từ Nam ra Bắc, rồi
lại từ Bắc vào Nam. Tất cả điều này đều được phản ánh trong từng chặng đường tác
phẩm của ông.
Giai đoạn chống Pháp: 1943: Nhớ cố hương (truyện ngắn), 1946: Khí hùng
đất nước (ký), 1947: Người Nam thà chết không hàng (kịch thơ), 1948: Đường về Gia
Lương (truyện ngắn), 1948: Những dòng chữ máu Nam kỳ 40 (ký), 1949: Chiến sĩ
Tháp Mười (kịch thơ), 1954: Giữ vững niềm tin (thơ), Chuyện thằng Cồi (truyện thơ).
Giai đoạn chống Mỹ: 1955: Trần Văn Ơn (truyện vừa), 1955: Cá bống mú
(truyện vừa), 1955: Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh (ký), 1955: Cây đước Cà Mau
(ký), 1955: Ngọn tầm vông (ký), 1957: Đất rừng phương Nam (tiểu thuyết), 1958: Cái
trống con (truyện ngắn), 1960: Hoa hướng dương (truyện vừa), 1960: Trước giao thừa
(truyện ngắn), 1961: Đường đi qua làng (truyện phim, viết chung với Chi Lăng), 1962:
Cuộc truy tầm kho vũ khí (truyện vừa), 1963: Người thủ thuỷ già trên hòn đảo lưu đày
(truyện vừa), 1966: Như nước trong nguồn (ký), 1971: Chuyến xuồng đêm (truyện
ngắn), 1971: Người đồng hương (truyện ngắn), 1971: Chung một kẻ thù (truyện ngắn),
1973: Người tù chính trị năm tuổi (truyện ngắn), 1973: Tiếng trống (ký).
Sau giải phóng: 1977: Chuyến xe thổ mộ ngày giáp tết (truyện ngắn), 1979:
Những chuyện lạ về cá (biên khảo dành cho thiếu nhi), 1982: Tiếng gọi ngàn (truyện
ngắn), 1982: Qua những chặng đường (chấp bút hồi ký Nguyễn Thị Thập), 1984:
Rừng đêm xào xạc (truyện ngắn), 1986: Họ là ai (ký), 1986: Các con vật trên rừng
dưới biển (biên khảo dành cho thiếu nhi), 1987: Chú bé Hà Nội và con ó lửa trên Đồng
Tháp Mười (truyện ngắn), 1989: Núi cả non ngàn (tiểu thuyết - bản thảo dang dở).
8
Như vậy, chúng ta có thể thấy được sức sáng tác mạnh mẽ, bền bỉ và phải nói
rất đều đặn của Đoàn Giỏi về mọi thể loại. Sự liệt kê trên chưa hẳn là chính xác và đầy
đủ, có nhiều sáng tác của ông bị thất lạc và có thể chưa xác định được rõ thời gian viết.
1.2. Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
1.2.1. Hoàn cảnh sáng tác
Vào năm 1957, khi đất nước ta bị chia cắt hai miền Nam Bắc, Ban biên tập nhà
xuất bản Kim Đồng muốn có một tác phẩm giới thiệu về phong cảnh đất nước, con
người miền Nam tươi đẹp, trù phú, giúp bạn đọc thêm hiểu và yêu miền Nam. Biết nhà
văn Đoàn Giỏi hiểu rõ vùng đất này nên Ban giám đốc nhà xuất bản Kim Đồng cử nhà
văn Trần Thanh Địch đến gặp nhà văn Đoàn Giỏi ở Hà Nội để nhờ ông viết. Và dĩ
nhiên, nói đến quê hương miền Nam, nhà văn Đoàn Giỏi vui vẻ nhận lời ngay và hứa
sẽ hoàn thành tác phẩm sau một tháng.
Dẫu tác phẩm chỉ được viết trong vòng một tháng, thế nhưng vì hình ảnh từng
nắm đất, từng con rạch nhỏ, từng nếp nhà đơn sơ đã đều ăn sâu vào tâm khảm của nhà
văn nên mạch văn cứ tuôn chảy một cách tự nhiên nhất và khi tác phẩm được hoàn
thành thì nó đã trở thành một món ăn tinh thần vô giá đối với tất cả mọi người ở mọi
lứa tuổi.
Bối cảnh của tiểu thuyết là các tỉnh miền Tây Nam bộ, Việt Nam vào những
năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam bộ. Câu chuyện mang
đầy đủ những nét đặc trưng của vùng Tây Nam bộ, với bối cảnh là cả một vùng đất
được thiên nhiên ưu đãi, cánh đồng bát ngát mênh mông, sóng nước rì rầm, rừng rậm
bạt ngàn trù phú, thú rừng hoang dã muôn loài. Đất rừng phương Nam đã mang đến
cho người đọc nhiều thú vị về bối cảnh, con người, tập tục văn hóa của vùng nông
thôn Nam bộ.
Nội dung câu chuyện cũng vậy, Đoàn Giỏi chỉ xoay quanh ở vùng đất Nam bộ.
Ông mượn hình ảnh một cậu bé bị lưu lạc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở
Nam bộ để giới thiệu Đất rừng phương Nam. Nơi đó là một vùng đất vô cùng giàu có,
hào phóng và hùng vĩ với những con người trung hậu, trí dũng, một lòng một dạ theo
kháng chiến. Tác phẩm gần như tập hợp tất cả đất rừng và người phương Nam. Có thể
nói, Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi như một xã hội của miền sông nước Tây
Nam bộ thu nhỏ. Bởi ở nơi đó, người đọc đã tìm thấy hình ảnh người dân của vùng đất
phương Nam từ sông Tiền, sông Hậu trải dài đến Kiên Giang - Rạch Giá, rồi xuống
9
tận rừng U Minh, sau đó dừng lại ở Năm Căn, Cà Mau. Sự tài tình của Đoàn Giỏi là
như tái tạo lại bối cảnh sông nước, con người của thuở ông cha ta còn mang gươm mở
cõi.
Bằng chất thơ đậm chất Nam bộ mà Đoàn Giỏi đã gửi trọn vào tác phẩm của
mình từng hơi thở của thiên nhiên, của con người nơi đây. Tất cả được bắt nguồn từ
tình yêu đối với mảnh đất và con người Nam bộ và được thể hiện trong từng chi tiết
miêu tả, trong ngôn ngữ và tính cách nhân vật, tạo nên một sự khởi sắc đầy ấn tượng
mới mẻ, hấp dẫn, một thứ bổ sung cho cách nhìn về con người và thiên nhiên vùng đất
phương Nam.
1.2.2. Cốt truyện
Dựa vào bối cảnh thời gian là những năm đầu kháng chiến chống Pháp và cốt
truyện là chú bé An bị lạc gia đình trong quá trình đi tản cư, Đoàn Giỏi đem đến cho
người đọc bao nhiêu là cảm nhận phong phú, bất ngờ, sâu lắng đầy thi vị về cảnh và
người, về vùng đất cực nam của Tổ quốc thân yêu. Đến với vùng đất ấy ta như được về
với quê hương, một quê hương đôi lần bỡ ngỡ khi nhìn thấy nó lần đầu tiên, nhưng
ngay sau đó là sự say mê khi được đắm mình vào thế giới lạ kỳ, hấp dẫn. Người, cảnh
của một vùng quê như ẩn giấu bao trầm tích đáng yêu, đáng quý cứ mở ra trước mắt
chúng ta trong chuyến đi dài ngày của nhân vật.
Câu chuyện kể về cuộc đời lưu lạc của chú bé An vì biến cố đã xảy đến với gia
đình, đó là vào khoảng thời gian sau năm 1945, khi thực dân Pháp quay trở lại xâm
lược nước ta. Cậu bé vốn là con trai của một gia đình trí thức sống ở nơi thị thành, thế
nhưng khi giặc đến gia đình cậu phải tản cư lánh nạn qua những miền đất phương Nam
trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Do tính mải chơi của trẻ con mà
chú đã bị lạc cha mẹ và trôi dạt trên mảnh đất xa lạ, vùng đất trù phú, đa dạng, kì vĩ
với những kênh rạch, tôm cá, chim chóc, muông thú, lúa gạo... và cây cối, rừng già.
Trong thế giới đó có những con người vô cùng nhân hậu như cha mẹ nuôi của An, như
cậu bé Cò, chú Võ Tòng, dì Tư Béo... cùng những người anh em chiến sĩ giàu lòng yêu
quê hương, đất nước. Dù không được sống cùng cha mẹ ruột thế nhưng cậu bé được
yêu thương, đùm bọc trong gia đình cha mẹ nuôi, cùng với những người dân nơi đây
với tất cả tình người ấm áp, được đối xử như máu mủ trong gia đình. Từ đây cậu bé
sống một cuộc sống tự do, phóng khoáng, được khám phá vô vàn những điều thú vị,
mới lạ và cũng phải chứng kiến cảnh giặc đến tàn phá quê hương. Với bản chất là một
10
cậu bé thông minh, ngoan ngoãn, càng ngày cậu càng bộc lộ mình là một người dũng
cảm, kiên trung và minh chứng chính là việc cậu lên đường ra chiến trận, nắm chắc tay
súng bảo vệ quê hương.
Theo chân cậu bé An, người đọc như được đến đất rừng và được gặp những con
người nơi đây, được khám phá những điều mới lạ của một vùng đất còn nhiều nét
hoang sơ. Cuộc sống tự do và cuộc đời phóng khoáng cởi mở đã để lại ấn tượng sâu
sắc trong tâm khảm người đọc nhiều thế hệ suốt những năm tháng qua.
Tiểu kết
Đoàn Giỏi là nhà văn đã biến miền đất phương Nam trở thành thân thuộc, đáng
yêu đối với độc giả, không chỉ là độc giả nhỏ tuổi trên khắp mọi miền đất nước.
Những trang văn của ông thấm đượm hơi thở của sông nước, rừng cây, những câu
chuyện cả thực, cả kỳ bí của thiên nhiên Nam bộ hoang sơ và truyền được hơi thở ấy
cho độc giả. Có được điều đó không những là nhờ tình yêu của ông đối với miền đất
Nam bộ quê hương mà còn ở óc quan sát tỉ mỉ, tinh tế, lối văn kể chuyện hấp dẫn trong
tác phẩm của mình.
Cũng chính vì thế, trong tập tiểu luận - phê bình “Tiếng vọng những mùa
qua” của Nguyễn Thị Thanh Xuân (NXB Trẻ, 2004) nhận định về tác giả Đất rừng
phương Nam: “Có mảnh đất sinh ra những nhà văn, và ngược lại, có nhà văn từ trang
viết đã biến miền quê riêng của mình thành miền quê chung thân thuộc trong tâm
tưởng bao người... Với Đoàn Giỏi, tôi nghĩ rằng ông đã đón nhận được cái hạnh phúc
đó... Ông đã đem đến cho bạn đọc cả nước những hiểu biết và tình cảm về một vùng
đất mà trước đó xa ngái, hoang sơ trong hình dung của mọi người... Ông đã xây dựng
những nhân vật lòng đầy nghĩa khí mà tinh tế và giàu chất văn hóa... "(Đoàn Giỏi, Đất
và rừng phương Nam).
Thành công của tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc là một tiểu thuyết được mọi
người yêu mến mà tác phẩm còn được chuyển thể thành công thành bộ phim Đất
phương Nam do hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (TFS) sản xuất năm
1997. Từ khi ra đời, bộ phim vẫn liên tục được trình chiếu trên nhiều kênh truyền hình
địa phương, nhận được sự yêu mến của đông đảo quần chúng, không chỉ là nhân dân
trong nước mà còn cả những kiều bào nước ngoài. Bộ phim cũng là phim dài tập đầu
tiên của Việt Nam được xuất khẩu sang Mỹ và được đón nhận đông đảo.
11
CHƯƠNG 2
THIÊN NHIÊN NAM BỘ TRONG ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM
2.1. Nền tảng địa Nam bộ
Nam bộ là vùng đất cuối cùng của Tổ quốc, bao gồm 2 vùng đất có nét riêng rõ
rệt. Đông Nam bộ là vùng đồi núi thấp với những thềm phù sa cổ. Nơi đây được nhìn
nhận như diềm phía Nam của đại khối cao Tây Nguyên, từ đó các dòng Đa Nhim, Đa
Dung hợp lưu lại thành sông lớn Đồng Nai, tiếp nước của La Ngà rồi vượt qua Trị An
tới gặp Sông Bé, sông Sài Gòn để đổ ra của Lòng Tàu. Còn Tây Nam bộ, tức Đồng
bằng sông Cửu Long là vùng đất tiếp nối địa hình bán sơn địa ấy với một đồng bằng
châu thổ phẳng và thấp. Đây là sản phẩm bồi tụ của sông Mê Kong, con sông dài nhất
và nhiều nước, nhiều phù sa nhất Đông Nam Á trên một khuôn vịnh nông kéo dài từ
bồi địa Tông – lê – sap của Campuchia tới khu vực đồng bằng sông Tiền và sông Hậu.
Những cứ liệu về mặt địa lý trên giúp chúng ta xác định vấn đề cụ thể về địa – văn hóa
Nam bộ ở đây chính là nói về khu vực Tây Nam Bộ.
Khi nghiên cứu về nền tảng địa – văn hóa Nam bộ, việc đặt trong mối tương
quan với các đặc điểm về sinh thái và xã hội của vùng văn hóa này là điều kiện cần
thiết. Lịch sử Nam tiến nói riêng và lịch sử Nam bộ nói chung là lịch sử của vùng đất
mới với độ dài thời gian hơn ba thế kỉ hình thành và phát triển. Đặc tính “mới” là nét
bao trùm lên cả hai phương diện địa lý và lịch sử của đồng bằng sông Cửu Long. So
với cả nước, đây là khu vực có lịch sử khai phá muộn nhất. Vì vậy văn hóa vùng miền
này cũng chính là văn hóa của vùng đất mới với những nét tiếp thu và bảo tồn truyền
thống dân tộc và những nét đặc sắc riêng biệt phù hợp với những điều kiện tự nhiên và
xã hội trên địa bàn. Quá trình Nam tiến được phản ánh rất rõ trong văn học từ những
sáng tác dân gian cho tới văn chương bác học. Trong kho tàng văn học dân gian đồng
bằng sông Cửu Long, ca dao, thành ngữ, truyền thuyết, giai thoại về đất và người trong
quá trình khai mở đất chiếm số lượng khá lớn và được xem là đặc sắc hấp dẫn nhất. Đa
số truyện kể, truyền thuyết dân gian Nam bộ đều thể hiện những đặc tính mới của
vùng miền trên nhiều biểu hiện khác nhau của văn hóa. Ngay cả truyện cười Bác Ba
Phi cũng tiếp nối truyền thống ấy bằng cách tái hiện lại thiên nhiên hoang dã nơi cực
nam tổ quốc với một trí tưởng tượng phong phú. Văn chương bác học cũng có không ít
những tác phẩm tập trung khai thác mảng đề tài này một cách thành công. Qua đây
12
càng chứng tỏ được đặc trưng của các sáng tác văn học trong việc tái hiện cuộc sống
và vai trò của nó trong việc lưu trữ và truyền tải những giá trị văn hóa dân tộc. Xem
xét nguồn gốc của những người đầu tiên đặt chân đến Nam bộ đã chứng tỏ cho chúng
ta thấy nền văn hóa của khu vực này một mặt phát sinh từ những điều kiện địa lý nhân
văn mới, mặt khác lại liên quan tới yếu tố gốc gác, cội nguồn xuất thân. Có thể tìm
thấy vô số biến thể ca dao, dân ca từ miền Bắc được cải sửa trong kho tàng văn học
dân gian đồng bằng sông Cửu Long.
Ngày nay, khu vực này bao gồm mười hai tỉnh và một thành phố. Đồng bằng
sông Cửu Long có đặc điểm địa hình là một châu thổ thấp, bằng phẳng, là sản phẩm
bồi tụ của sông Mê Kong và là nơi có cửa sông giáp biển nên việc bồi tụ này vẫn diễn
ra hàng năm. Đây là nơi sở hữu một hệ thống kênh rạch chằng chịt với hơn “2500km
sông rạch tự nhiên và 2500 km sông rạch đào” vì thế đặc điểm nổi bật của văn hóa
đồng bằng sông Cửu Long là văn hóa sông nước, kênh rạch. Điều này được thể hiện
qua nền nông nghiệp lúa nước, tập quán đánh bắt thủy sản, việc giao thông đi lại đến
các lễ hội về nước và đặc biệt là ngôn ngữ giao tiếp có liên quan đến sông nước.
Là một vùng văn hóa có tuổi đời trẻ nhất cả nước, văn hóa đồng bằng sông Cửu
Long dù đã được hình thành trong một thời gian dài nhưng vẫn đang ngày được định
hình rõ nét hơn. Nó góp phần tô thắm bức tranh văn hóa đa sắc của đất nước ta nhưng
vẫn giữ được những nét đặc sắc riêng cho mình.
2.2. Thiên nhiên Nam bộ trong Đất rừng phương Nam
Thiên nhiên, cảnh vật vốn là một trong những đối tượng thẩm mỹ quan trọng
của nhiều ngành nghệ thuật, đặc biệt là đối với văn học, thiên nhiên vừa đóng vai trò là
đối tượng miêu tả vừa đóng vai trò là phông nền qua đó nhà văn làm nổi bật lên những
ý tưởng, gửi gắm những tâm sự cần giãi bày. Thiên nhiên cảnh vật được đề cập trong
Đất rừng phương Nam chính là thiên nhiên cảnh vật của quê hương Nam bộ, toàn bộ
không gian trong tác phẩm là không gian của vùng đất miền Tây sông nước. Nhà văn
đã chú ý khắc họa những nét đặc trưng của miền đất này ở nhiều góc độ khác nhau
giúp người đọc như được tận mắt chứng kiến những nét đặc sắc của vùng đồng bằng
sông Cửu Long.
Để có được một miền đất phương Nam trù phú với những cánh đồng thẳng cánh
cò bay, những cánh chim tung trời, tiếng vó ngựa reo vui trên đường làng, tiếng mái
chèo trên sông nước… chúng ta không thể quên được công lao to lớn của ông cha ta
13
hơn 300 năm về trước xuôi thuyền vô phương Nam đi mở đất – qua bao cuộc bể dâu,
qua bao cuộc đổi thay, qua bao gian khổ hy sinh. Nam bộ vốn là một vùng đất mới
được hình thành từ chủ trương của chúa Nguyễn đi về phương Nam mở mang bờ cõi
để khi đi vào tác phẩm thì mảnh đất nơi đây tuy không còn hoàn toàn mang những nét
hoang sơ, nguyên thủy thế nhưng nó vẫn mang trong mình nhiều điều mới lạ, thú vị
mang đầy đủ những nét đặc trưng nhất của miền Tây sông nước.
2.2.1. Hệ thống thực vật
Cái xứ sở "muỗi kêu như sáo thổi" ấy, qua sự thể hiện của Đoàn Giỏi đã tạo
những ấn tượng đầu tiên về một vùng thiên nhiên hoang sơ và trù phú.
Trước hết ta phải kể đến là hình ảnh những dòng sông, con kênh, con rạch to
nhỏ có mặt ở khắp mọi nơi bởi nhắc đến khu vực miền Tây Nam bộ là nhắc đến một
vùng đất có hệ thống sông ngòi chằng chịt và đây cũng là môi trường sống chính của
người dân Nam bộ.
Họ cất nhà dọc mé sông, lao động kiếm sống và đi lại đều gắn với sông nước.
Cũng chính vì thế mà phương tiện đi lại chủ yếu của người dân nơi đây là bằng ghe
xuồng dọc theo các dòng nước ấy. Cậu bé An cũng trôi dạt trên những con thuyền qua
nhiều vùng đất, nơi mà "các con kênh thẳng tắp chạy dài vô tận". Lúc đầu cậu bé được
đoàn thuyền vận tải trung lương của Ủy ban kháng chiến Nam bộ cho đi nhờ thuyền từ
Hậu Giang xuống, cậu được dì Tư Béo cưu mang và trở thành bồi bàn cho quán nhậu
của dì ngay sát bên một con kênh nhỏ, cuộc đời của cậu bé An chỉ thực sự nổi trôi trên
những con nước vô định khi mà cậu phải cùng với gia đình cha mẹ nuôi đi tản cư nơi
này đến nơi khác trên chiếc thuyền con rách nát.
Một vùng sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt hiện ra trước mắt độc
giả qua những trang văn thấm đượm tình người. Và ở đây chúng ta đã được chứng
kiến một cảnh quần tụ đến kì lạ, khi thiên nhiên ưu đãi cho vùng đất này một hệ sinh
vật đa dạng và phong phú.
Đây là một hệ thống "mạng nhện" bủa giăng chi chít những dòng chảy chằng
chịt, liên thông không có điểm khởi đầu và không biết đâu là điểm kết thúc. Sức hút
của vùng sông nước này thật có sức hấp dẫn dây chuyền. Ấy là cái không gian xanh
bao bọc cả trên, cả dưới và cả xung quanh nữa, tất cả làm thành một bản hòa âm về sắc
xanh: "trên thì trời xanh, dưới thì nước xanh, chung quanh mình chỉ một sắc xanh cây
lá"[5:273].
14
Thiên nhiên còn hoang sơ thể hiện cả ở việc đặt tên cho các địa danh. Tên sông,
tên đất nào cũng gắn liền với các "sự tích" thế nhưng đó không phải là tên một ông
hoàng hay bà chúa nào trong sách sử hay truyền miệng dân gian mà chỉ đơn giản là tùy
theo đặc điểm sinh thái ở đó, có nghĩa là động thực vật ven bờ mà đặt tên cho nó.
"Chẳng hạn như gọi rạch Mái Giầm, vì hai bên bờ rạch mọc toàn những cây mái giầm
cọng tròn xốp nhẹ, trên chỉ xòa ra độc một cái lá xanh hình chiếc bơi chèo nhỏ; gọi
kênh Bọ Mắt vì ở đó tụ tập không biết cơ man nào là bọ mắt đen như hạt vừng, chúng
cứ bay theo thuyền từng bầy như những đám mây nhỏ, ta bị nó đốt vào da thịt chỗ nào
là chỗ đó ngứa ngáy nổi mẩn đỏ tấy lên; gọi kênh Ba Khía vì ở đó hai bên bờ tập
trung toàn những con ba khía, chúng bám đặc sệt quanh các gốc cây. (Ba khía là một
loại còng biển lai cua, càng sắc tím đỏ, làm mắm xé ra trộn tỏi ớt ăn rất ngon). Còn
như xã Năm Căn thì nghe nói ngày xưa trên bờ sông chỉ độc có một cái lán năm gian
của những người tới đốn củi hầm than dựng nên, cũng như Cà Mau là nói trại đi theo
chữ Tức khơ mâu tiếng Miên nghĩa là "nước đen"[5:273]. Cũng có thể đây là vùng mà
cha ông ta đi mới đi mở cõi về sau này, mới được khai phá nên nơi đây chưa có được
độ dày của nền văn hiến, về phương diện này nó còn rất đỗi thô sơ.
Ở đây có những loại cây cỏ đặc trưng của vùng đồng bằng sông Cửu Long,
quang cảnh bạt ngàn một màu xanh, đó là "Những làng mạc êm đềm, bóng dừa, bóng
chuối che rợp các khu vườn mát rượi đất phù sa, con đường đất nhỏ lượn trên bờ rạch
nước đầy ăm ắp soi bóng những cây sầu riêng, măng cụt..."[5:108]
Tất cả những nét đặc trưng của từng loại cây cỏ nơi đây đều được Đoàn Giỏi
miêu tả một cách rất sinh động qua vốn kiến thức thực tế phong phú và đa dạng: "Cây
đọt chiếc tròn tròn như ngôi mộ. Cây tràm quấn dây tơ hồng như người đàn bà bồng
con đứng xõa tóc, tay vẫy vẫy. Cây dừa nước, lá nhọn hoắt như hai hàng gươm giắt
dài theo sống lá tu tủa, chĩa mũi nhọn lên đe dọa trời."[5:154]. Hay những cây tràm
mọc san sát nhau: "hai bên bờ mọc chen chúc những cây tràm vỏ trắng, cành lá rậm
rạp.". Rồi cây chà là mọc sát nhau dọc bờ sông đến nỗi: "những ngọn san sát giao
nhau, mặt trời phải khổ sở lắm mới chiếu xuyên qua được những tàu gai dày đặc để
lọt xuống mặt đất sình lầy đen kịt."[5:254].
Và một loài cây rất đặc trưng cho hệ sinh vật khu vực đất ngập mặn đó là cây
đước :"Cây đước mọc dài theo bãi, theo từng lứa trái rụng, ngọn bằng tăm tắp, lớp
này chồng lên lớp kia ôm lấy dòng sông, đắp từng bậc màu xanh lá mạ, màu xanh rêu,
15
màu xanh chai lọ... lòa nhòa ẩn hiện trong sương mù và khói sóng ban mai"[5:274].
Cảnh tượng vừa nên thơ vừa hùng vĩ ấy được Đoàn Giỏi ghi lại qua cảm nhận của
nhân vật An trong chương Rừng đước Cà Mau. Về mặt sinh vật học, đước là loại cây
có rễ sâu và khỏe. Vì vậy dù sống trên vùng đất nhão, quanh năm ngập nước (rừng
ngập mặn) nhưng nó vẫn luôn đứng vững và vươn lên xanh tốt như một hình ảnh mang
tính biểu tượng đậm nét nhất. Nó là biểu tượng cho những người con sinh ra từ mảnh
đất này, họ kiên cường dầu gặp phải bất cứ khó khăn nào, họ tìm cách thích nghi với
môi trường xung quanh thật khéo léo cũng giống như việc các rễ cây đước xòe ra, ăn
sâu vào lòng đất bùn lầy, trơn trượt.
Huyền thoại đó cũng được Tố Hữu dệt nên qua những câu thơ chứa chan tình
cảm trong bài thơ Bà má Hậu Giang (1941):
“Tao già không sức cầm dao,
Giết bay có các con tao trăm vùng.
Con tao gan dạ, anh hùng,
Như rừng đước mạnh, như rừng tràm thơm”
Khi đọc Đất rừng phương Nam, cái gợi lại cho người đọc không chỉ là một câu
chuyện đậm chất tình người mà còn là một ấn tượng sâu sắc về cảnh sắc rừng tràm U
Minh: "chim hít líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương
ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng" [5:164]. Ấn tượng về thiên nhiên Nam bộ trong
mùa bông tràm nở trắng sông nước đã lưu lại trong trí nhớ người đọc như một thứ xúc
cảm thẩm mỹ đẹp đẽ.
Đi xuôi xuống vùng Năm Căn ta mới thực sự bắt gặp cảnh sống động của vùng
sông nước Cà Mau, nó vẫn là một vùng sông nước nhưng ở đây người đọc được chứng
kiến cảnh nhộn nhịp, huyên náo của một vùng chợ tấp nập kẻ bán người mua: "Chợ
Năm Căn nằm sát bên bờ sông, ồn ào, đông vui tấp nập. Vẫn là cái quang cảnh quen
thuộc của một xóm chợ vùng rừng cận biển thuộc tỉnh Bạc Liêu, với những túp lều lá
thô sơ kiểu cổ xưa nằm bên cạnh những ngôi nhà gạch văn minh hai tầng, những đống
gỗ cao như núi chất dựa bờ, những cột đáy, thuyền chài, thuyền lưới, thuyền buôn dập
dềnh trên sóng..."[5: 274].
Qua cách miêu tả từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể, tả xen kẽ cùng với việc
sử dụng các từ ngữ gợi tả tinh tế của Đoàn Giỏi ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp trù
phú nhưng vẫn còn nhiều nét hoang sơ của vùng sông nước miền Tây Nam bộ. Đó là
- Xem thêm -