Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên độc lập...

Tài liệu đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên độc lập

.DOC
34
614
106

Mô tả:

Kiểm toán độc lập là hoạt động không thể thiếu trong quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường. Một nền kinh tế phát triển lành mạnh với các kênh cung cấp vốn từ thị trường chứng khoán và ngân hàng đồi hỏi phải được cung cấp các dịch vụ kiểm toán có chất lượng cao. Trong những năm gần đây, việc khá nhiều công ty bị phá sản, trong đó có những trường hợp là do lỗi của công ty kiểm toán không còn là những vấn đề xa lạ. Các trường hợp điển hình như Enron, WorldCom, Global Crossing, Adelphia Communications….cùng với rất nhiều công ty có quy mô nhỏ hơn. Sự thất bại của các công ty kiểm toán trong các hợp đồng kiểm toán này đã làm suy giảm đáng kể niềm tin của công chúng vào nghề nghiệp kiểm toán. Sự thất bại ở các cuộc kiểm toán nêu trên là do nhiều nguyên nhân, trong đó một nguyên nhân hết sức quan trọng là không giải quyết được các xung đột lợi ích trong quá trình hành nghề, một lĩnh vực thuộc lĩnh vực đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề kiểm toán. Vấn đề đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên trở nên nóng hơn bao giờ hết. Là sinh viên năm cuối chuyên ngành kiểm toán, chuẩn bị lựa chọn hướng đi trong tương lai cho mình. Em nghĩ việc nghiên cứu tìm hiểu chuyên sâu vấn đề đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên độc lập là rất cần thiết, nhằm rút ra những kinh nghiệm quý báu cho bản thân, phục vụ cho công việc trong tương lai. Chính vì vậy em lựa chọn đề tài “Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên độc lập” cho môn học đề án của mình. Đề án gồm 3 chương: Chương I : Tổng quan về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. Chương II: Các quy định đạo đức nghề nghiệp tại Việt Nam Chương III: Nhận xét và những đề xuất hoàn thiện và nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho kiểm toán viên độc lập ở Việt Nam Em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Mạnh Dũng đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành đề án này. Chương I : Tổng quan về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên 1 1.1 Khái niệm về đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên. 1.1.1 Đạo đức Theo từ điển tiếng Việt, đạo là lẽ phải, là đường lối, là nguyên tắc mà con người có bổn phận giữ gìn, còn đức là điều tốt lành. Đạo đức thuôc hình thái ý thức xã hội,là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau,,với xã hội,với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai. Chúng được thưc hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hôi. Một số nguyên tắn đạo đức căn bản thường được thiết lập như: sự trung thực, tính có trách nhiệm, lương thiện, thẳng thắn, công bằng, ngay thẳng, tuân thủ nghĩa vụ công dân. 1.1.2 Đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên Đạo đức nghề nghiệp được định nghĩa là những quy tắc để hướng dẫn cho các thành viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi chung của nghề nghiệp và xã hội. Đạo đức nghề nghiệp yêu cầu mỗi kiểm toán viên phải là người có đạo đức, và mỗi tổ chức kiểm toán phải là cộng đồng của những người có đạo đức. Vì thế, điều lệ đạo đức nghề nghiệp phải được xác định rõ ràng, công bố, và trở thành yêu cầu bắt buộc trong nghề kiểm toán, để một mặt sẽ giúp quản lý và giám sát chặt chẽ mọi kiểm toán viên, mặt khác sẽ giúp cho công chúng hiểu biết về chúng, để qua đó họ có quyền đòi hỏi và đánh giá về các hành vi đạo đức của kiêm toán viên. Bên cạnh luật pháp và cùng với luật pháp, chính việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp cho các thành viên luôn duy trì được một thái độ nghề nghiệp đúng đắn, giúp bảo vệ và nâng cao uy tín cho nghề kiểm toán trong xã hội, bởi vì nó tạo nên sự đảm bảo về chất lượng cao của dịch vụ cung ứng cho khách hàng và xã hội. 1.2 Lịch sử ra đời và phát triển các quy định về đạo đức nghề nghiệp. 1.2.1 Giai đoạn hình thành Nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp kiểm toán trước hết xuất hiện ở Anh vào thế kỷ 19. Ở thời kỳ này, do sự bành trướng thuộc địa của Anh, các nhà đầu tư Anh quốc đã mở rộng đầu tư sang các quốc gia thuộc địa. Chính vì thế các chủ đầu tư cần có người để giám sát các khoản đầu tư khi họ vắng mặt, và đó là nghĩa vụ chính của kiểm toán viên. Tuy vậy, khái niệm về đạo đức trong suốt thế kỷ này chưa được nhận thức là một đức tính quan trọng của người hành nghề kiểm toán. 2 Để có thể tin cậy vào kiểm toán viên, các nhà đầu tư Anh quốc cấm kiểm toán viên đầu tư hay làm việc cho công ty được kiểm toán. Thuật ngữ đạo đức chỉ giới hạn ở sự trung thành của kiểm toán viên với các nhà đầu tư ở chính quốc, do vậy trong thời kỳ này kiểm toán viên có thể thực hiện dịch vụ kế toán soạn thảo báo cáo tài chính cho công ty được kiểm toán. Có thể nói trong giai đoạn này chưa có chuẩn mực về đạo đức nghề nghiệp, mà chỉ có một số yêu cầu đạo đức đối với người hành nghề. Các yêu cầu này là khởi điểm cho chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp sau này. 1.2.2 Giai đoạn phát triển Quan niệm về đạo đức của kiểm toán viên đã không ngừng thay đổi vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Trong thời gian này, có sự chuyển dịch vốn từ quốc gia này sang quốc gia khác và hợp nhất các công ty lớn ở Anh trong ngành khai thác mỏ, đường sắt, điện thoại, nhiên liệu…đã dẫn đến sự thay đổi trong quan điểm về mục đích, bản chất và nguồn vốn đầu tư vào các công ty. Từ đó, nhiệm vụ của kiểm toán viên chuyển sang phục vụ cho cổ đông trong cộng đồng hơn là lợi ích của các chủ sở hữu vắng mặt. Nhóm cổ đông trong cộng đồng chủ yếu là các nhà đầu tư địa phương và nhóm này ngày càng gia tăng. Trong những năm 1930, các nhà kinh tế học Mỹ Adolf Bearle và Gardiner Means cho rằng vai trò quan trọng nhất của kiểm toán là đánh giá sự hợp lý về lợi nhuận trên báo cáo tài chính của công ty,cụ thể là Bảng cân đối kế toán cần xác định trung thực phần lợi nhuận có thể phân phối cho các chủ sở hữu. Đến năm 1933, tại Hoa Kỳ, với sự ra đời của Luật chứng khoán liên bang và việc thành lập Ủy ban chứng khoán (Securities and Exchange CommissionSEC) đã dẫn đến quan điểm mới về tính độc lập của kiểm toán viên. Đặc biệt vào năm 1934 là sự ra đời của Luật giao dịch chứng khoán, chương 13 của luật này đã đưa ra yêu cầu về tính độc lập của kiểm toán viên khi kiểm toán báo cáo tài chính. Ảnh hưởng lớn nhất của SEC đối với tính độc lập của kiểm toán viên là việc thiết lập các chuẩn mực kế toán và kiểm toán. Theo nội dung của chuẩn mực kiểm toán, mà hình thức ban đầu là các hướng dẫn thực hành kiểm toán, trách nhiệm đầu tiên của kiểm toán viên không phải là trugn thành với các nhà đầu tư vắng mặt. Họ chỉ chịu trách nhiệm áp dụng đúng đắn các chuẩn mực kiểm toán đã được thiết lập. Từ đây quan niệm về sự trung thành với chỉ một nhóm người 3 đã chuyển sang quan điểm ưu tiên tính khách quan và trung lập. Chính vì thế, vào thời gian này các công ty kiểm toán bắt đầu điều chỉnh mục tiêu chính là tập trung vào tính khách quan và trung thực để bảo vệ cho người sử dụng báo cáo tài chính. Đến năm 1988 Hoa Kỳ ban hành bộ đạo đưc nghề nghiệp và đến năm 1996 Liên đoàn Kế toán Quốc tế ( International Federation of Accountants- IFAC ) cũng ban hành bộ đạo đức nghề nghiệp. Có thể nói trong giai đoạn này, nghề nghiệp kiểm toán đã xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp khá hoàn chỉnh. Nội dung bộ đạo đức nghề nghiệp của Hoa Kỳ và IFAC trong giai đoạn này tập trung vào các nguyên tắc độc lập, chính trực và khách quan, năng lực chuyên môn và tính thận trọng, tư cách nghề nghiệp và tuân thủ chuẩn mực chuyên môn. Trong giai đoạn trên, sự phát triển nhanh chóng của quá trình kinh doanh trên trường quốc tế đã cung cấp cơ hội rộng lớn cho các công ty kiểm toán, nhờ đó doanh thu từ các dịch vụ khác đã phát triển nhanh hơn doanh thu từ dịch vụ kiểm toán truyền thống. Và từ những năm 1970, dịch vụ do các công ty kiểm toán cung cấp đã ngày càng đa dạng hơn và doanh thu từ dịch vụ phi kiểm toán đã chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng doanh thu của họ, và để duy trì doanh số và gia tăng lợi nhuận, các công ty kiểm toán đã ngày càng chú ý đến các dịch vụ phi kiểm toán. Thế nhưng, khi đề cập đến tính độc lập, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cho phép các công ty kiểm toán được đồng thời cung cấp các dịch vụ phi kiểm toán bên cạnh dịch vụ kiểm toán. Tuy chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp có nhấn mạnh tính độc lập của kiểm toán viên, nhưng do sự cạnh tranh ngày càng gia tăng đối với các dịch vụ kiểm toán, cùng với tính phức tạp của việc cung cấp nhiều dịch vụ đã làm giảm đi tính khách quan và trung thực. Bên cạnh đó, sự sút giảm doanh thu từ hoạt động kiểm toán và việc gia tăng doanh thu từ hoạt động phi kiểm toán đã ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán viên. Nhìn chung, trong giai đoạn 1988 đến 2001, các quy định về đạo đức nghề nghiệp của nhiều quốc gia trên thế giới đều cho rằng công ty kiểm toán và kiểm toán viên có thể cung cấp dịch vụ kế toán và các dịch vụ phi kiểm toán khác, nếu: 4 - Không có mâu thuẫn quyền lợi để có thể gây ảnh hưởng đến tính trực quan và khách quan. Khách hàng chấp nhận trách nhiệm của họ đối với báo cáo tài chính. Kiểm toán viên không được kiêm nhiệm việc quản lý, trong đó bao gồm cả việc không được soạn thảo báo cáo tài chính. Khi thực hiện kiểm toán, cần tiến hành đầy đủ các thủ tục cần thiết, không được bỏ sót hay cắt giảm các thủ tục kiểm toán. Trước tình hình đó, trong thập niên 1990, đã bắt buộc xuất hiện nhiều cảnh báo liên quan đến tính độc lập các đề nghị liên quan đến tính độc lập của kiểm toán viên. Các cảnh báo này nhằm tập trung vào việc cung cấp đồng thời nhiều dịch vụ và kiểm toán lâu năm cho cùng một khách hàng. Thế nhưng các cảnh báo trên đã gặp phải sự chống đối mạnh mẽ từ năm công ty kiểm toán hàng đầu( Big five). Big five cho rằng do những chi phí kiểm toán cho những năm đầu tiên bao giờ cũng cao và nếu phải xoay vòng thì sẽ không thể bù đắp được những chi phí này,chính việc cung cấp nhiều dịch vụ sẽ tốt hơn cho khách hàng và không gây phương hại đến tính độc lập. Vào thời kỳ này, ngay cả SEC cũng không ủng hộ ý kiến xoay vòng và vẫn cho phép cung cấp nhiều dịch vụ, vì họ cho rằng việc cung cấp đồng thời các dịch vụ phi kiểm toán hoặc kiểm toán lâu năm cho cùng một khách hàng hầu như không có ảnh hưởng đến tính độc lập của kiểm toán. 1.2.3 Giai đoạn hiện tại Đến đầu những năm 2000, sau hàng loạt vụ bê bối tài chính, đã hình thành nên quan điểm cho rằng chính việc kiểm toán viên kiêm nhà tư vấn cho khách hàng là một trong nhữn nguyên nhân đưa đến các vụ trên, đặc biệt là đã đưa đến sự tan rã của công ty kiểm toán Arthur Andersen. Chính vì vậy, sau năm 2001 Ủy ban chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp quốc tế cũng như nhiều Hiệp hội nghề nghiệp của các quốc gia trên thế giới đã sửa đổi một số quy định về đạo đức nghề nghiệp. Các thay đổi trong chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp tập trung vào việc nâng cao mức độ độc lập giữa kiểm toán viên và nhà quản lý của khách hàng, thông qua việc cung cấp đồng thời dịch vụ kiểm toán và phi kiểm toán, cũng như nhấn mạnh việc xoay vòng kiểm toán 1.3 Vai trò của chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp 5 Lịch sử phát triển của đạo đức nghề nghiệp của các quốc gia cho thấy đạo đức nghề nghiệp là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chuẩn mực kiểm toán. Nếu chuẩn mực kiểm toán là những quy định và hướng dẫn về các nguyên tắc và thủ tục kiểm toán làm cơ sở để kiểm toán viên thực hiện công việc và là cơ sở để kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, thì chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho các thành viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích của nghề nghiệp và xã hội. Nói cách khác, chính các quy định về đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán. Tương tự như chuẩn mực kiểm toán, nội dung của các quy định về đạo đức nghề nghiệp cũng thay đổi theo sự phát triển của nền kinh tế. Nếu các quy định đạo đức nghề nghiệp không phát triển tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế, khi ấy nó sẽ trở thành rào cản và dẫn đến chất lượng hoạt động kiểm toán sụt giảm. Từ đó sẽ dẫn đến sự sụt giảm lòng tin về thông tin của báo cáo tài chính và ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền kinh tế. Chính vì vậy có thể nói đạo đức nghề nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện của nghề nghiệp và sự phát triển của nền kinh tế. 1.4 Các quy định về đạo đức nghề nghiệp của liên đoàn Kế toán Quốc tế. Sau khi thành lập vào năm 1977, Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC ) đã bắt đầu soạn thảo các nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán, trong đó có đề cập đến các nguyên tắc cơ bản về đạo đức nghề nghiệp. Các nguyên tắc này được ban hành lần đầu tiên vào tháng 6/1980 dưới dạng hướng dẫn về các nguyên tắc cơ bản của người hành nghề (Guideline on Profession Ethic for Accountancy Profession). Trong đó, IFAC chỉ đưa ra các nguyên tắc cơ bản để chỉ đạo cho kiểm toán viên trong quá trình hành nghề và trong quan hệ với đồng nghiệp như chính trực, khách quan, độc lập, bí mật và kỹ năng nghiệp vụ. Sau đó, IFAC ban hành các chuẩn mực kiểm toán vào năm 1994 và bắt đầu soạn thảo bộ đạo đức nghề nghiệp. Lúc đầu, việc soạn thảo bộ đạo đức nghề nghiệp do Ủy ban đạo đức nghề nghiệp (IFAC Ethics Committee) trực thuộc IFAC đảm nhận, còn hiện nay do IESBA (Uỷ ban quốc tế về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên) đảm trách. Ủy ban này tư vấn cho IFAC về các vấn đế liên quan đến đạo đức nghề nghiệp, đồng thời soạn thảo các hướng dẫn chi tiết về những vấn đề đã đước IFAC phê chuẩn. Từ khi ban hành năm 6 1996 đến nay, bộ đạo đức nghề nghiệp đã trải qua hai lần sửa đổi chính vào năm 2001 và 2005. Trong lời mở đầu, IFAC nêu rõ việc ban hành điều lệ đạo đức nghề nghiệp dựa trên quan điểm nghề kiểm toán là một nghề đặc biệt vì người hành nghề cần có năng lực chuyên môn cao thông qua đào tạo và huấn luyện, các thành viên phải chịu trách nhiệm với cộng đồng. IFAC cũng cho rằng do sự khác biệt về văn hóa, ngôn ngữ, luật pháp và xã hội, nhiệm vụ soạn thảo về các yêu cầu chi tiết là trách nhiệm đầu tiên của Hội nghề nghiệp ở từng quốc gia. Tuy nhiên do tính đồng nhất về mục đích, nên các tổ chức cần cố gắng để đạt được các mục tiêu chung của nghề nghiệp, bằng cách tuân thủ một số nguyên tắc chính yếu được thiết lập trong điều lệ đạo đức nghề nghiệp. Do vậy IFAC khuyến khích tổ chức nghề nghiệp của các quốc gia khi soạn thảo điều lệ đạo đức nghề nghiệp cần cố gắng hòa hợp với các nguyên tắc của quốc tế. Điều lệ đạo đức nghề nghiệp của quốc tế là khuôn mẫu hướng dẫn cho các quốc gia. Cấu trúc của hệ thống chuẩn mực quốc tế về kiểm toán hiện hành bao gồm: Các chuẩn mực kiểm toán. Các chuẩn mực về dịch vụ soát xét. Chuẩn mực về dịch vụ bảo đảm. Chuẩn mực về kiểm soát chất lượng. Chuẩn mực về dịch vụ có liên quan. Bố cục của điều lệ đạo đức nghề nghiệp 2005 chia thành ba phần chính: Phần A : Áp dụng chung cho người hành nghề. Phần B : Áp dụng cho kiểm toán viên. Phần C : Áp dụng cho người hành nghề kế toán. Phần A đề cập đến 6 nguyên tắc đạo đức căn bản áp dụng cho người hành nghề, bao gồm chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn và tính thận trọng, bảo mật, tư cách nghề nghiệp. Phần B đề cập đến các nội dung sau: - Giới thiệu : Trình bày cách thức áp dụng khuôn mẫu Phần A vào thực tế hành nghề kiểm toán. 7 - Bổ nhiệm kiểm toán viên : Trình bày khá đầy đủ về việc chấp nhận khách hàng mới, duyệt xét lại khách hàng cũ và các biện pháp bảo vệ - Xung đột lợi ích: IFAC phân tích các tình huống tạo ra xung đột lợi ích xuất phát từ: + Xung đột do đối lập lợi ích. + Xung đột lợi ích do cạnh tranh. + Xung đột lợi ích kinh doanh. Để đánh giá khả năng xảy ra xung đột lợi ích, công ty kiểm toán cần tiến hành đánh giá khách hàng, tìm hiểu về hoạt động của khách hàng trước khi chấp nhận hợp đồng. Ý kiến khác Phí và các thù lao khác Tiếp thị Quà tặng và chiêu đãi Trông nom tài sản Tính khách quan Tính độc lập 8 Chương II: Các quy định đạo đức nghề nghiệp tại Việt Nam 2.1 Các quy định hiện hành về đạo đức nghề nghiêp của Việt Nam 2.1.1 Quy định chung 2.1.1.1 Mục đích Quy định các nguyên tắc, nội dung và hướng dẫn áp dụng các tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp của người hành nghề kế toán, kiểm toán viên hành nghề và người làm kế toán, kiểm toán trong các doanh nghiệp và tổ chức nhằm đảm bảo đạt được những tiêu chuẩn cao nhất về trình độ chuyên môn, về mức độ hoạt động và đáp ứng được sự quan tâm ngày càng cao của công chúng. Chuẩn mực này đặt ra bốn yêu cầu cơ bản sau: - Sự tín nhiệm: Nâng cao sự tín nhiệm của xã hội đối với hệ thống thông tin của kế toán và kiểm toán. Tính chuyên nghiệp: Tạo lập sự công nhận của chủ doanh nghiệp, tổ chức, khách hàng và các bên liên quan về tính chuyên nghiệp của người làm kế toán về người làm kiểm toán, đặc biệt là người hành nghề kế toán và kiểm toán viên hành nghề. Chất lượng dịch vụ: Đảm bảo chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán đạt được các chuẩn mực cao nhất. Sự tin cậy: Tạo ra sự tin cậy của người sử dụng dịch vụ kế toán, kiểm toán về khả năng chi phối của chuẩn mực đạo đức đối với việc cung cấp các dịch vụ đó. 2.1.1.2 Nội dung Quy định mục đích, các nguyên tắc đạo đức cơ bản;tiêu chuẩn đạo đức áp dụng chung cho tất cả những người làm kế toán và người làm kiểm toán; tiên chuẩn đạo đức áp dụng riêng cho kiểm toán viên hành nghề, nhóm kiểm toán và công ty kiểm toán; tiêu chuẩn đạo đức áp dụng cho người có chứng chỉ kiểm toán viên hoặc chứng chỉ hành nghề kế toán làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức. 2.1.1.3 Phạm vi áp dụng Tất cả người làm kế toán và người làm kiểm toán, gồm: - Người làm kế toán, làm kế toán trưởng, làm kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp và các đơn vị kế toán nhà nước. 9 - Những người có chứng chỉ kiểm toán viên hoặc chứng chỉ hành nghề kế toán đang làm kế toán, làm kế toán trưởng, kiểm toán nội bộ, chủ doanh nghiệp hoặc công việc khác trong các doanh nghiệp, tổ chức. Người có chứng chỉ kiểm toán viên hoặc chứng chỉ hành nghề kế toán đang đăng ký hành nghề trong các doanh nghiệp dịch vụ kế toán, kiểm toán. Doanh nghiệp kế toán, kiểm toán phải thực hiện các quy trình của chuẩn mực này trong suốt quá trình hoạt động. Người làm kế toán và người làm kiểm toán trong các lĩnh vực khác cũng phải áp dụng các quy trình của chuẩn mực này trong quá trình hoạt động nghề nghiệp. Phạm vi áp dụng chuẩn mực này cho từng đối tượng được quy định cụ thể trong phần “ Nội dung chuẩn mực”. 2.1.2 Nội dung chuẩn mực 2.1.2.1 Áp dụng cho tất cả người làm kế toán và kiểm toán. 2.1.2.1.1 Các nguy cơ và biện pháp bảo vệ. * Các nguy cơ có thể xảy ra được phân loại như sau: - Nguy cơ do tư lợi: Do việc người làm kế toán và người làm kiểm toán hoặc thành viên trong quan hệ gia đình ruột thịt hay quan hệ gia đình trực tiếp của người làm kế toán và người làm kiểm toán có các lợi ích tài chính hay lợi ích khác. Nguy cơ tự kiểm tra: Khi người làm kế toán và người làm kiểm toán phải xem xét lại các đánh giá trước đây do mình chịu trách nhiệm. Nguy cơ về sự bào chữa: Khi người làm kế toán và người làm kiểm toán ủng hộ một quan điểm hay ý kiến tới mức độ mà tính khách quan có thể bị ảnh hưởng. Nguy cơ từ sự quen thuộc: Khi do các mối quan hệ quen thuộc mà người làm kế toán và người làm kiểm toán trở nên quá đồng tình đối với lợi ích của những người khác. Nguy cơ bị đe dọa: Khi người làm kế toán và người làm kiểm toán có thể bị ngăn cản không được hành động một cách khách quan do các đe dọa. * Các biện pháp bảo vệ có thể giúp loại bỏ hay làm giảm nhẹ các nguy cơ xuống mức chấp nhận được bao gồm: - Các biện pháp bảo vệ do pháp luật và chuẩn mực quy định. - Các biện pháp bảo vệ do môi trường làm việc tạo ra. 10 2.1.2.1.2 Tính chính trực và tính khách quan Chuẩn mực nêu rõ tính chính trực không đơn thuần để chỉ tính trung thực mà còn nhấn mạnh đến sự công bằng và sự tín nhiệm. Nguyên tắc về tính khách cho rằng nghĩa vụ của tất cả người làm kế toán và người làm kiểm toán là phải công bằng, trung thực trong tư tưởng và không có xung đột về lợi ích. Chuẩn mực lưu ý rằng bất kể khi cung cấp dịch vụ hay có quyền hạn như thế nào, người làm kế toán và người làm kiểm toán cũng phải bảo vệ tính chính trực khi làm việc hoặc cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp và phải giữ vững tính khách quan trong những đánh giá của mình. Chằng hạn, khi lựa chọn và áp dụng các tiêu chuẩn về đạo đức có liên quan đến tính khách quan, cần tránh các mối quan hệ dẫn đến sự thành kiến, thiên vị hoặc bị ảnh hưởng của những người khác,hoặc có nghĩa vụ đảm bảo tôn trọng tính khách quan đối với các quan hệ cá nhân liên quan đến dịch vụ chuyên nghiệp, hoặc không nên nhận quà hoặc tặng quà,dự chiêu đãi đến mức có thể làm ảnh hưởng đáng kể tới các đánh giá nghề nghiệp hoặc tới những người cùng làm việc. 2.1.2.1.3 Xung đột về đạo đức. Trong nền kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều tình huống có thể dẫn đến các xung đột, chúng có thể nảy sinh từ nhiều đường khác nhau, từ những tình huống khó xử, không quan trọng cho đến những trường hợp gian lận và vi phạm pháp luật đặc biệt nghiêm trọng. Chẳng hạn, do áp lực từ cơ quan quản lý, cấp trên, giám đốc…hoặc khi có quan hệ gia đình cá nhân, hoặc do bị yêu cầu hành động trái với chuẩn mực nghề nghiệp và chuyên môn… 2.1.2.1.4 Năng lực chuyên môn và tính thận trọng Người làm kế toán và người làm kiểm toán không được thể hiện là có những khả năng và kinh nghiệm mà bản thân không có. Ngoài ra, họ phải có nghĩa vụ duy trì kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn và phải hành động đúng mực, phù hợp với các chuẩn mực về kỹ thuật và nghề nghiệp khi cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp. 2.1.2.1.5 Tính bảo mật 11 Người làm kế toán và người làm kiểm toán có nghĩa vụ tôn trọng nguyên tắc bảo mật các thông tin về khách hàng hoặc chủ doanh nghiệp thu được trong quá trình tiến hành cacshoatj động chuyên nghiệp, và phải tôn trọng nguyên tắc bảo mật ngay cả trong mối quan hệ gia đình và xã hội, trừ khi thông tin cần được cung cấp cho cơ quan chức năng có liên quan hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc luật pháp yêu cầu phải báo cáo. 2.1.2.1.6 Tư vấn thuế hoặc kê khai thuế. Người làm kế toán và người làm kiểm toán khi cung cấp dịch vụ tư vấn thuế có quyền đề xuất giải pháp áp dụng cho luật thuế có lợi nhất cho khách hàng, nhưng nên chỉ rõ cho khách hàng để họ nhận thức được rằng việc kê khai thuế đúng đắn là trách nhiệm của họ Ý kiến tư vấn về thuế hay ý kiến về các sự kiện trọng yếu tư vấn cho khách hàng cần được ghi chép lại, dưới dạng thư hoặc bản ghi nhớ để lưu hồ sơ. 2.1.2.1.7 Quảng cáo Trong các hoạt động tiếp thị và quảng bá về mình, người làm kế toán và người làm kiểm toán không được sử dụng các phương tiện có thể làm ảnh hưởng tới hình ảnh và danh tiếng nghề nghiệp, hoặc phóng đại về những công việc có thể làm hoặc dịch vụ có thể cung cấp, các bằng cấp hay kinh nghiệm… 2.1.2.2 Áp dụng cho kiểm toán viên hành nghề, nhóm kiểm toán và công ty kiểm toán. 2.1.2.2.1 Tính độc lập. Độc lập là nguyên tắc hành nghề cơ bản của kiểm toán viên. Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp yêu cầu mọi kiểm toán viên hành nghề và thành viên nhóm kiểm toán cung cấp dịch vụ kiểm toán ( dịch vụ đảm bảo),công ty kiểm toán phải độc lập với khách hàng sử dụng dịch vụ kiểm toán. Trong dịch vụ đảm bảo, kiểm toán viên, người cung cấp dịch vụ độc lập đưa ý kiến kết luận nhằm nâng cao mức độ tin cậy của người sử dụng thông tin. Dịch vụ đảm bảo có thể cung cấp mức độ đảm bảo cao hoặc vừa phải. Các hợp đồng do người hành nghề kế toán thực hiện không phải là hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo. Các dịch vụ không phải là dịch vụ kiểm toán ( không là dịch vụ đảm bảo) là các dịch vụ : 12 - Kiểm tra thông tin tài chính trên cơ sở các thủ tục thỏa thuân trước. Tổng hợp thông tin tài chính và các thông tin khác Lập bản kê khai thuế hoặc tư vấn thuế không đưa ra kết luận chắc chắn. Tư vấn quản lý. Các dịch vụ tư vấn khác. Tính độc lập bao gồm: - Độc lập về tư tưởng : Là trạng thái suy nghĩ cho phép đưa ra ý kiến mà không chịu ảnh hưởng của những tác động trái với những đánh giá chuyên nghiệp, cho phép một cá nhân hành động một cách chính trực, khách quan và có sự thận trọng nghề nghiệp Độc lập về hình thức: Là không có các quan hệ thực tế và hoàn cảnh có ảnh hưởng đáng kể làm cho bên thứ ba hiểu là không độc lập, hoặc hiểu là tính chính trực, khách quan và thận trọng nghề nghiệp của nhân viên công ty hay thành viên của nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo không được duy trì. Tóm lại về tính độc lập, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp yêu cầu: - Đối với một hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo cho một khách hàng kiểm toán, công ty kiểm toán và nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo phải độc lập với khách hàng đó. Đối với hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo phi kiểm toán, khi báo cáo không chỉ được sử dụng cho những đối tượng nhất định, công ty kiểm toán và nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo phải độc lập với khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo phi kiểm toán. Đối với hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo phi kiểm toán, khi báo cáo chỉ được sử dụng cho những đối tượng nhất định, công ty kiểm toán và nhóm cung cấp dịch vụ đảm bảo cũng phải độc lập với khách hàng đó. Ngoài ra, công ty không được có lợi ích tài chính trực tiếp hoặc gián tiếp trọng yếu ở khách hàng Mục tiêu và cấu trúc của quy định về tính độc lập Mục tiêu là để hỗ trợ các công ty kiểm toán, kiểm toán viên và nhóm kiểm toán cung cấp dịch vụ đảm bảo trong việc xác định các nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập, đánh giá xem chúng có trọng yếu hay không và nếu trọng yếu thì giúp xác định và áp dụng các biện pháp bảo vệ phù hợp để loại bỏ hoặc làm giảm các nguy cơ này đến mức có thể chấp nhận được. 13 Cấu trúc của quy định về tính độc lập nêu lên - Các nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập. Các biện pháp bảo vệ có thể loại bỏ hoặc làm giảm các nguy cơ này xuống mức có thể chấp nhận được. Ví dụ về việc vận dụng tính độc lập trong các mối quan hệ và các trường hợp cụ thể. Nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập Tính độc lập có nguy cơ bị ảnh hưởng do tư lợi, tự kiểm tra, sự bào chữa, quan hệ ruột thịt, quan hệ khác và sự đe dọa. Nguy cơ do tư lợi: diễn ra khi công ty kiểm toán hoặc một thành viên nhóm kiểm toán có thể thu được lợi ích tài chính hoặc các xung đột lợi ích cá nhân khác với khách hàng sử dụng dịch vụ bảo đảm. Ví dụ khi có: - Lợi ích tài chính trực tiếp từ khách hàng hoặc lợi ích tài chính gián tiếp có tính chất trọng yếu tại khách hàng. - Quá phụ thuộc vào phí dịch vụ của khách hàng. - Quan hệ kinh doanh mật thiết với khách hàng. - Khả năng trở thành nhân viên của khách hàng. Nguy cơ tự kiểm tra : diễn ra khi có bất kỳ sản phẩm hay đánh giá từ một hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo hoặc phi đảm bảo nào trước đây cần được đánh giá, hoặc một thành viên của nhóm kiểm toán đã từng là giám đốc của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo, hoặc là nhân viên có chức vụ, có ảnh hưởng đáng kể và trực tiếp đối với vấn đề trọng yếu của hợp đồng. Ví dụ khi: - Một thành viên của nhóm kiểm toán gần đây đã hoặc đang là Giám đốc hoặc nhân viên có ảnh hưởng đáng kể của khách hàng Tiến hành các dịch vụ cho khách hàng có ảnh hường trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. Ghi sổ kế toán hoặc lập báo cáo tài chính là đối tượng của hợp đồng cung cấp dịch vụ đảm bảo. Nguy cơ về sự bào chữa: xảy ra khi công ty kiểm toán hoặc một thành viên nhóm kiểm toán xúc tiến, hoặc nhận thức được việc xúc tiến các giao dịch của một khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo hoặc ý kiến có thể được hiểu là vi phạm tính khách quan. Đây là trường hợp người cung cấp dịch vụ phụ thuộc vào khách hàng trong việc đưa ra ý kiến 14 Nguy cơ về quan hệ ruột thịt: xảy ra khi công ty kiểm toán hoặc thành viên của nhóm kiểm toán thông cảm với lợi ích của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo vì có quan hệ ruột thịt, như thành viên ban Giám đốc, thành viên Hội đồng quản trị, kế toán trưởng và tương đương của khách hàng. Nguy cơ bị đe dọa: xảy ra khi một thành viên của nhóm kiểm toán bị đe dọa( đe dọa thật hoặc cảm thấy bị đe dọa) nhằm ngăn cản hành động theo đúng nguyên tắc khách quan và hoài nghi nghề nghiệp cần thiết từ phía Giám đốc, thành viên Ban Giám đốc hoặc nhân viên giữ chức vụ có ảnh hưởng đáng kể của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo. Các biện pháp bảo vệ Công ty kiểm toán và nhóm kiểm toán có trách nhiệm giữ gìn tính độc lập bằng cách xem xét hoàn cảnh thực tế của các nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập áp dụng những biện pháp bảo vệ để loại bỏ hoặc làm giảm các nguy cơ trọng yếu ảnh hưởng đến tính độc lập xuống mức có thể chấp nhận được. Các biện pháp bảo vệ do pháp luật và chuẩn mực nghề nghiệp quy định: - Các yêu cầu về trình độ chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp của kiểm toán viên. Các yêu cầu về việc liên tục cập nhập, bổ sung kiến thức, kinh nghiệm cho kiểm toán viên. Các chuẩn mực nghề nghiệp và quy định về thủ tục soát xét. Luật pháp liên quan đến việc kiểm tra các yêu cầu về tính độc lập của kiểm toán viên và của công ty kiểm toán. Các biện pháp bảo vệ do môi trường làm việc tạo ra:  - Biện pháp của khách hàng Nhà quản lý của khách hàng đề xuất công ty kiểm toán thì người này không thể là người phê chuẩn sự đề xuất này. Các nhà quản lý của khách hàng sử dụng dịch vụ đảm bảo phải có đủ trình độ đưa ra quyết định quản lý. Phải có chính sách và thủ tục nội bộ để đảm bảo không lựa chọn các dịch vụ phi kiểm toán có ảnh hưởng đến tính độc lập với dịch vụ kiểm toán - Phải có cơ cấu bộ máy quản lý điều hành và năng lực quản lý đủ để kiểm soát và trao đổi về các dịch vụ với công ty kiểm toán  Biện pháp của công ty kiểm toán 15 - Lãnh đạo công ty kiểm toán nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tính độc lập và yêu cầu thành viên của nhóm kiểm toán phải ký cam kết và hành động phù hợp với cam kết và sự quan tâm của công chúng. Chính sách và thủ tục thực hiện giám sát chất lượng hợp đồng kiểm toán. Chính sách về tính độc lập được quy định trong tài liệu về cách xác định nguy cơ ảnh hưởng đến tính độc lập, cách đánh giá tầm quan trọng của các nguy cơ này và việc xác định và áp dụng các biện pháp bảo vệ, để loại bỏ hoặc làm giảm các nguy cơ trọng yếu ảnh hưởng đến tính độc lập xuống đến mức có thể chấp nhận được. Chính sách và thủ tục nội bộ để giám sát việc tuân thủ các chính sách và thủ tục của công ty liên quan đến tính độc lập. Trao đổi thông tin kịp thời về các chính sách và thủ tục của công ty kiểm toán cũng như bất kỳ sự thay đổi nào, kể cả vấn đề giáo dục và đào tạo tiếp theo cho Ban Giám đốc và nhân viên chuyên nghiệp. Có cơ chế kỷ luật nhằm nâng cao sự tuân thủ các chính sách và thủ tục. Xin ý kiến tư vấn từ bên thứ ba, như tổ chức nghề nghiệp, chuyên gia, chuyên gia tư vấn pháp luật hoặc một kiểm toán viên hành nghề khác… 2.1.2.2.2 Khả năng chuyên môn và trách nhiệm khi sử dụng chuyên gia không phải là kiểm toán viên hành nghề. Các kiểm toán viên hành nghề không được nhận thực hiện các dịch vụ chuyên môn khi xét thấy không đủ năng lực thực hiện trừ khi có sự giúp đỡ để có thể tiến hành tốt các dịch vụ đó. Nếu một kiểm toán viên hành nghề không có đủ năng lực thực hiện một phần cụ thê nào đó của dịch vụ chuyên môn, họ cần tìm đến sự hỗ trợ kỹ thuật của các chuyên gia như kiểm toán viên khác, các luật sư, chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư, nhà địa chất, chuyên viên định giá. Khi sử dụng dịch vụ của chuyên gia không phải là kiểm toán viên hành nghề, kiểm toán viên hành nghề phải tiến hành các thủ tục để chắc chắn là các chuyên gia này biết và thực hiện các yêu cầu cơ bản về đạo đức nghề nghiệp quy định trong đoạn 36 của chuẩn mực này. Ngoài ra, còn cần phải hướng dẫn và giám sát chuyên gia thực hiện tùy thuộc vào bản chất của công việc. Ví dụ yêu cầu chuyên gia đọc các quy định cơ bản về đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán… 2.1.2.2.3 Phí dịch vụ tư vấn. 16 Khi cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp cho khách hàng, kiểm toán viên hành nghề phải có trách nhiệm tiến hành các dịch vụ đó với sự chính trực, khách quan và tuân theo các chuẩn mực kỹ thuật chuyên môn và đối với dịch vụ đã cung cấp, kiểm toán viên hành nghề được trả thù lao. Tuy nhiên, phí tư vấn phải hợp lý so với giá trị dịch vụ cung cấp cho khách hàng, trong đó có tính đến: - Kỹ năng và kiến thức cần phải có để thực hiện loại hình dịch vụ tư vấn. Mức độ đào tạo và kinh nghiệm làm việc, cũng như thời gian cần thiết cho mỗi người tham gia cung cấp dịch vụ tư vấn. Mức độ trách nhiệm mà việc thực hiện dịch vụ tư vấn đòi hỏi. Khi thực hiện các dịch vụ tư vấn cho một khách hàng, điều cần lưu ý là cần nhanh chóng phải thỏa thuận mức phí trước. Khi quyết định một mức phí dịch vụ cho khách hàng, kiểm toán viên hành nghề phải thỏa mãn rằng, với mức phí đó: - Chất lượng dịch vụ không bị ảnh hưởng, đủ điều kiện áp dụng một cách thận trọng, hợp lý tất cả các chuẩn mực kiểm toán và các quy định kiểm soát chất lượng dịch vụ đó. Khách hàng sẽ không bị hiểu nhầm về phạm vi của dịch vụ theo mức phí đưa ra. Vì lợi ích của khách hàng và kiểm toán viên, chuẩn mực yêu cầu mức phí, các chi phí hoàn lại và các thỏa thuận về phát hành hóa đơn cần được xác định trước, tốt nhất là bằng các văn bản trong hợp đồng kiểm toán ký, trước khi bắt đầu công việc để tránh hiểu nhầm về phí. 2.1.2.2.4 Hoa hồng Theo pháp luật hiện hành, hoạt động tư vấn, kế toán và kiểm toán độc lập không được phép trả và nhận hoa hồng. Ví dụ kiểm toán viên hành nghề và công ty kiểm toán không được trả hoa hồng để có được khách hàng, không được nhận hoa hồng để giới thiệu khách hàng cho bên thứ ba, hoặc để giới thiệu dịch vụ của các kiểm toán viên khác. 2.1.2.2.5 Các hoạt động không phù hợp với nghề nghiệp. Một kiểm toán viên hành nghề không nên đồng thời tham gia vào hoạt động kinh doanh, nghề nghiệp hay hoạt động nào không phù hợp với nghề nghiệp kế 17 toán, kiểm toán vì có thể làm giảm tính chính trực, khách quan hay tính độc lập, hoặc danh tiếng của nghề nghiệp và do không phù hợp với việc cung cấp dịch vụ chuyên môn. 2.1.2.2.6 Tiền của khách hàng Theo pháp luật hiện hành, kiểm toán viên hành nghề không được giữ tiền của khách hàng. Kiểm toán viên thuộc nhóm cung cấp dịch vụ cho khách hàng cũng không nên trực tiếp nhận tiền phí dịch vụ do khách hàng trả, trừ khi được công ty kiểm toán giới thiệu bằng văn bản, lúc này cần phải giữ tiền đó tách riêng với tiền của cá nhân và phải nộp ngay vào quỹ của công ty kiểm toán. 2.1.2.2.7 Quan hệ với kiểm toán viên hành nghề khác Khách hàng có thể yêu cầu cần được cung cấp các dịch vụ hoặc lĩnh vực đặc thù đòi hỏi các kỹ năng đặc biệt và mong muốn hàng đầu của họ là chọn đúng chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp, nhất là khi dịch vụ tư vấn cần kỹ năng đặc biệt. Do đó kiểm toán viên hành nghề không nên tìm cách giới hạn sự lựa chọn tư vấn đặc biệt của khách hàng, nên khuyến khích khách hàng làm như vậy. Khi được khách hàng yêu cầu cung cấp dịch vụ hay xin ý kiến tư vấn, kiểm toán viên cần hỏi khách hàng xem liệu khách hàng tiềm năng này đã có một kiểm toán viên chưa. Trường hợp đã có một kiểm toán viên hành nghề đang cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, hoặc việc bổ nhiệm kiểm toán viên dẫn đến việc một kiểm toán viên khác bị thay thế thì kiểm toán viên cần làm theo các thủ tục trong quy định. Bên cạnh đó, kiểm toán viên hành nghề được mời nên giới hạn các dịch vụ cung cấp đối với công việc nhận được do giới thiệu từ kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc từ khách hàng, trừ khi chưa có kiểm toán viên tiền nhiệm. Kiểm toán viên được mời có nghĩa vụ tiến hành các bước hợp lý để hỗ trợ mối quan hệ đang có của kiểm toán viên tiền nhiệm mà không tạo cơ hội cho kiểm toán viên tiền nhiệm tiếp tục cung cấp các dịch vụ có liên quan. Trước khi chấp nhận công viện loại này, kiểm toán viên được mời nên thông báo cho khách hàng nghĩa vụ nghề nghề nghiệp phải liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm và nên làm việc này ngay, tốt nhất là bằng văn bản, thông báo về 18 cách tiếp cận của khách hàng, bản chất của yêu cầu và yêu cầu kiểm toán viên tiền nhiệm cung cấp các thông tin có liên quan cần để thực hiện công việc ( nếu có). Trường hợp khách hàng nhất định không muốn thông báo với kiểm toán viên tiền nhiệm, kiểm toán viên được mời phải xem xét liệu các lý do khách hàng đưa ra có hợp lý không. Trường hợp khách hàng không thích liên hệ với kiểm toán viên tiền nhiệm thì không được coi là một lý do hợp lý. Kiểm toán viên được mời nên: - Tuân theo chỉ dẫn của kiểm toán viên tiền nhiệm hoặc của khách hàng nếu các chỉ dẫn này không trái với quy định của pháp luật hay các quy định của hội nghề nghiệp. Trong điều kiện có thể cần thông báo cho kiểm toán viên tiền nhiệm nội dung và bản chất của các dịch vụ sẽ thực hiện. Khi được khách hàng đồng ý, kiểm toán viên tiền nhiệm nên cung cấp cho kiểm toán viên được mời tất cả các thông tin có liên quan về khách hàng. Nếu được khách hàng đồng ý, kiểm toán viên được mời nên cung cấp cho kiểm toán viên tiền nhiệm một báo cáo bằng văn bản. Nếu khách hàng không đồng ý cho kiểm toán viên tiền nhiệm cung cấp thông tin kiểm toán viên được mời không nên thực hiện hợp đồng này. Bên cạnh đó, khi được yêu cầu thay thế một kiểm toán viên hành nghề khác, kiểm toán viên được mời cần xác định xem liệu có lý do nghề nghiệp nào để kiểm toán viên tiền nhiệm không tiếp tục công việc đó. Điều đó sẽ không thể thực hiện được nếu không trao đổi trực tiếp với kiểm toán viên tiền nhiệm. Các liên hệ trao đổi nói trên giúp cho kiểm toán viên được mời xác định rõ lý do bổ nhiệm để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận công việc này. Các liên hệ, trao đổi này còn giúp duy trì mối quan hệ hữu hảo giữa các kiểm toán viên được khách hàng nhờ tư vấn. Kiểm toán viên tiền nhiệm có thể thảo luận về tình hình của khách hàng với kiểm toán viên được mời, nếu được khách hàng đồng ý, hoặc phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài việc đưa ra các chỉ dẫn về công việc được giới thiệu, kiểm toán viên tiền nhiệm nên duy trì liên lạc với kiểm toán viên được mời và hợp tác với họ đối với các yêu cầu cần hỗ trợ. 19 Kiểm toán viên được mời phải bảo mật và sử dụng hợp lý các thông tin do người tiền nhiệm cung cấp. Các thông tin do người tiền nhiệm cung cấp có thể cho thấy lý do khách hàng đưa ra về sự thay đổi kiểm toán viên là không đúng với thực tế. Đề nghị thay đổi kiểm toán viên có thể do người tiền nhiệm giữ ý kiến của mình và họ đã thực hiện đúng các trách nhiệm của một kiểm toán viên hành nghề dù có ý kiến khác biệt trọng yếu với khách hàng. 2.1.2.2.8 Quảng cáo và giới thiệu Kiểm toán viên và công ty kiểm toán không được làm quảng cáo về kiểm toán viên, về công ty hoặc dịch vụ của mình. Chuẩn mực nghiêm cấm kiểm toán viên và công ty kiểm toán có các hoạt động giới thiệu để: - Tạo ra sự mong đợi giả tạo, có tính lừa dối hay không đúng về kết quả dịch vụ. Ám chỉ khả năng gây ảnh hưởng đến các tòa án, hội đồng xét xử, các cơ quan luật pháp hay quan chức tương tự. Tự ca ngợi không dựa trên các thông tin có thể chứng thực được. Đưa ra sự so sánh với các kiểm toán viên hoặc công ty kiểm toán khác. Đưa ra những lời chứng thực hay xác nhận của tổ chức, cá nhân có ảnh hưởng đáng kể. Đưa ra các tuyên bố làm người khác hiểu nhầm hoặc bị lừa. Đưa ra các xác nhận không chứng minh được rằng mình là chuyên gia trong một lĩnh vực dịch vụ nhất định. Tuy nhiên, do trong quá trình hành nghề, kiểm toán viên và công ty kiểm toán vẫn phải tự giới thiệu về mình, nên lúc này chuẩn mực cho phép họ được trình bày, giới thiệu về kiểm toán viên, về công ty và các dịch vụ của mình nhưng phải nêu lên một cách khách quan, đúng đắn, trung thực, xác thực, lịch sự và tinh tế. Chuẩn mực có hướng dẫn về ấn phẩm trình bày, giới thiệu của kiểm toán viên và công ty kiểm toán và chỉ chấp nhận nếu việc giới thiệu: - Chỉ nhằm mục đích thông báo với công chúng tình hình thực tế về kiểm toán viên, công ty và các dịch vụ của công ty kiểm toán. Được trình bày một cách tinh tế. Nghiêm túc, khách quan và chuyên nghiệp. Phải tránh sư lặp đi, lặp lại thường xuyên và nổi bật thái quá đối với tên tuổi của kiểm toán viên. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan