Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá về tình hình sử dụng các biểu tượng quốc gia của việt nam...

Tài liệu đánh giá về tình hình sử dụng các biểu tượng quốc gia của việt nam

.PDF
53
169
133

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành được bài Tiểu luận về đề tài: “Đánh giá về tình hình sử dụng các biểu tượng quốc gia của Việt Nam” . Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô giáo bộ môn “ Nghi thức Nhà nước” Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội đã giảng dạy và hướng dẫn trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu đề tài. Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Ths. Đinh Thị Hải Yến, là giảng viên trực tiếp giảng dạy và hướng dẫn chu đáo, tận tình giúp tôi hoàn thành bài Tiểu luận này. Mặc dù đã cố gắng để thực hiện tốt đề tài một cách hoàn chỉnh và hiệu quả nhất. Xong do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu về đề tài này cũng như hạn chế về kinh nghiệm và kiến thức không thể tránh khỏi những thiếu xót mà bản thân chưa thấy được . Tôi rất mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, Cô giáo cũng như bạn đọc để bài Tiểu luận được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và Các nội dung nghiên cứu và kết quả này là trung thực. Và trong quá trình nghiên cứu có tham khảo và sử dụng một số nội dung , nhận xét, đánh giá của các tác giả và cơ quan tổ chức khác đều có ghi nguồn gốc,chú thích rõ ràng. Nếu có bất kỳ sự gian lận nào trong quá trình nghiên cứu tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm . MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài. Trong thời đại Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước , chúng ta đang mải mê đi xây dựng và phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa… mà đôi khi có nhiều người quên đi và không biết đến nguồn gốc lịch sử , các biểu tượng Quốc gia, các yếu tố cấu thành nên Quốc thể nó là gì? nó như thế nào? và nó xuất hiện phát triển ra làm sao? Bác Hồ đã nói “ dân ta phải biết sử ta, cho tường tích gốc nước nhà Việt Nam”, cho nên việc tìm hiểu lịch sử dân tộc nói chung và “tìm hiểu lịch sử các biểu tượng quốc gia Việt Nam” nói riêng là hết sức quan trọng đối với mỗi công dân đất Việt , đặc biệt là những thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước. Hơn thế nữa, không chỉ biết về lịch sử Nước nhà mà còn phải trang bị cho mình những kiến thức sâu rộng hơn về thế giới bên ngoài như việc “giới thiệu hệ thống biểu tượng quốc gia của một số nước trên thế giới”. Vậy thì chủ đề này sẽ giúp chúng ta đi sâu và hiểu rõ hơn về việc “Đánh giá việc sử các biểu tượng quốc gia của Việt Nam “ 2. Lịch sử nghiên cứu. Về lịch sử Việt Nam thì có rất nhiều những nhà nghiên cứu quan tâm và khai thác. Nhưg “Đánh giá việc sử dụng các biểu tượng quốc gia Việt Nam” nhìn chung chưa có nhiều nghiên cứu. Đa số là các bài viết, đề tài trên các tạp chí chuyên ngành, hội thảo liên quan và các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản áp dụng quy phạm pháp luật như: - Điều lệ số 973-Ttg của Thủ Tướng Chính phủ ngày 21 tháng 7 năm 1956 về việc dùng Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc hiệu, Quốc huy nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Hướng dẫn 3420/ HD-BVHTTDL ngày 02 tháng 10 năm 2012 về việc sử dụng Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh - “Vài suy nghĩ về giọng nói và biểu tượng quốc gia” của tác giả Xuân Dương (2014) - “Giáo trình môn Nghi thức nhà nước” (NXB THỐNG KÊ 2001) của TS. Lưu Kiếm Thanh - “Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới” (NXB CHÍNH TRỊ QUỐC GIA) của TS. Nguyễn Minh Tuấn 4 - “Môn nghi thức nhà nước – Ngữ văn” (Thư viện giáo án điện tử) của Đinh Thùy Dương 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi giới hạn nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Lịch sử các biểu tượng quốc gia Việt Nam và giới thiệu biểu tượng quốc gia của 5 nước cụ thể trên thế giới: Nhật Bản, Lào, Hoa Kỳ, Đức và Australia 3.2. Phạm vi giới hạn nghiên cứu của đề tài Nghiên cứu đề tài trong phạm vi quốc gia Việt Nam và giới thiệu sơ qua về biểu tượng của 5 Quốc gia: Lào, Nhật Bản, Đức, Hoa Kỳ và Australia 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4.1. Mục đích Mỗi công dân đất nước Việt Nam cần hiểu rõ hơn về lịch sử nước nhà trong đó có lịch sử các biểu tượng quốc gia Việt Nam. Tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử nước nhà không chỉ để biết mà còn có giá trị tri thức, khoa học, bảo lưu truyền lại cho con cháu. Lịch sử là những bài học tổng kết từ thực tiễn, không tự dưng mà có và không có một quốc gia nào lại không có lịch sử. Do đó, biết lịch sử nước nhà cũng là cách thể hiện lòng yêu nước, biết “tường gốc tích” là thể hiện trách nhiệm cao với tổ tiên, với nòi giống, với quốc gia. Ngoài ra nghiên cứu đề tài còn cung cấp tài liệu , cơ sở cho bạn đọc có thể tiếp cận dễ dàng hơn, tạo ra cái sự phong phú về số lượng nhưng vẫn giữ được tính hiệu quả và tính chính xác. 4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Là một người con của dân tộc, là một sinh viên ngành quản trị Văn Phòng Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội cần phải có khối kiến thức đủ, hoàn thành chương trình giáo dục về “Nghi thức nhà nước” nói chung và lịch sử biểu tượng của quốc gia nói riêng, chúng ta cần phải nghiên cứu đề tài để hiểu rõ hơn về biểu tượng của dân tộc cũng như cần phải tiếp thu và hiểu rộng hơn nữa đối với văn hóa, biểu tượng của các nước khác trên thế giới. Hơn nữa chúng ta nghiên cứu đề tài không những để hoàn thành trong chương trình giáo dục, không những để mình chúng ta biết rõ mà còn để mọi người trên đất nước đều 5 có thể biết về lịch sử biểu tượng quốc gia, nét truyền thống của dân tộc. 5. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã được sử dụng khá là nhiều phương pháp để làm rõ vấn đề cần nghiên cứu như: phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp thu thập và xử lí thông tin và sử dụng một số tài liệu để phục vụ cho công tác nghiên cứu đề tài. 6. Giả thuyết khoa học Đi đôi với chiều dài lịch sử, thì các biểu tượng của quốc gia Việt Nam nói chung và các Nước khác nói riêng là một phần trong lịch sử của mỗi đất nước. Nhưng đến hiện nay thì nguồn tài liệu về vấn đề này chưa được nhiều các tác giả đi sâu, tuy là vẫn có những nhà nghiên cứu đi trước nhưng chưa làm đa dạng nguồn tài liệu về vấn đè này. Có lẽ một phần do trong tính lịch sử của Dân tộc mỗi quốc gia có rất nhiều nội dung, mà họ chưa thể đi nghiên cứu tới vấn đề này. Hay có thể một phần nhỏ trong lịch sử của mỗi quốc gia chưa có sự nghiên cứu chính xác, chưa thể đưa ra được những tài liệu, kết quả cuối cùng. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Đề tài góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu về vấn đề trọng tâm và các vấn đề có liên quan. Giúp cho mọi người, bạn đọc và bản thân người nghiên cứu đề tài nắm bắt và hiểu rõ hơn về yêu cầu, nội dung của đề tài nghiên cứu. Bỏ túi được một phần hệ thống kiến thức, tính học hỏi, tiếp thu những nguồn tri thức phong phú trong lịch sử. 8. Cấu trúc của đề tài Chương 1 Lịch sử các biểu tượng quốc gia của Việt Nam Chương 2. Hệ thống biểu tượng quốc gia của một số nước trên thế giới Chương 3. Đánh giá việc sử dụng biểu tượng quốc gia hiện nay CHƯƠNG 1. LỊCH SỬ VỀ BIỂU TƯỢNG QUỐC GIA Ở VIỆT NAM 6 1.1. Khái niệm Biểu tượng quốc gia là các biểu trưng, hình ảnh, thể vật tượng trưng , đại diện cho một quốc gia. Ngoài ra nó còn được thể hiện với các hình thức phong phú và đa dạng. Những loại hình cơ bản của biểu tượng quốc gia gồm : Quốc hiệu, Quốc kì, Quốc ca, Quốc huy. Và các biểu tượng không chính thức khác như: Quốc phục, Quốc hoa, Quốc thú, Quốc thụ. + Quốc hiệu là tên gọi chính thức của một quốc gia. + Quốc kì là loại cờ được dùng làm biểu trưng cho một quốc gia, những công trình công cộng và tư nhân như trường học và cơ quan nhà nước , chính phủ thường treo quốc kỳ. ở một số nước quốc kỳ chỉ được treo ở những công trình phi quân sự vào những ngày cụ thể. Có ba loại quốc kỳ phân biệt để sử dụng trên đất liền và ba loại sử dụng trên biển, mặc dù nhiều nước sử dụng cùng một kiểu thiết kế cho vài ( đôi khi tất cả) các loại cờ. + Quốc ca là một bài hát chính thức, ái quốc khơi gợi và tán dương lịch sử truyền thống và đấu tranh của nhân dân quốc gia đó được dúng trong các nghi lễ trang trọng. + Quốc huy là một trong những biểu tượng của quốc gia, bên cạnh Quốc kì , Quốc ca và Quốc hiệu. là một biểu hiện chế độ hình ảnh đặc trưng của quốc gia đó. Quốc huy thường được sử dụng trên các ấn phẩm quốc gia như : tiền tệ, hộ chiếu, giấy tờ… 1.2. Đặc điểm + Không thể thiếu được quốc gia , dân tộc. + Mang đặc điểm riêng biệt của quốc gia dân tộc. + Thể hiện được chủ quyền của các quốc gia. + Cấu thành nên quốc thể. + Là hình ảnh đại diện của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế và là biểu hiện tính chính thức trong quan hệ giữa nhà nước với công dân và các tổ chức. + Là biểu trưng đặc trưng của mỗi quốc gia, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc và bẳn sắc văn hóa đặc trưng của mỗi quốc gia. 7 + Là sự kết tinh các giá trị văn hóa, xã hội và chính trị của một quốc gia được khái quát hóa thông qua các phương tiện như : âm nhạc , hội họa hay ngôn ngữ. 1.3 Lịch sử hình thành biểu tượng quốc gia 1.3.1 Quốc kỳ a. Sự ra đời của Quốc kỳ Việt Nam: Quốc kỳ Việt Nam hiện nay được công nhận chính thức từ 1976, là lá cờ đại diện cho nước Việt Nam thống nhất. Lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện lần đầu tiên trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ chống thực dân Pháp (23-11-1940). Tác giả sáng tạo ra lá cờ nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh này là đồng chí Nguyễn Hữu Tiến (sinh ngày 5-3-1901 tại Hà Nam. Tâm huyết của tác giả khi sáng tạo ra lá cờ Tổ quốc được khắc họa rõ nét trong bài thơ của ông Hỡi những ai máu đỏ da vàng Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc Nền cờ thắm máu đào vì nước Sao vàng tươi, da của giống nòi Đứng lên mau hồn nước gọi ta rồi Hỡi sỹ nông công thương binh Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh Tháng 5-1941 tại Khui Nậm, Cao Bằng, Lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trì hội nghị Trung ương VIII quyết định thành lập tổ chức Việt Nam độc Lập đồng minh - đoạn mở đầu chương trình Việt Minh ghi rõ: "Sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp, Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lấy cờ đỏ sao vàng 5 cánh làm Quốc kỳ". Đây là văn bản đầu tiên, chính thức quy định Quốc kỳ của nước Việt Nam là cờ đỏ sao vàng. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Quốc hội khóa đầu tiên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã ghi vào Hiến pháp: "Quốc kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa 8 có ngôi sao vàng năm cánh". Sau ngày 30-4-1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, non sông Việt Nam đã liền một dải. Từ ngày 24-6 đến 37-1976, Quốc hội nước Việt Nam thống nhất họp tại Thủ đô Hà Nội, đã thông qua nhiều Nghị quyết quan trọng, trong đó công nhận Lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. b. Ý nghĩa của lá cờ đỏ sao vàng : Nền đỏ tượng trưng cho cách mạng, màu vàng là màu truyền thống tượng trưng cho dân tộc Việt Nam, và năm cánh sao tượng trưng cho năm tầng lớp sĩ, nông, công, thương, binh cùng đoàn kết trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh - đó là hồn nước, là niềm tự hào, là biểu tượng thiêng liêng bất khả xâm phạm của bản sắc dân tộc Việt Nam. c. Quốc kỳ Việt Nam qua các thời kỳ: • Long Tinh Kỳ (1802-1885) : Quốc Kỳ nguyên thủy của triều đình Nhà Nguyễn Đối chiếu với các tài liệu được tham khảo thì lá quốc kỳ đầu tiên trong thời nhà Nguyễn đã được đặt tên bằng tiếng Hán là “Long Tinh Kỳ”. (Ghi chú cho tuổi trẻ Việt Nam: Ý nghĩa của các chữ Hán như sau: Kỳ là cờ. Long là Rồng, biểu tượng cho hoàng đế, có màu vàng. Râu tua màu xanh dương chung quanh tượng trưng cho Tiên và cũng là màu đại dương, nơi Rồng cư ngụ. Tinh có nghĩa là ngôi sao trên trời, mà cũng có nghĩa là màu đỏ. Màu đỏ còn biểu tượng cho phương Nam và cho lòng nhiệt thành. Long Tinh Kỳ là Cờ Rồng có chấm Đỏ viền tua xanh, biểu hiệu cho một dân tộc có nguồn gốc Rồng Tiên ở phương Nam vùng nhiệt đới). 9 10 • Đại Nam Quốc Kỳ (1885-1890) Đây là hình lá cờ Đại Nam của triều đình Đồng Khánh, được tìm thấy qua tài liệu của người Tây phương. • Quốc kỳ Nền Vàng Ba Sọc Đỏ dưới hai triều đại Kháng Pháp 1890 – 1920 Nền vàng. Ba sọc đỏ bằng nhau biểu hiệu Bắc Nam Trung bất khả phân. Có thể nói Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ – gọi tắt là “Cờ Vàng” – là lá “quốc kỳ” đúng nghĩa đầu tiên của dân tộc Việt, vì nó hàm chứa nguyện vọng độc lập và thống nhất của lãnh thổ Việt. Sự kiến tạo lá quốc kỳ mới ấy có nhiều ý nghĩa vô cùng quan trọng: - Thể hiện ý chí đấu tranh, bác bỏ hiệp ước Quý Mùi, “chia để trị” của thực dân Pháp, đã tao ra tình trạng Nam Kỳ thuộc địa, Trung Bắc kỳ bảo hộ. - Xác quyết sự toàn vẹn lãnh thổ của Đại Nam Quốc, ba miền đều có tư thế chính trị giống nhau và bất khả phân trong nền tảng màu Vàng của dân tộc Việt ở phương Nam. - Nêu cao tinh thần “quốc gia dân tộc”, bằng cách đoạn tuyệt với sự liên hệ của chữ Hán, cũng như thoát ly ra khỏi nền bảo hộ Pháp và triều cống Tàu. Chính vì các ý nghĩa trên mà lá cờ Vàng còn được mệnh danh là cờ “Quốc Gia”. Như vậy, từ ngữ “quốc gia” có từ cuối thế kỷ 19, đối nghịch với “thuộc địa”, chớ không chỉ mới có vào bán thế kỷ 20 khi từ ngữ “cộng sản” xuất hiện. 11 • Cờ Bắc Trung Kỳ trong thời miền Nam thành thuộc địa Pháp Long Tinh Kỳ (1920 – 10 Mar, 1945). Nền vàng. Một sọc đỏ lớn. Biểu tượng cho Bắc và Trung kỳ mà thôi. 10-3-45 là ngày cáo chung của chế độ bảo hộ Pháp Lá cờ Vàng Một Sọc Đỏ, cũng được gọi là cờ “Long Tinh”, vì nó biến thể từ Long Tinh Kỳ nguyên thủy trong mấy chục năm đầu của nhà Nguyễn. Nền vàng có hình chữ nhật tương tự như quốc kỳ của các quốc gia khác. Chấm đỏ được kéo dài ra thành sọc đỏ ở giữa. Tua xanh không còn nữa. Đây là lá cờ biểu hiệu cho một quốc gia chỉ còn hai miền Bắc và Trung, thuộc quyền bảo hộ Pháp. Lá cờ này trải qua đời vua Khải Định và tồn tại trong đời vua Bảo Đại, sau khi vua Khải Định băng hà vào năm 1925. Sau khi lên ngôi vào đầu năm 1926 lúc mới 12 tuổi, vua Bảo Đại trao hết quyền cho “Hội Đồng Phụ Chính” với sự chỉ đạo của Toàn Quyền Pháp rồi trở sang Paris tiếp tục học cho đến 1932 mới trở về chấp chính. Lá cờ Long Tinh vẫn được tiếp tục dùng làm biểu tượng của triều đình Huế, lúc bấy giờ chỉ còn thẩm quyền cai trị hai miền Bắc và Trung dưới sự bảo hộ của Pháp. • Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa (miền Nam thuộc địa Pháp) Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa (1923 – Mar 10, 1945) Nền vàng Cờ Tam Tài, màu xanh trắng đỏ nằm trên góc trái. 10-3-45: Nhật đảo chính Pháp Cờ này tồn tại đến 10-3-45 thì cáo chung sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương. 12 • Long Tinh Kỳ trong thời Nhật chiếm Đông Dương, 11 tháng 3, 1945 – Aug 1945 Long Tinh Đế Kỳ (11 Mar – 30 Aug, 1945) Nền vàng, Sọc đỏ bằng 1/3 cờ. 11-3-45: Bảo Đại tuyên bố VN độc lập, Long Tinh Kỳ trở thành Đế Kỳ 30-8-45: Bảo Đại thoái vị, Đế Kỳ cáo chung. Một ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp, vua Bảo Đại đăng đàn tại Huế vào ngày 11-3-45, tuyên bố hủy bỏ hòa ước Quý Mùi 1883 và Giáp Thân 1884, Việt Nam thống nhất và độc lập, theo chế độ Quân Chủ tân thời như một số quốc gia Tây Phương, và ủy nhiệm cho học giả Trần Trọng Kim thành lập chính phủ. Sau đó, vua Bảo Đại phân định cho Long Tinh Kỳ trở lại cương vị của Đế Kỳ, chỉ treo nơi Hoàng Thành Huế hoặc mang theo những nơi vua tuần du. Long Tinh Đế Kỳ cũng tương tự như Long Tinh Quốc Kỳ trong thời Pháp bảo hộ, nhưng nền vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với cờ Quẻ Ly của chính phủ Trần Trọng Kim. • Cờ Quẻ Ly của quốc gia Việt Nam trong thời Nhật chiếm Đông Dương Cờ Quẻ Ly thời Nhật (11 Mar – 5 Sep, 1945) Nền vàng, ba sọc đỏ, sọc giữa đứt khoảng hơi giống hình Quẻ Ly Quốc kỳ chính thức thời Nhật, đồng thời với Long Tinh Kế Kỳ Để biểu trưng cho Quốc Gia trong chế độ Quân Chủ, Bảo Đại ký sắc lệnh chấp thuận đề nghị của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, lấy lại quốc hiệu Việt Nam mà nhà Thanh đã chấp thuận trong thời vua Gia Long, và sáng tạo ra một quốc kỳ mới. Đó là lá cờ có nền vàng tương tự như Long Tinh Đế Kỳ nhưng vạch đỏ 13 được chia làm ba vạch nhỏ bằng nhau, riêng vạch giữa thì đứt khoảng, tương tự như quẻ Ly, một quẻ trong bát Quái. • Cờ Đỏ Sao Vàng của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” Cờ Mặt Trận Việt Minh (5 Sep, 1945 – 20 Dec, 1946) Nền đỏ, sao vàng, cạnh sao hơi cong. 5-9-45: Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 5 dùng cờ Việt Minh làm Quốc Kỳ, thay thế cờ Quẻ Ly. 20-12-46: Việt Minh rút vào bưng kháng chiến chống Pháp. Cờ Việt Minh tạm mất tư thế Quốc Kỳ. - Trong suốt năm 1946, quân đội Pháp càng ngày càng chiếm ưu thế trên các cuộc đụng độ với quân đội Việt Minh. Đến 20-12-46, Pháp chiếm được Bắc Bộ Phủ, Hồ Chí Minh tuyên bố rút vào bưng kháng chiến. Dần dần, Pháp chiếm đóng và kiểm soát các thành phố, quận lỵ, và các làng xã đông dân; còn Việt Minh thì đồn trú tại các vùng quê, rừng núi hẻo lánh. Như vậy, Cờ Đỏ Việt Minh bị xem như tạm thời mất tư thế “quốc kỳ” kể từ ngày 20-12-46 là ngày Pháp chiếm Bắc Bộ Phủ cho đến ngày 20-7-1954 là ngày đất nước chia đôi và Việt Minh trở lại cầm quyền trên miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở lên • Cờ Vàng sọc Xanh của Chính Phủ Lâm Thời “Nam Kỳ Cộng Hòa Quốc” Cờ Nam Kỳ Cộng Hoà Quốc (1 Jun, 1946 – 2 Jun, 1948) 1-6-46: Nam Kỳ CH Quốc trong Liên Bang Đông Dương. Nền vàng, ba sọc xanh, hai sọc trắng 2-6-48: Bảo Đại lập Quốc Gia Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp, thống nhất ba miền. • Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ của “Việt Nam Quốc” và “Việt Nam 14 Cộng Hòa” Cờ Vàng Quốc Gia VN (2 Jun, 1948 – 20 Jul, 1954) 2-6-48: Chính Phủ Trung Ương dùng Cờ Vàng làm quốc kỳ giống như Đại Nam Kỳ thời 1890-1920. 20-7-54: Đất nước chia đôi theo Hiệp Định Genève. Từ đó, Cờ Vàng vẫn được dùng làm Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hoà từ 20-754 đến 30-4-75. • Cờ Đỏ Sao Vàng Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 2 tháng Ba năm 1946 đã biểu quyết nhất trí cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ của nước Việt Nam. Cờ đỏ sao vàng tồn tại từ đó cho đến nay. 1.3.2 Quốc huy a. Sự ra đời của Quốc huy Việt Nam Quốc huy Việt Nam (nguyên thủy là Quốc huy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) được Quốc hội Việt Nam khóa 1, kỳ họp Quốc hội thứ VI (từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 9 năm 1955), phê chuẩn từ mẫu quốc huy do chính phủ đề nghị. Mẫu quốc huy này do họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ mẫu và họa sỹ Trần Văn Cẩn chỉnh sửa. Năm 1976, khi Việt Nam thống nhất, mẫu quốc huy được sửa đổi về quốc hiệu (theo phê chuẩn của Quốc hội Việt Nam khóa VI). b. Ý nghĩa của Quốc huy Việt Nam Quốc huy Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh tượng trưng cho Đảng Cộng Sản Việt Nam, cho lịch sử cách mạng của dân tộc Việt và tiền đồ sáng lạn của quốc gia; bông lúa vàng bao quanh tượng trưng cho nông nghiệp; 15 bánh xe tượng trưng cho công nghiệp và chính giữa, phía dưới là dòng chữ tên nước. c. Quá trình xác định tác giả của Quốc huy Viện Nam Quốc huy Việt Nam - một sản phẩm của sáng tác hội hoạ, là biểu tượng cô đọng, súc tích và đầy đủ về đất nước và con người Việt Nam, nó hàm chứa khát vọng tha thiết của một dân tộc yêu chuộng hoà bình và khẳng định chủ quyền thiêng liêng của quốc gia độc lập. Quốc huy của chúng ta thật đẹp về hình thức, hàm súc về nội dung, thật sự không thua kém bất cứ quốc huy nào trên thế giới. Tác giả Quốc huy từ mấy chục năm nay được xác định là của Cố hoạ sĩ Trần Văn Cẩn. Tuy nhiên, từ sau ngày 9 tháng 9 năm 2001, khi hoạ sĩ Lê Lam có bài “Người vẽ Quốc huy” đăng trên báo Nhân dân cuối tuần khẳng định: Hoạ sĩ Bùi Trang Chước là người sáng tác và thực hiện các phác thảo Quốc huy... Đặc biệt, khi gia đình cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước gửi đơn thư tới các cơ quan chức năng đề nghị xét công nhận tác giả Quốc huy cho Ông Bùi Trang Chước với những tài liệu gốc do gia đình có được hoặc sưu tầm được thì vấn đề đòi hỏi xác định lại tác giả Quốc huy đã thật sự trở nên nóng bỏng và bức xúc. Từ năm 2001 tới nay đã có hàng trăm bài báo, hàng chục cuộc họp của các cơ quan chức năng với gia đình cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước để xem xét việc xác định tác giả Quốc huy. Do vậy, một số tài liệu lưu trữ bảo quản tại Trung tâm lưu trữ quốc gia III và cả những tài liệu cá nhân của cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước do gia đình biếu tặng đã được đưa ra nghiên cứu, thẩm định. Bài viết này đề cập sơ bộ đến quá trình sáng tác mẫu Quốc huy của cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước và một số tài liệu hiện đang lưu giữ ở Trung tâm Lưu trữ quốc gia III (những tài liệu đã góp phần vào việc xác định tác giả Quốc huy Việt Nam). 16 Qua những tài liệu do gia đình gửi tặng Trung tâm LTQG III, có thể thấy một số tài liệu, tư liệu, hiện vật gốc của cố Hoạ sĩ Bùi Trang Chước để lại liên quan trực tiếp đến quá trình sáng tác Quốc huy như: - Di bút “Tôi vẽ mẫu Quốc huy” của hoạ sĩ Bùi Trang Chước. - Văn bản 237/MT ngày 24/11/1954 của Ban Mỹ thuật Trung ương gửi Bộ tuyên truyền do họa sĩ Trần Văn Cẩn ký; - Toàn bộ 94 bản phác thảo chì thể hiện quá trình tìm tòi và sáng tạo mẫu Quốc huy từ năm 1953 đến 1955; - 15 mẫu Quốc huy thể hiện màu, đã được Ban Mỹ thuật chọn trình Trung ương duyệt vào tháng 10 /1954. - 2 bản vẽ đen trắng (số 16, 17) đã thể hiện các bước chỉnh sửa để dẫn tới bản mẫu cuối cùng (số 18) và hai bản vẽ tách màu đen trắng bản mẫu Quốc huy cuối cùng mà hoạ sĩ Bùi Trang Chước sáng tác giữa năm 1955 chắt lọc từ 15 mẫu trước đó. Theo Di bút “Tôi vẽ mẫu Quốc huy” của hoạ sĩ Bùi Trang Chước viết ngày 26/ 4/1985, tiếp thu những ý kiến đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào mẫu vẽ số 1 - mẫu vẽ cuối cùng trong số 15 mẫu vẽ; “Hình tượng cái đe là thủ công nghiệp cá thể, nên dùng hình tượng tượng trưng cho nền công nghiệp hiện đại” sau 3 lần chỉnh sửa, từ đầu năm 1955 đến tháng 9/1955, hoạ sĩ Bùi Trang Chước đã hoàn thành mẫu Quốc huy cuối cùng gồm 1 bản màu và 2 bản tách màu đen trắng. Về mẫu vẽ Quốc huy cuối cùng này, trong Di bút của mình, Ông Bùi Trang Chước viết: “Mẫu Quốc huy lần này tôi cũng vẽ hình tròn, chung quanh 2 bên có thêm những bông lúa kéo dài lên trên tiếp giáp với nhau ở đỉnh trục đường vòng tròn, 2 bên vẫn giữ những bông lúa rủ xuống vào trong ôm lấy bánh xe thay cho cái Đe, ở phía dưới, giải lụa ở giữa có chữ “Việt Nam dân chủ cộng hoà”, hai đầu giải 17 lụa vẫn quấn lên các bông lúa mỗi bên 2 đoạn, gốc các bông lúa bắt chéo nhau tạo thành đế Quốc huy thót 2 đầu cho gọn. Phía bên trong nền là ngôi sao, dưới ngôi sao để trống cho thoáng, không có mặt trời và tia chiếu sáng chung quanh. Về màu sắc, riêng nền bên trong Quốc huy và giải lụa là màu đỏ, còn các hoạ tiết khác như các bông lúa, ngôi sao và bánh xe đều là màu vàng”. Sau khi hoàn thành bản vẽ mẫu Quốc huy cuối cùng này, do nhiệm vụ đặc biệt và tuyệt mật của Chính phủ giao, ông lên đường sang Trung Quốc để vẽ tiền và in tiền. Chính vì vậy, Ông không có điều kiện chỉnh sửa, hoàn thiện Quốc huy theo sự góp ý của Trung ương sau kỳ họp Quốc hội vào tháng 9/1955. Nhiệm vụ chỉnh sửa, hoàn thiện này sau đó được giao cho hoạ sĩ Trần Văn Cẩn. Một tài liệu lưu trữ rất quan trọng trong Phông Bộ Tuyên truyền là Văn bản số 237/MT ngày 24/11/1954 do chính Hoạ sĩ Trần Văn Cẩn phụ trách Ban Mỹ thuật - Ngành Văn nghệ Trung ương ký, gửi Bộ Tuyên truyền, trong đó cũng khẳng định rõ 15 mẫu mà Ban Mỹ thuật trình Bộ Tuyên truyền là của Họa sĩ Bùi Trang Chước. Văn bản nói rõ: “Khoảng trung tuần tháng 10/54, chúng tôi có gửi sang quí Bộ một số 15 mẫu quốc trưng để quí Bộ đưa trình Thủ Tướng phủ xem và cho ý kiến quyết định. Chúng tôi chờ đợi đã lâu mà chưa có tin tức gì về việc đó. Gần đây Vụ Lễ tân bên Thủ Tướng phủ có cho người dục luôn nên chúng tôi cử hoạ sĩ Bùi Trang Chước, tác giả những mẫu ấy, sang đề nghị quý Bộ cho biết tin tức về các mẫu đã được chọn. Cũng đề nghị quí Bộ trao lại cho hoạ sĩ Chước những mẫu đã gửi để đem về sửa lại và hoàn thành”. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III đã cung cấp cho các cơ quan chức năng và gia đình cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước một tài liệu quan trọng khác từ Phông Quốc hội. Đó là hình mẫu Quốc 18 huy mà Chính phủ đệ trình Quốc hội để thông qua tại kỳ họp thứ 5/1955 (Hồ sơ 18, trang 66). Tài liệu này trong quá trình thẩm định khoa học hình sự đã trở thành tài liệu gốc chuẩn để so sánh đối chiếu với tài liệu của cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước và cố hoạ sĩ Trần Văn Cẩn. Sau nhiều công văn, cuộc họp của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Bộ Văn hoá - Thông tin, Cục Bản quyền tác giả... để giải quyết vấn đề xác định tác giả Quốc huy nhưng vẫn chưa có kết quả. Nguyên nhân là do: về phía gia đình cố hoạ sĩ Trần Văn Cẩn, Uỷ ban toàn quốc các hội văn học nghệ thuật Việt Nam và một số hoạ sĩ căn cứ trên một số tài liệu cho rằng hoạ sĩ Trần Văn Cẩn là tác giả Quốc huy. Về phía gia đình cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước, nhiều hoạ sĩ căn cứ trên những tài liệu, hiện vật gốc về Quốc huy mà gia đình có được cũng như tài liệu khai thác từ Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, cương quyết cho rằng tác giả Quốc huy Việt Nam không thể ai khác ngoài hoạ sĩ Bùi Trang Chước. Chính do còn giữ được nhiều văn bản, tài liệu gốc, gia đình Hoạ sĩ Bùi Trang Chước đề nghị Chính phủ cho phép thẩm định bằng khoa học hình sự những tài liệu, hiện vật gốc liên quan đến Quốc huy Việt Nam. Tháng 6/2003 Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an đã chính thức tiến hành công tác thẩm định và đã trả lời kết quả cho Cục Bản quyền tác giả. Ngày 28/10/2003 Cục Bản quyền tác giả đã thông báo chính thức kết quả giám định khoa học hình sự như sau: “Bản viết tay “Tôi vẽ mẫu Quốc huy” của cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước và bản viết tay “Chúng tôi làm Quốc huy” của cố hoạ sĩ Trần Văn Cẩn là do chính các cố hoạ sĩ viết”. Mẫu phác thảo Quốc huy số 18 của cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước (do gia đình cung cấp) có 04 chi tiết cơ bản giống với mẫu Quốc huy Nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà in trên trang 19 bìa tài liệu có dòng chữ “Quốc hội họp khoá V tháng 9/1955” do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III cung cấp; gồm: hình bông lúa, ngôi sao, dải băng và phần gốc bó lúa; Mẫu phác thảo Quốc huy của cố hoạ sĩ Trần Văn Cẩn (do bà Trần Thị Hồng, người được hưởng thừa kế của cố hoạ sĩ Trần Văn Cẩn và ông Triều Dương cung cấp) có 02 chi tiết cơ bản giống với mẫu Quốc huy Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà in trên trang bìa tài liệu có dòng chữ “Quốc hội họp khoá V tháng 9/1955 “do Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III cung cấp ; gồm: hình ngôi sao và bánh xe hình răng cưa”. Ba tuần sau đó, ngày 19/ 11/2003 bằng Văn bản số 227/BQTG-VHNT, Cục Bản quyền tác giả cho rằng: “Kết quả giám định đó không trái với các nguồn tư liệu, chứng cứ và các ý kiến đã được các thành viên trong tổ Tư vấn và những người có liên quan trao đổi, thảo luận. Kết quả giám định cũng phù hợp với ý kiến của đa số thành viên của Tổ Tư vấn và ý kiến của Bộ Văn hoá - Thông tin, làm rõ hơn căn cứ xác định tác giả Quốc huy Việt Nam. Vì vậy Bộ Văn hoá - Thông tin cho rằng Quốc huy Việt Nam do đồng tác giả sáng tạo gồm cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước và cố họa sĩ Trần Văn Cẩn là kết luận thoả đáng và hoàn toàn có căn cứ. Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định”. Tất nhiên, sau đó gia đình cố hoạ sĩ Bùi Trang Chước không thoả mãn với kết luận đó và tiếp tục đề nghị xem xét lại. Ngày 9/02/ 2004, tại cuộc họp, sau khi nghe đại diện Bộ Văn hoá - Thông tin báo cáo, nghe ý kiến cuả các Phó Thủ tướng và ý kiến của các đại biểu dự họp, Thủ tướng Phan Văn Khải đã có ý kiến kết luận. Ngày 27/02/2004 Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 42/TB-VPCP thông báo ý kiến của Thủ tướng Phan Văn Khải tại cuộc họp về việc xác định tác giả vẽ mẫu Quốc huy 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất