Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở việt nam...

Tài liệu đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở việt nam

.DOCX
21
146
81

Mô tả:

ĐỀ TÀI: “Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam”. Môn học: Kinh tế phát triển Lớp: Kinh tế phát triển 1(114)_4 I. Các khái niệm, bối cảnh trong và ngoài nước cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành. Cơ cấu ngành kinh tế: Tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế,thế hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: Quá trình thay đổi cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều kiện phát triển. Bối cảnh nền kinh tế quốc tế:  Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế thế giới diễn ra không đồng đều giữa các quốc gia, giữa các khu vực, nhóm nước và giữa các thời kì. - Nền kinh tế các nước G7 được phục hồi. - Nền kinh tế Nhật đứng trước những vấn đề nan giải và đòi hỏi phải được cải cách nếu muốn trở lại tăng trưởng với tốc độ cao. - Kinh tế các nước mới CNH như TQ đạt tốc độ rất cao (10%/1năm). - Các nước ASIAN do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính tiền tệ nên tốc độ tăng trưởng chậm lại. 1 - Các nước Mỹ la tinh (3,3%), châu Phi cũng đang được phục hồi (3%). - Kinh tế các nước Đông Âu đặc biệt là Nga bước sang thời kì mới, chấm dứt thời kì suy thoái 10 năm (1.7%).  Thương mại quốc tế tiếp tục gia tăng với tốc độ cao gấp khoảng 2 lần tốc độ tăng trưởng GDP.  Đầu tư quốc tế trên thế giới vẫn tiếp tục gia tăng ở mức độ cao hơn mức độ gia tăng thương mại quốc tế (trên 10%). Với những thay đổi đáng kể trong cơ cấu đầu tư, cơ cấu lĩnh vực đấu tư cũng như tính đa phương đa chiều, đa hình thức của hoạt động đầu tư quốc tế.  Thị trường tài chính toàn cầu phát triển đang đặt ra những vấn đề nghiêm trọng với các quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế.  Trong các hoạt động kinh doanh quốc tế, sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, đồng thời quá trình hợp tác diễn ra ngày càng phong phú hơn.  Các trung tâm kinh tế và cường quốc kinh tế mới được hình thành và phát triển giữ vai trò quyết định trong sự vận động của các quan hệ kinh tế quốc tế, tác động ngày càng mạnh đến quá trình quốc tế hóa thể hiện trên các bình diện toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế TG. Bối cảnh nền kinh tế trong nước: Quá trình đổi mới hơn 20 năm qua, nhất là từ năm 1991, thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế khu vực, quốc tế, thế và lực phát triển của nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi lớn. Kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định, GDP năm sau cao hơn năm trước, tiềm lực kinh tế đã lớn mạnh hơn. Cơ cấu ngành nói riêng và cơ cấu kinh tế nói chung đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hóa, và từng bước hiện đại hóa. 2 Vừa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vừa tiếp tục hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quan hệ kinh tế đối ngoại tiếp tục được củng cố và mở rộng. Khung khổ pháp lý cho hoạt động của các loại thị trường đã dần được bổ sung và hoàn thiện. Cơ chế quản lý mới cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được xác định, tổ chức triển khai sâu rộng luật doanh nghiệp, sửa đổi bổ sung luật thuế, luật đất đai, thị trường hàng hóa sôi động và phát triển nhanh, thị trường lao động có bước phát triển, hệ thống thị trường tiền tệ, tài chính đã phát triển và đạt được kết quả khả quan. Các yếu tố ngoại lực ( vốn, kỹ thuật – công nghệ, tri thức, thị trường) đã trở thành lực lượng quan trọng và kết hợp với yếu tố ngoại lực đã tạo thành sức mạnh tổng hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Những động lực phát triển kinh tế mới đã xuất hiện: cạnh tranh theo nguyên tắc thị trường, các nhu cầu được mở rộng làm mở rộng các cơ hội phát triển, do đó, đã tạo nhiều khả năng lựa chọn các cơ hội phát triển cho xã hội. Tóm lại, bước vào thời kỳ phát triển mới, nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi về thế và lực, cấu trúc kinh tế mới, tiềm lực kinh tế mới, thế phát triển mới, động lực mới, và lực lượng chủ thể mới. II. Các mô hình, lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis. 1. Cơ sở Theo cơ sở là mô hình tăng trưởng của David Ricardo: - Khu vực nông nghiệp có lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô và tiến tới bằng 0. - Lao động trong khu vực nông nghiệp trờ nên càng ngày càng dư thừa => cần mở rộng sang công nghiệp để kinh tế tiếp tục 3 tăng trưởng. 2. Giả định - Nền kinh tế chỉ gồm hai khu vực công nghiệp và nông nghiệp. - Chỉ nghiên cứu quá trình di chuyển lao động giữa hai khu vực. 3. Mô hình  Khu vực nông nghiệp: TPa = f(La,K,T) Với: Lao động (La) thay đổi Vốn (K), công nghệ (T) cố định Khi lao động trong khu vực nông nghiệp tăng từ 0 đến La2 thì tổng sản phẩm của khu vực nông nghiệp tăng từ 0 đến TP2. Đường hàm sản xuất khu vực Tuy vậy mực tăng càng về nông nghiệp sau có xu hướng giảm dần tức là sản phẩm biên của lao động có xu hướng giảm dần theo quy mô. TP2 là mức tổng sản phẩm đạt cao nhất của khu vực nông nghiệp, tại đây người ta đã khai thác và sử dụng hết số và chất lượng ruộng đất. Nếu lao động tiếp tục được bổ sung vào khu vực nông nghiệp thì tổng sản phẩm của khu vực nông nghiệp không thay đổi, tức là MP= 0. 4 Ở hình 2 mô tả đường biểu diễn sản phẩm biên MP và sản phẩm trung bình của lao động khu vực nông nghiệp (APLA). Đường biểu diễn thể hiện mức MPLA = 0 bắt đầu từ điểm LA=LA2 và tại đó mức APLA2=TPA2/LA2=0A. Như vậy khi khu vực nông nghiệp có dư thừa lao động thì mức tiền công trong khu vực nông nghiệp theo mức sản phẩm biển của lao động và Lewis gọi đây là mức tiền công tối thiểu hay mức tiển công đủ sống cho người lao động ở khu vực này. Trong điều kiện có dư thừa lao động thì mọi người lao động trong khu vực nông nghiệp được trả một mức tiền công như nhau và nó chính là mức tiền công tối thiểu, được tính bằng mức sản phẩm trung bình của lao động.  Khu vực hiện đại (công nghiệp) - Khu vực công nghiệp phải lôi kéo được lao động từ nông nghiệp sang. 5 130% WA - Khu vực công nghiệp khi thu hút lực lượng từ nông nghiệp sang cho đến khi khu vực nông nghiệp hết dư thừa lao động. Nếu khu vực công nghiệp vẫn tiếp tục có nhu cầu thu hút thêm lực lượng lao động thì phải trả một mức tiền công ngày càng lớn hơn. Trong tổng thu nhập tạo nên, tỷ lệ để trả lương có xu hướng tăng lên trong khi tỷ lệ lợi nhuận để lại có xu hướng giảm dần  Kết quả là hiện tượng bất bình đẳng về kinh tế có xu hướng giảm đi. Trong trường hợp đó, để giảm sự bất lợi cho công nghiệp, cần phải đầu tư lại cho cả nông nghiệp nhằm tăng năng suất lao động, giảm cầu lao động ở khu vực này. Việc rút lao động từ nông nghiệp ra không làm giảm tổng sản phẩm nông nghiệp, giá nông sản không tăng và sức ép của việc tăng tiền công lao động ở khu vực công nghiệp giảm đi. Trong điều kiện đó thì cả nông nghiệp và công nghiệp đều cần tập trung đầu tư theo chiều hướng áp dụng công nghệ hiện đại. 4. Hạn chế của mô hình. Mô hình của Lewis có những hạn chế, những hạn chế này xuất phát từ chính những giả định do ông đặt ra có thể không xảy ra trên thực tế: - Giả định thứ nhất rằng tỷ lệ lao động thu hút từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn tích lũy của khu vực này. Trên thực tế, khi khu vực công nghiệp thu được lợi nhuận, vốn tích lũy có thể được thu hút và sử dụng vào những ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao và như vậy ý nghĩa của việc giải quyết việc làm cho khu vực nông nghiệp sẽ không còn nữa. Trong điều kiện nền kinh tế mở, sẽ không có gì đảm bảo rằng nhà tư bản công nghiệp khi thu được lợi nhuận chỉ có tái đầu tư trong nước, họ phải tìm nơi đầu tư có lợi nhất và đó rất có thể là đầu tư ra nước ngoài, nơi có giá đầu tư rẻ hơn. 6 - Giả định thứ hai rằng nông thôn là khu vực dư thừa lao động còn thành thị thì không. Trên thực tế thì thất nghiệp vẫn có thể xẩy ra ở khu vực thành thị. Mặt khác khu vực nông thôn cũng có thể tự giải quyết tình trạng dư thừa lao động thông qua các hình thức tạo việc làm tại chỗ mà không cần phải chuyển ra thành phố. - Giả định thứ ba rằng khu vực công nghiệp không phải tăng lương cho số lao động từ nông thôn chuyển sang khi ở đây còn dư thừa lao động. Trên thực tế, ở các nước đang phát triển mức tiền công khu vực công nghiệp vẫn có thể tăng lên kể cả khi ở nông thôn có dư thừa lao động vì khu vực công nghiệp đòi hỏi tay nghề lao động ngày càng cao hơn nên vẫn phải trả một mức tiền công lao động cao hơn. Ở một số nước hoạt động của tổ chức công đoàn rất mạnh nên họ có thể tạo ra những áp lực đáng kể để khu vực công nghiệp phải tăng lương cho người lao động. Mô hình hai khu vực của trường phái tân cổ điển. 1, Quan điểm Đặt khoa học công nghiệp là một yếu tố trực tiếp và mang tính quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Điều này đã giúp họ: - Phê phán quan điểm dư thừa lao động trong nông nghiệp của trường phái cổ điển - Thực hiện những nghiên cứu khác biệt về mối quan hệ công nghiệp với nông nghiệp trong quá trình tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển. 2, Mô hình  Khu vực nông nghiệp - Dưới sự tác động của khoa học công nghệ, yếu tố ruộng đất trong nông nghiệp không có điểm dừng, con người có thể cải tạo và nâng cao chất lượng ruộng đất. 7 Hàm sản xuất: TPA = f(La) - Mọi sự tăng lên của lao động đều dẫn đến tăng sản lượng nông nghiệp (MP > 0). - Sự tăng dân số không phải là hiện tượng bất lợi hoàn toàn và do đó không có lao động dư thừa để có thể chuyển sang khu vực khác mà không làm giảm đầu ra của nông nghiệp - Quy luật lợi nhuận biên giảm dần theo quy mô: Tuy có sự tác động của khoa học công nghệ nhưng đất đai trong nông nghiệp vẫn có dấu hiệu giảm đi về số và chất lượng, nên sản phẩm biên của lao động có chiều hướng giảm dần. Đường hàm sản xuất trong nông nghiệp tân cổ điển. - Mức tiền công lao động trong nông Đường cung lao động trong nghiệp được trả theo mức sản phẩm cận nông nghiệp. biên của lao động Đường cung lao động trong nông nghiệp luôn có xu thế dốc lên, có độ dốc giảm dần theo quy mô gia tăng lao động sử dụng. 8  Khu vực công nghiệp Điều kiện để thu hút lao động: khu vực công nghiệp phải trả một mức tiền công lao động cao hơn mức tiền công của khu vực nông nghiệp. mức tiền công phải trả của khu vực công nghiệp sẽ tăng dần lên theo hướng sử dụng ngày càng nhiều lao động. Mức tiền công khu vực công nghiệp có xu hướng tăng lên do: - Thứ nhất, sản phẩm biên của lao động khu vực nông nghiệp luôn lớn hơn 0, khi chuyển dịch lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp sẽ làm tăng liên tục sản phẩm cận biên của lao động cồn lại trong nông nghiệp, cho nên khu vực công nghiệp phải trả mức tiền công ngày càng tăng. - Thứ hai, khi lao động chuyển khỏ nông nghiệp làm cho đầu ra của nông nghiệp giảm xuống và kết quả là giá cả nông sản ngày càng cao, tạo ra áp lực phải tăng lương cho người lao động. 3, Quan điểm đầu tư - Cần phải đầu tư cả cho nông nghiệp ngay từ đầu chứ không phải chỉ quan tâm đến đầu tư cho công nghiệp. Việc đầu tư cho nông nghiệp phải được thể hiện theo hướng nâng cao năng suất lao động ở khu vực này để mặc dù rút bớt lao động trong nông nghiệp chuyển sang công nghiệp cũng không ảnh hưởng đến sản lượng lương thực, thực phẩm, giá nông sản không tăng, giảm sức ép tăng giá tiền công lao động công nghiệp. - Mặt khác để giảm bớt áp lực, khu vực công nghiệp một mặt, cần đầu tư theo chiều sâu để giảm cầu lao đông; mặt khác, khu vực này cần tập trung đầu tư phát triển sản xuất hàng hóa xuất khẩu để đổi lấy lương thực, thực phẩm nhập khẩu từ nước ngoài về. Điều đó làm cho mặc dù lượng lương thực, thực phẩm sản xuất trong nước có thể giảm đi, nhưng giá nông sản không tăng do được thay thế bằng nông sản nhập khẩu. 9 - Tuy khu vực nông nghiệp không có thất nghiệp nhưng vẫn có biểu hiện trì trệ tương đối so với công nghiệp tức là với một số lượng lao động bổ sung cho nông nghiệp bằng nhau nhưng mức tổng sản phẩm gia tăng có xu hướng ngày càng giảm. Mô hình hai khu vực của Harry T.Oshima 1, Cơ sở - Dựa trên những đặc điểm khác biệt của các nước Châu Á so với các nước Âu – Mỹ, đó là nền nông nghiệp lúa nước có tính thời vụ cao, vào thời gian cao điểm của mùa vụ vẫn có hiện tượng thiếu lao động và lại dư thừa nhiều trong mùa nhàn rỗi. 2, Cách đặt vấn đề - Không đồng ý với Lewis: Nông nghiệp không phải lúc nào cũng dư thừa lao động. - Đồng ý với phải tân cổ điển: Ngay từ đầu cần đầu tư cho cả hai khu vực. - Đồng ý với Ricardo: Một mô hình phát triển phải được bắt đầu từ hiệu suất nông nghiệp hoặc từ khả năng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp để nhập khẩu lương thực.  Quan điểm của trường phái tân cổ điển và hướng thứ 2 trong quan điểm của Ricardo là khó thực hiện được nếu không nói là thiếu thực tế trong điều kiện của các nước đang phát triển.  Phân tích mối quan hệ của hai khu vực trong sự quá độ về cơ cấu từ nền kinh tế do nông nghiệp chiếm ưu thế sang nền kinh tế công nghiệp. 3, Nội dung 10 Oshima đã phân tích quá trình tăng trưởng theo các giai đoạn: (1) Giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng là tạo việc làm cho thời gian nhàn rỗi theo hướng tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp. - Sản xuất nông nghiệp mang nặng tính chất độc canh, nhỏ lẻ phân tán nên lao động thất nghiệp mang tính thời vụ trở nên trầm trọng - Mục tiêu: Giải quyết hiện tượng thất nghiệp thời vụ ở khu vực nông nghiệp. - Biện pháp: đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp, xen canh, tăng vụ trồng thêm rau, quả, cây lấy củ, mở rộng chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi và đánh bắt cá, trồng cây lâm nghiệp. Đồng thời để nâng cao năng suất lao động và hiệu quả các hoạt động khác, khu vực nông nghiệp cần có sự hỗ trợ của Nhà nước về các mặt: Xây dựng hệ thống kênh mương, đập tưới tiêu nước, hệ thống vận tải nông thôn để trao đổi hàng hóa, hệ thống giáo dục và điện khí hóa nông thôn. Theo đó thực hiện cải tiến các hình thức tổ chức sản xuất và dịch vụ ở nông thôn. Trong giai đoạn đầu này, nhu cầu lương thực cho số dân tăng lên là hết sức cần thiết. Việc tăng sản lượng nông sản sẽ giảm sản lượng nhập khẩu hoặc mở rộng xuất khẩu lương thực, thực phẩm. Cả hai trường hợp đều nhằm có thêm ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị cho các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động. Dấu hiệu kết thức giai đoạn này là khi chủng loại nông sản sản xuất ra ngày càng nhiều với quy mô lớn, nhu cầu cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp tăng cao và xuất hiện yêu cầu chế biến nông sản với quy mô lớn nhằm tăng cường tính chất hàng hóa trong snả xuất nông sản đặt ra vấn đề phát triển ngành công nghiệp và thương mại dịch vụ với quy mô lớn. (2) Giai đoạn hai: Hướng tới việc làm đầy đủ bằng cách đầu tư phát triển đồng thời cả nông nghiệp và công nghiệp. 11 - Mục tiêu: Đầu tư phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ theo chiều rộng, cụ thể: + Tiếp tục thực hiện đa dạng hóa sản xuất cây trồng và vật nuôi trong nông nghiệp, thực hiện sản xuất nông nghiệp theo quy mô lớn, xen canh, tăng vụ, nhằm tạo ra khối lượng nông sản hàng hóa ngày càng lớn; + Phát triển các ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, đồ uống, đồ gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ nhằm tăng cường số lượng việc làm và nâng cao tính hàng hóa; phát triển các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất nông cụ thường, nông cụ cầm tay, nông cụ cải tiến cho nông nghiệp, đồng thời phát triển các ngành công nghiệp sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, giống và các yếu tố đầu vào khác cho nông nghiệp. - Để đảm bảo hiệu quả các loại hình phát triển trên đòi hỏi phải có sự hoạt động đồng bộ từ sản xuất vận chuyển, bán hàng đến các dịch vụ hỗ trợ tài chính tín dụng và các ngành có liên quan khác. Cần thiết phải hình thành các hình thức tổ chức sản xuất mang tính liên kết sản xuất giữa công nghiệp, nông nghiệp và cả dịch vụ dưới dạng các trang trại, các tổ hợp sản xuất công – nông nghiệp, nông – công nghiệp – thương mại … Phát triển nông nghiệp tạo điều kiện mở rộng thị trường công nghiệp, tạo yêu cầu tăng quy mô sản xuất công nghiệp cũng như nhu cầu các hoạt động dịch vụ. Khi đó việc di dân từ các khu vực nông thôn đến thành thị để phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ hỗ trợ ngày càng tăng. Dấu hiệu kết thúc giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng việc làm có biểu hiện lớn hơn tốc độ tăng trưởng lao động, làm cho thị trượng lao động bắt đầu bị thu hẹp, tiền lương thực tế tăng lên. (3) Giai đoạn sau khi có việc làm đầy đủ: thực hiện phát triển các ngành kinh tế theo chiều sâu nhằm giảm bớt cầu lao động - Trong nông nghiệp do quy mô nhu cầu việc làm tăng mạnh dẫn tới tiền công ở khu vực này cũng được nhích dần lên với tốc độ ngày càng tăng. Do ưu thế của các ngành này cần vố đầu tư ít vốn, công nghệ dễ học hỏi, thị trường dễ tìm và dễ thâm nhập, có khả năng cạnh tranh ở thị 12 trường ngoài nước làm cho xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh. Khu vực dịch vụ cũng ngày càng mở rộng. Sự tăng trưởng của khu vực dịch vụ nhằm phục vụ sản xuất nông nghiệp, các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Tất cả đã làm cho hiện tượng thiếu lao động trở nên ngày càng phổ biến trong tất cả các ngành và các khu vực của nền kinh tế. Trong giai đoạn này là phải đầu tư phát triển theo chiều sâu trên toàn bộ các ngành kinh tế. Một mặt, trong nông nghiệp cần hướng tới sử dụng máy móc thiết bị thay thế lao động và áp dụng phương pháp công nghệ sinh học nhằm tăng sản lượng. Các máy cày, gặt đập, phun nước, máy bơm, làm cỏ, máy sấy, và các phương tiện vận tải cơ giới ngày càng mở rộng và tiết kiệm thời gian cho người lao động trên đồng ruộng. Trong điều kiện đó khu vực nông nghiệp có khả năng rút bớt lao động để chuyển sang các ngành công nghiệp ở thành phố mà vẫn không làm giảm sản lượng nông nghiệp ở nông thôn. Mặt khác, khu vực công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay thế sản phẩm nhập khẩu và hướng về xuất khẩu với sự chuyển dịch dần về cơ cấu sản xuất sản phẩm. 13 III. Thực trạng và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 1. Thực trạng +) Sự chuyển dịch rõ nhất trong thời gian qua là tỷ trọng trong GDP của nhóm ngành nông, lâm nghiệp - thủy sản giảm xuống, tỷ trọng của 2 nhóm ngành công nghiệp - xây dựng và dịch vụ tăng lên. +) Tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tăng lên phù hợp với tư duy chiến lược. Ngay sau khi an ninh lương thực được bảo đảm, đất nước cơ bản thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, Việt Nam đã chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. +) Tỷ trọng của nhóm ngành dịch vụ trong GDP đã tăng lên và đã chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 3 nhóm ngành. Một vài số liệu so sánh năm 2005 và năm 2013: Năm 2013 so với năm 2005, - Tỷ trọng tăng lên có ngành sản xuất điện khí đốt (từ 3,26% lên 3,4%), - Cung cấp nước và xử lý nước thải, chất thải (từ 0,49% lên 0,52%), - Thương nghiệp (từ 12,23% lên 13,43%), - Ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống (tăng từ 3,21% lên 3,87%), - Ngành hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (tăng từ 5,23% lên 5,53%).  Tác động tới cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực. Tỷ trọng lao động đang làm việc ở nhóm ngành nông, lâm nghiệp đã giảm xuống (từ 55,1% năm 2005 xuống còn 46,9% năm 2013); Tỷ trọng lao động đang làm việc ở hai nhóm ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ đã tăng lên (tương ứng là 44,9% lên 53,6%), Tỷ trọng lao động nhóm ngành dịch vụ tăng khá (tương ứng từ 27,1% lên 32%). Tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp - xây dựng tăng lên phù hợp với tư duy chiến lược. Ngay sau khi an ninh lương thực được bảo đảm, đất nước cơ bản thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, Việt Nam đã chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp - xây dựng nhờ đó đã có sự phát triển liên tục với tốc độ cao, chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (tăng từ 22,67% năm 1990 lên 40,31% năm 2004), trở thành động lực và đầu tàu tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Tỷ trọng của nhóm ngành dịch vụ trong GDP đã tăng lên và đã chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 3 nhóm ngành. Đây là kết quả tích cực được nhận diện dưới các góc độ khác nhau. - Thứ nhất, việc gia tăng tỷ trọng của nhóm ngành dịch vụ như trên phù hợp với chủ trương mở cửa sâu rộng hơn theo cam kết hội nhập với các nước trong khu vực ASEAN (mà thời điểm năm 2015 đã đến rất gần), theo cam kết khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (mà năm 2017 cũng không lâu sau đó), chuẩn bị cho việc ký kết thực hiện Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) trong không bao lâu nữa. - Thứ hai, việc gia tăng tỷ trọng của nhóm ngành dịch vụ trong GDP là xu hướng chung của thế giới. Đối với Việt Nam, việc gia tăng này nhằm khắc phục thứ bậc còn thấp của tỷ trọng này trong khu vực, ở châu Á và thế giới. Trong khu vực, tỷ trọng nhóm ngành dịch vụ trong GDP của Việt Nam thấp, đứng thứ 6/11 nước. Ở châu Á, tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Việt Nam đứng thứ 27/43 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh (thấp hơn cả Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Banladesh, Nepal, Pakistan...). Trên thế giới, tỷ trọng dịch vụ trong GDP của Việt Nam đứng thứ 124/153 nước và vùng lãnh thổ có số liệu so sánh (thấp hơn cả một số nước châu Phi). - Công nghiệp hóa của nhiều nước đang phát triển, của các nước mới nổi... đã bắt đầu xuất hiện những yếu thế trong quan hệ so sánh bất lợi trong điều kiện toàn cầu hoá, thế giới Thứ ba, ưu thế sản xuất hàng hoá, thậm chí trở thành “công xưởng” của thế giới về một mặt hàng hoặc của nhiều mặt hàng nào đó; xu hướng xuất khẩu mạnh về hàng phẳng: xuất siêu về hàng hoá, nhưng lại nhập siêu lớn về dịch vụ. Trong khi đó, các nước phát triển lại nhập siêu lớn về hàng hóa để hưởng giá nhân công rẻ, chuyển việc ô nhiễm trực tiếp sang các nước đang phát triển… và xuất siêu lớn về dịch vụ tài chính bảo hiểm… để tận dụng cơ hội “cánh kéo” tỷ giá… 2. Xu hướng chuyển dịch Xu hướng là tập trung cho nhóm ngành dịch vụ (chiếm trên 50%) và tỷ trọng đầu tư vào công nghiệp - xây dựng có xu hướng tăng lên (bình quân 2006 - 2010 là 41,2%, bình quân 2011 - 2013 đạt khoảng 43,5%). Một số vấn đề cần được quan tâm hơn là: quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, thủy sản là trọng điểm số một. Cùng với đó là tái cơ cấu nông, lâm nghiệp - thủy sản, coi đó là một trọng điểm của tái cơ cấu. Ngoài ra, tái cơ cấu đối với Việt Nam cần quan tâm đến phát triển công nghiệp phụ trợ, giảm tính gia công. IV. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và những giải pháp chủ yếu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. 1. Định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Khuôn khổ chung của các giải pháp chuyển dịch cơ cấu theo hướng thúc đẩy sự phát triển các ngành trọng điểm và mũi nhọn. Bao gồm 3 khối vấn đề lớn: Khối vấn đề thứ nhất : Xác định và ưu tiên những ngành phát triển. Sử dụng một cách tập trung, trong một khoảng thời gian xác định các biện pháp và các khuyến khích thúc đẩy. Khối vấn đề thứ hai: Các khuyến khích về thuế quan như miễn giảm thuế quan cho các thiết bị và nguyên liệu. Các khuyến khích về thuế như miễn giảm thuế công ty. Các khuyến khích tài chính như cung cấp tài chính và tín dụng xuất khẩu dài hạn, lãi suất thấp. Nới lỏng các ràng buộc hạn chế. Hỗ trợ các hoạt động R & D Xác định các mục tiêu và khuynh hướng có triển vọng. Khối vấn đề thứ ba : Sử dụng tối đa cơ chế thị trường. Phối hợp hoạt động và hợp tác giữa nhà nước và khu vực kinh doanh. Hợp tác giữa các tổ chức và thể chế liên quan. Những vấn đề chung a.Lựa chọn hợp lý cơ cấu ngành Nhìn chung các nước Đông á hướng tới các ngành mục tiêu sau: -Các ngành thay thế nhập khẩu nhằm tiết kiệm ngoại tệ cho đất nước. -Các ngành xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. -Các ngành công nghiệp nặng cung cấp nguyên liệu, vaath liệu thô và máy móc (đầu vào cơ bản) cho toàn bộ hệ thống công nghiệp. -Các ngành sản xuất sản phẩm có hàm lượng vốn hoặc kỹ thuật công nghệ cao. -Các ngành xuất khẩu dựa trên công nghệ tiên tiến . -Các ngành đã được lựa chọn để khuyến khích phát triển cần là một số ngành thay thế nhập khẩu và ngành xuất khẩu sử dụng nhiều lao động. Việt Nam có thể đặt nền móng phát triển các ngành công nghệ cao tương đối sớm hơn so với nhiều nước đi trước trong khu vực hoặc những nước có cùng trình độh pát triển thuộc các khu vực khác trên thế giới. b.Tổ chức lại và hình thành cấu trúc thể chế nhằm mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành và thuế, khuyến khích phát triển các ngành ưu tiên. Nước ta giai đoạn 1996 – 2000, vấn đề quan hệ giữa các yếu tố cấu trúc thể chế đặt ra với tính cụ thể và đặc thù cao. Hai nội dung chủ yếu của nó là: -Tiếp tục đổi mới khu vực công cộng. -Phát triển khu vực tư nhân. Trong điều kiện nước ta đa số các yếu tố sản xuất là những nguồn lực khan hiếm. Do vậy, việc áp dụng tối đa cơ chế chạnh tranh sẽ là giải pháp hữu hiệu, cơ bản nhất để thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế một cách hiệu quả. Đương nhiên đây phải là cơ chế cạnh tranh tù do lành mạnh. 2. Các giải pháp chủ yếu a. Các giải pháp về khuyến khích thuế quan. Giải pháp về thuế quan là nhằm mục đích khuyến khích tăng trưởng xuất khẩu ở một số ngành, đồng thời góp phần bảo hộ thị trường nội địa. Trong giai đoạn tiếp theo, nhiệm vụ đầu tiên và cơ bản nhằm cải tiến hệ thống thuế quan là đơn giản hóa hệ thống thuế bằng cách thu gọn các mức thuế trong từng sắc thuế. Giải pháp thuế quan cần được áp dụng là mức độ đánh thuế hàng nhập khẩu cần mang tính chọn lọc và phân biệt cao. Đối với mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu, chế độ thuế quan sẽ có tác dụng khuyến khích phát triển nếu thuế quan đánh vào các hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất, xuất khẩu được thực hiện theo chế độ miễn giảm thuế. Chính phủ bồi hoàn hay trả lại thuế đã đóng cho các doanh nghiệp xuất khẩu chỉ khi chúng thực sự xuất khẩu. Kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á cho thấy một mức thuế thấp luôn đi liền với một tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư quốc nội cao. b. Các khuyến khích tài chính. - Đưa ra các hình thức khuyến khích tín dụng. Cần có quan điểm rõ ràng về mối quan hệ giữa lãi suất dương với độ cao cần thiết của mức lãi suất, cần sửa đổi cơ cấu lãi suất và tạo môi trường tài chính – tiền tệ. Không chỉ duy trì mức lãi xuất dương mà còn cần giữ ở mức cao đủ hấp dẫn các khoản tiết kiệm của dân cư. Thay đổi cơ cấu lãi suất cho phù hợp . - Đưa ra những khuyến khích tài chính cụ thể đối với những mục tiêu của chính sách công nghiệp. Hình thức ưu đãi chủ yếu được áp dụng là ưu đãi khối lượng và thời hạn tín dụng. - Tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp cận đến các nguồn vốn vay nước ngoài. - Về tỷ giá hối đoái: đưa ra các nguyên tắc chung cần có của chính sách tỷ giá hối đoái. Để tránh tình trạng nhập khẩu lạm phát, cần lựa chọn một chế độ tỷ giá linh hoạt hơn để điều chỉnh được IR. Nhưng đó không thể là chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi vì trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển thì chế độ đó chứa đựng nguy cơ bất ổn to lớn, sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến nỗ lực trường kỳ theo đuổi mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu. c. Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Cần kiểm soát và thống kê chặt chẽ các khoản vay thương mại. Định hướng rõ ràng việc sử dụng vốn nước ngoài, kể cả vốn FDI, cho những mục tiêu đã được luận chứng đầy đủ về hiệu quả kinh tế - kỹ thuật. d. Tạo vốn trong nước . - Khuyến khích đầu tư tư nhân trong nước - Nâng cao hiệu quả của việc đầu tư cho các doanh nghiệp trong nước. - Phát triển hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính trong nước. e. Phát triển tối ưu các khu chế xuất (EPZ) khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao. Phát triển EPZ ở nước ta với tư cách là công cụ của chính sách công nghiệp và là một khu công nghiệp hướng về xuất khẩu là một chủ trương đúng đắn cần được khẳng định đậm nét . f. Hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) g. Nâng cao hiệu quả hoạt động phối hợp của bộ máy quản lý. END
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan