1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viêm quanh răng là một bệnh phổ biến trong các bệnh răng hàm
mặt ở nước ta cũng như trên thế giới. Tổ chức y tế thế giới đã khẳng định
"Bệnh quanh răng là bệnh lưu hành rộng rãi. Không có một quốc gia, một
vùng lãnh thổ nào trên thế giới không có bệnh này. Bệnh chiếm một tỷ lệ rất
cao quá nửa số trẻ em và hầu như toàn bộ số người lớn tuổi bị bệnh này" [1].
Theo điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc năm 2001 tỷ lệ người bị viêm
lợi và viêm quanh răng lên tới 90%. Người ta thấy những thương tổn của tổ
chức quanh răng trong đó viêm lợi và viêm quanh răng mạn tính là những
bệnh phổ biến nhất [2], [3], [4].
Bệnh viêm quanh răng tuy không gây nguy hiểm đến tính mạng con
người nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe, đời sống sinh hoạt của con
người và là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mất răng.
Hiện nay người ta coi bệnh viêm quanh răng là bệnh viêm tổ chức chống
đỡ quanh răng gây ra bởi các vi khuẩn gây bệnh trên mảng bám răng, cao
răng trên lợi và dưới lợi. Mục đích của điều trị viêm quanh răng là ngăn chặn
quá trình viêm bằng việc loại bỏ vi khuẩn và các tổ chức hoại tử dưới lợi tạo
điều kiện phục hồi hoă ăc tái tạo lại phần mô quanh răng bị tổn thương [4].
Việc phát minh ra tia laser là một thành tựu trong y học hiện đại. Năm
1960 chiếc laser đầu tiên ra đời do nhà bác học Maiman (Mỹ) chế tạo đã
được ứng dụng đầu tiên trong nhãn khoa. Đến nay laser y học được ứng
dụng khá rộng rãi trong các lĩnh vực chuẩn đoán, điều trị, phẫu thuật. Cũng
như các chuyên ngành khác, laser cũng được ứng dụng điều trị trong nha
khoa. Khi chiếu tia laser có công suất thấp vào một hệ sinh vật như cơ thể
con người, sẽ có những hiệu ứng sinh học xảy ra trên cơ thể đặc trưng cho
sự tương tác giữa laser và tổ chức sống. Đó là những đáp ứng chống viêm,
chống đau, đáp ứng của tổn thương tế bào, đáp ứng tái sinh, đáp ứng của hệ
2
miễn dịch. Với những laser mức năng lượng cao, người ta có thể thực hiê ăn
cắt bỏ tổ chức hoă ăc dùng như dao để rạch tổ chức do làm bốc hơi nước trong
tế bào và ngoài tế bào [5], [6], [7].
Laser diode là loại laser đã được chứng minh có tác dụng kích thích sinh
học với cơ thể sống và tác dụng hơn nữa là loại bỏ các tổ chức hoại tử, vi
khuẩn vì vậy giúp cho quá trình lành thương nhanh hơn [8]. Do laser diode có
hoạt đô nă g gần giống với vùng hồng ngoại, các bước sóng này hấp thụ tốt
những sắc tố ở mô mềm vì thế laser diode có tác dụng tốt trong điều trị các
bê nă h quanh răng. Mặc dù việc lấy cao răng và làm nhẵn chân răng là tiêu chuẩn
vàng trong điều trị viêm quanh răng mãn tính, ngày càng có nhiều bằng chứng
thuyết phục rằng điều trị hỗ trợ với laser diode sẽ cho kết quả tốt hơn và kéo dài
hơn. Một số nghiên cứu cho thấy rằng, sau khi lấy cao răng và làm nhẵn bề mặt
chân răng, vẫn còn một số loại vi khuẩn gây bệnh và độc tố của vi khuẩn tồn tại
trong mô quanh răng. Kết quả phân tích thành phần vi khuẩn trong túi quanh
răng sau khi điều trị bằng laser cho thấy giảm đáng kể các loại vi khuẩn đặc hiệu
gây bệnh quanh răng [9]. Ngoài ra laser diode có nhiều ưu điểm là cấu tạo gọn
nhẹ, thao tác đơn giản và không có cảm giác đau đớn sau điều trị [10].
Trên thế giới, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sử dụng laser
điều trị bệnh viêm quanh răng, nhưng ở nước ta có rất ít đề tài nghiên cứu
về vấn đề này. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá
hiệu quả điều trị bệnh viêm quanh răng mạn tính bằng phương pháp
sử dụng laser diode" với hai mục tiêu sau:
1.
Nhận xét đặc điểm lâm sàng, Xquang của nhóm bệnh nhân viêm quanh
răng mạn tính tại Bệnh viện Răng hàm mặt Trung ương Hà Nội.
2.
Đánh giá hiệu quả điều trị viêm quanh răng mạn tính bằng phương
pháp sử dụng laser diode của những đối tượng trên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Đại cương
Vùng quanh răng bao gồm lợi, dây chằng quanh răng, xương răng và
xương ổ răng.
1.1.1. Lợi
Hình 1.1. Cấu tạo vùng quanh răng [1]
Là phần niêm mạc biệt hóa bám vào cổ răng, xương răng và một phần xương
ổ răng, niêm mạc lợi giống niêm mạc hàm ếch. Lợi được giới hạn ở trên là bờ lợi,
phía cuống răng là ranh giới lợi - niêm mạc miệng.
a. Giải phẫu lợi:
Lợi được chia làm hai phần:
- Lợi tự do: Bao gồm nhú lợi và đường viền lợi
+ Nhú lợi: Là phần lợi che kín các kẽ răng, có một nhú phía ngoài và một
nhú phía trong, giữa hai nhú là một vùng lõm.
4
+ Đường viền lợi: Không dính vào răng mà ôm sát vào cổ răng với chiều
cao khoảng 0,1mm. Mặt trong đường viền lợi là thành ngoài của rãnh lợi có
phủ một lớp biểu mô mỏng.
- Lợi dính: Lợi bám dính vào chân ngà và xương ổ răng. Mặt ngoài của lợi
dính cũng được phủ bởi lớp biểu mô sừng hóa. Mặt trong có hai phần: phần
bám vào chân răng khoảng 1,5 mm và phần bám vào mặt ngoài xương ổ răng.
b. Cấu trúc vi thể lợi:
Gồm hai phần: Biểu mô và tổ chức liên kết đệm
- Biểu mô lợi: Có ba loại
+ Biểu mô sừng hóa: Phủ ở vùng lợi dính và mặt ngoài lợi tự do.
+ Biểu mô không sừng hóa: Phủ mặt trong lợi tự do.
+ Biểu mô bám dính: Cũng là biểu mô không sừng hóa nhưng nằm ở đáy
rãnh lợi và bám dính vào cổ răng chỗ nối men, xương răng.
- Tổ chức liên kết đệm: Có nhiều sợi tạo keo, ít sợi chun và xếp thành
từng bó nối các hướng khác nhau tạo nên một hệ thống sợi của lợi.
Ta chia các bó sợi của lợi thành các nhóm sau:
Các bó răng – lợi, các bó răng – màng xương, các bó xương ổ răng - lợi
các bó vòng và nửa vòng, các bó liên lợi và ngang lợi, các bó liên nhú, các bó
màng xương – lợi, các bó ngang vách.
c. Mạch máu và thần kinh ở lợi:
Mạch máu: Lợi có hê ă thống mạch máu rất phong phú. Các nhánh của
đô nă g mạch ổ răng đến lợi xuyên qua dây chằng quanh răng và vách giữa các
răng. Những mạch máu khác băng qua mă ăt ngoài hay mă ăt trong, xuyên qua
mô liên kết trên màng xương để vào lợi, nối với những đô nă g mạch khác từ
xương ổ răng và dây chằng quanh răng.
Thần kinh chi phối vùng lợi là những nhánh thần kinh không có bao
myelin chạy trong mô liên kết, chia nhánh tới tâ ăn lớp biểu mô.
5
d. Dịch lợi:
Bình thường chỉ có ít dịch lợi, dịch lợi tăng lên khi lợi viêm, nó làm tăng
cường thực bào và các phản ứng kháng nguyên, kháng thể. Thành phần của
dịch lợi cũng gồm các thành phần giống như trong huyết thanh nhưng có sự
khác biê ăt về tỷ lê ă giữa các thành phần 1[ 1], [12].
1.1.2. Dây chằng quanh răng
Là mô liên kết đặc biệt nối liền răng với xương ổ răng, chiều dày thay
đổi tùy theo tuổi hoặc theo chức năng từng vùng, thường dày từ 0,15 đến 0,35
mm. Dây chằng quanh răng gồm những sợi keo sắp xếp thành những bó sợi,
một đầu bám vào xương ổ răng, một đầu bám vào xương răng của chân răng
(chỗ bám này gọi là dây chằng Sharpey).
a. Dựa vào hướng đi của dây chằng người ta chia ra các nhóm:
+ Nhóm cổ răng: Gồm những bó sợi đi từ mào xương ổ răng đến xương
răng gần cổ răng.
+ Nhóm ngang: Gồm những bó sợi đi từ xương răng đến xương ổ răng
theo hướng vuông góc với trục của răng.
+ Nhóm chéo: Gồm những bó sợi đi từ xương ổ răng chạy chếch xuống
dưới và vào trong để bám vào xương răng. Nhóm này chiếm số lượng nhiều
nhất trong dây chằng quanh răng có tác dụng chống lại sức nén của lực nhai.
+ Nhóm cuống răng: Gồm những bó sợi đi từ xương răng ở cuống răng
tỏa ra như nan quạt để bám vào xương ổ răng vùng cuống răng.
+ Đối với răng nhiều chân còn có những sợi đi từ kẽ hai hoặc ba chân
đến dính vào vách giữa của xương ổ răng nhiều chân ấy.
- Chất cơ bản của dây chằng quanh răng: Proteoglycans và glycoprotein
giống trong tổ chức liên kết riêng. Trong vùng kẽ là các tế bào tạo xương răng, tạo
cốt bào, hủy cốt bào, những tế bào biểu mô còn sót lại của bao Hertwig và vùng kẽ
còn có mạch máu, thần kinh.
6
b. Mạch máu:
Hê ă thống mạch máu được cung cấp từ 3 nguồn:
- Các nhánh từ đô nă g mạch răng: ngay trước khi đi vào lỗ cuống răng, chúng
tách ra nhánh đi về phía thân răng qua dây chằng quanh răng và đến mô lợi.
- Các nhánh của đô nă g mạch liên xương ổ răng và trên chân răng: đi qua lỗ
phiến sàng vào dây chằng quanh răng.
- Các nhánh của đô nă g mạch màng xương: Đi về phía thân răng qua niêm mạc
mă tă ngoài và mă tă trong của xương ổ răng để đến lợi và nối với hê ă thống mạch
máu quanh răng qua lợi.
c. Mạch bạch huyết:
Giống như mạch máu, mạch bạch huyết của dây chằng quanh răng tạo thành
mô tă mạng lưới dày đă că trông như mô tă cái giỏ, nối tiếp với bạch huyết của lợi và
của vách xương ổ răng.
d. Thần kinh:
Dây chằng quanh răng chịu sự chi phối của hai nhóm sợi thần kinh: mô tă
nhóm thuô că hê ă thống thần kinh cảm giác và mô tă nhóm thuô că hê ă thống thần kinh
giao cảm [11], [12].
1.1.3. Xương răng
Là một dạng đặc biệt của xương, trong đó thành phần vô cơ và hữu cơ
chiếm một tỷ lệ ngang nhau. Xương răng bao phủ chân răng, xương răng
được hình thành trong quá trình hình thành chân răng do sự tham gia của tế
bào tạo xương răng. Chiều dày của xương răng thay đổi tùy người.
Về mặt cấu trúc người ta chia ra hai loại xương răng: Xương răng không
có tế bào và xương răng có tế bào.
- Xương răng không có tế bào: Là lớp đầu tiên được tạo ra trong quá
trình tạo ngà chân răng. Những xương răng này đọng ở ngay cổ răng nối tiếp
men răng và vùng trên chân răng - gọi là xương răng tiên phát.
7
- Xương răng có tế bào: Là xương răng thứ phát phủ lên chân răng. Xương răng
có tế bào phủ 1/3 dưới chân răng và cuống răng, chỗ phần nhánh của chân răng.
Xương răng có tầm quan trọng đă că biê tă về chức năng: là chỗ bám cho dây
chằng quanh răng, nối răng vào xương ổ răng, bảo vê ă ngà chân răng [11].
1.1.4. Xương ổ răng
Là phần lõm của xương hàm để giữ chân răng, nó là một phần của xương
hàm, gồm có lá xương thành trong huyệt ổ răng và tổ chức xương chống đỡ
xung quanh huyệt răng.
- Lá xương thành trong huyệt ổ răng: Là một lá xương mỏng gọi là lá
cứng. Lá cứng có nhiều lỗ qua đó bó mạch và thần kinh đi từ xương hàm tới
mang dinh dưỡng cho răng và quanh răng.
- Tổ chức xương chống đỡ xung quanh ổ răng: Xương vỏ ở ngoài và
trong là tổ chức xương đặc và xương xốp.
+ Lớp xương vỏ được màng xương che phủ. Cấu trúc lớp xương vỏ được
màng xương che phủ. Cấu trúc lớp xương vỏ nhìn chung giống như các
xương đă ăc khác, bao gồm các hê ă thống Havers. Lớp xương vỏ hàm dưới dày
hơn lớp xương vỏ hàm trên.
+ Xương xốp: Nằm giữa các thành xương ổ răng và giữa các lá sàng.
Bao gồm mô ăt mạng lưới bè xương mỏng, xen giữa các khoang tủy chủ yếu
lấp đầy tủy mỡ.
Các tế bào chịu trách nhiê ăm tái cấu trúc:
* Tạo cốt bào
* Tế bào xương non
* Tế bào xương trưởng thành
* Hủy cốt bào [11], [12].
8
1.2. Bệnh viêm quanh răng
1.2.1. Khái niệm
Viêm quanh răng là bệnh viêm nhiễm mô nâng đỡ răng do vi khuẩn đặc
hiệu gây ra, dẫn đến phá hủy dây chằng quanh răng, xương ổ răng với sự
thành lâ pă túi lợi bệnh lý, tụt lợi hay cả hai.
- Viêm quanh răng mạn tính được coi là bệnh do mảng bám răng tích tụ
nhiều tại chỗ, cao răng và thường có tốc độ tiến triển chậm [4].
1.2.2. Cơ chế bệnh sinh viêm quanh răng
Vấn đề cơ chế bệnh sinh viêm quanh răng, từ lâu người ta nhận thấy rằng
có sự ảnh hưởng qua lại của các yếu tố toàn thân tại chỗ và các tác nhân từ
bên ngoài đối với sự xuất hiện và tiến triển của bệnh [13], [14]. Tuy nhiên ở
từng giai đoạn khác nhau có những giả thuyết khác nhau về cơ chế bệnh sinh
của bệnh. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, người ta nhận thấy vai trò của
vi khuẩn với men và độc tố trong quá trình phá hủy tổ chức quanh răng [15].
1.2.2.1. Mảng bám răng: Cho đến nay người ta cho rằng mảng bám răng là
tác nhân ngoại lai quan trọng nhất trong bệnh sinh của bệnh quanh răng.
Mảng bám răng chứa đầy vi khuẩn, nó có cấu trúc phức tạp.
Sự hình thành màng vi khuẩn thường trải qua hai giai đoạn:
- Giai đoạn đầu: Là sự hình thành màng vô khuẩn có nguồn gốc nước bọt
carbolhydrate hay men neuraminidase tác động lên axit sialic của mucin nước
bọt làm cho nó kết tủa lắng đọng trên bề mặt răng và hình thành màng vô
khuẩn, trên đó vi khuẩn sẽ xâm nhập và phát triển hình thành mảng bám vi
khuẩn sau 2h. Về mặt cấu trúc, mảng bám răng là một mảng vi khuẩn tụ tập
các loại vi khuẩn sống và chết trong một chất tủa hữu cơ có nguồn gốc vi
khuẩn polysaccharide và glycoprotein với tỷ lệ 70% là vi khuẩn, 30% là chất
tủa hữu cơ hay còn là chất gian khuẩn. Trung bình 1mm 3 mảng bám răng có
108 vi khuẩn bao gồm 200 loại khác nhau.
9
Tùy theo vị trí người ta phân biệt mảng bám trên lợi và mảng bám dưới lợi:
- Mảng bám trên lợi lúc đầu hình thành mảng bám có ít vi khuẩn, chủ
yếu là các tế bào bong của niêm mạc miệng. Sau đó vi khuẩn tiếp tục tích tụ
lại có tới 90% là cầu khuẩn và trực khuẩn Gr(+), 10% là cầu khuẩn Gr(-).
Mảng bám răng có vi khuẩn yếm khí và trực khuẩn Gr(+) tăng, khởi điểm cho
tổ chức viêm nhận thấy trên lâm sàng.
- Mảng bám dưới lợi: Theo Lisgartein cho rằng lợi phù nề gây ra bởi sự
khởi động phản ứng viêm ở lợi, làm cho bờ lợi phủ một phần mảng bám răng
của mảng bám trên lợi, mảng đó tiếp tục một cách độc lập phát triển với sự
tham gia của dịch túi [16], [17].
* Khả năng gây bệnh của mảng bám răng:
- Tác động trực tiếp: Các vi khuẩn sản sinh ra các men và nội độc tố,
những sản phẩm đào thải của vi khuẩn trong quá trình sống như NH3, ure,
sunfur… làm thay đổi môi trường pH từ đó tác động lên muối vô cơ của nước
bọt, gây nên hiện tượng lắng đọng canxi tạo thành cao răng và thường xuyên
kích thích gây viêm lợi.
- Tác động gián tiếp: Do tính chất kháng nguyên của mảng vi khuẩn,
người ta cho rằng những sản phẩm của vi khuẩn, độc tố, những khoáng
nguyên và yếu tố phân bào khuếch tán qua biểu mô lợi và khởi động qua
những phản ứng miễn dịch tại chỗ cũng như toàn thân mà những phản ứng
này có thể gây ra tự phá hủy những tổ chức vùng quanh răng [16], [17].
1.2.2.2. Cao răng
Cao răng về bản chất được khoáng hóa từ mảng bám. Cao răng được cấu
tạo bởi hai thành phần:
+ Thành phần hữu cơ: Vi khuẩn và chất gian khuẩn
+ Thành phần vô cơ: CaCO3, canxi phosphat…
Cao răng bám vào chân răng và răng dẫn đến tình trạng lợi mất chỗ bám
dính gây tụt lợi, rãnh lợi gây viêm.
10
- Tùy theo vị trí mà người ta chia ra:
+ Cao răng trên lợi: Dễ nhìn thấy, thường có màu vàng, hay xuất hiện ở
nơi đối diện với lỗ đổ của tuyến nước bọt dưới hàm. Vị trí hay gặp là mặt
trong của răng cửa hàm dưới và mặt ngoài R6 trên. Cao răng trên lợi còn gọi
là cao răng nước bọt. Những người vệ sinh răng miệng kém, ít ăn nhai hoặc
răng chen chúc làm gia tăng tỷ lệ cao răng.
+ Cao răng dưới lợi: Thường khó phát hiện khi nhìn thông thường, thấy
rõ khi lợi bong ra khỏi cổ răng. Cao răng dưới lợi thường có màu nâu sậm đến
xanh đen và cứng hơn răng trên lợi [4], [16].
1.2.2.3. Ngoài ra còn một số yếu tố tại chỗ khác
- Sang chấn khớp cắn: Do lệch lạc, răng mọc lệch, trám răng và phục
hình sai. Sang chấn không gây ra viêm nhưng gây tiêu xương ổ răng.
- Sai lệch về giải phẫu: Lưỡi lớn, phanh môi, má bám thấp, hình thể răng
bất thường... [18].
1.2.2.4. Vi khuẩn trong viêm quanh răng
Vào đầu thế kỷ 20 các nhà nghiên cứu cho rằng vi khuẩn đóng vai trò
quan trọng trong sinh bê nă h học viêm quanh răng. Sự tích tụ của các vi khuẩn
trong mảng bám răng sẽ gây viêm và quá trình viêm này sẽ làm phá hủy tổ
chức quanh răng. Vai trò gây bê nă h của vi khuẩn đã được chứng minh từ
những công trình nghiên cứu của Loe (1965). Đă ăc biê ăt là từ năm 1970 những
nghiên cứu của các tác giả Moore và cô nă g sự cho thấy có sự liên quan chă ăt
chẽ giữa vi khuẩn ở mảng bám răng với bê ănh của tổ chức quanh răng và mức
đô ă trầm trọng của bê nă h có nghĩa là hê ă tạp khuẩn của những người bị viêm
quanh răng mạn khác với những người bị viêm quanh răng tiến triển, viêm lợi
cũng như khác với hê ă tạp khuẩn của người lành [4], [15].
Có nhiều nghiên cứu cho thấy viêm quanh răng mạn tính có liên quan
với các loài vi khuẩn đă că hiê ău.Trong viêm quanh răng mạn tính các vi khuẩn
11
được phân lâ pă với tỷ lê ă cao là Porphyromonas gingivalis (P.g), Bacteroides
forsythus, Prevotella intermedia, Wolinenella recta, Peptostreptococcus micros và
1/3 số lượng bê nă h nhân bị viêm quanh răng nă nă g có chứa vi khuẩn
Actinobacillus actinomycetemcomitans (A.a) [18]. Theo Nguyễn Thị Hồng
Minh, tỷ lê ă dương tính với P. gingivalis, T. forsythensis, F. nucleatum và P.
intermedia ở nhóm viêm quanh răng lần lượt là 17,6%, 82,4%, 11,8% và 26,6%.
100% trường hợp dương tính với P. gingivalis đều có viêm quanh răng [19].
P. gingivalis là loại vi khuẩn Gr(-) yếm khí, được coi là tác nhân gây bê nă h
quan trọng vào bâ că nhất. P. gingivalis cũng có khả năng xâm nhâ pă sâu vào tổ
chức liên kết vùng quanh răng nên có khả năng gây tái phát bê nă h rất cao [20].
A. actinomycetemcomitan là loại vi khuẩn gr(-) ái khí, hiê ăn diê ăn chủ
yếu ở các túi quanh răng sâu [21].
Cả P.g và A. a có khả năng tấn công các tế bào tự bảo vê ă của cơ thể, có
liên quan với thể tiến triển của viêm quanh răng mạn tính [22].
1.2.3. Phân loại bệnh viêm quanh răng
Viê ăc phân loại bê nă h quanh răng có ý nghĩa quan trọng trong viê ăc chẩn
đoán và điều trị. Có nhiều cách phân loại bệnh quanh răng nhưng theo xu
hướng chung và các quan điểm hiê ăn tại, người ta chia các bê ănh quanh răng ra
làm hai loại chính là các bê nă h của lợi và các bê nă h cấu trúc nâng đỡ răng.
a. Phân loại theo WHO năm 1999: Chia thành 8 nhóm bệnh
- Các bệnh lợi
+ Do mảng bám răng
+ Không do mảng bám răng
- Viêm quanh răng mạn tính
+ Thể khu trú
+ Thể toàn bộ
12
- Viêm quanh răng tiến triển
+ Thể khu trú
+ Thể toàn bộ
- Viêm quanh răng như là biểu hiện của bệnh toàn thân
+ Do các rối loạn về máu
+ Do các rối loạn di truyền
- Các bệnh quanh răng hoại tử
+ Viêm lợi loét hoại tử
+ Viêm quanh răng loét hoại tử
- Viêm quanh răng kết hợp với sang thương nội nha
- Apce quanh răng
+ Áp xe lợi
+ Áp xe quanh răng
+ Áp xe quanh thân răng
- Những dị dạng do mắc phải hay do phát triển [23].
b. Phân loại theo viện hàn lâm bệnh học quanh răng Mỹ (APP) 1999
Bệnh vùng quanh răng có: Viêm lợi và viêm quanh răng.
Trong viêm quanh răng chia thành:
- Viêm quanh răng mãn tính ở người lớn.
- Viêm quanh răng tiến triển nhanh ở người lớn có thể do sai sót về phản
ứng miễn dịch.
- Viêm quanh răng cấp vị thành niên.
- Viêm quanh răng cấp trước tuổi dậy thì thường do sai sót về phản ứng
miễn dịch.
Trong đó viêm quanh răng ở người lớn lại chia thành 3 giai đoạn:
+ Viêm quanh răng sớm (APP II): Có túi lợi bênh lý trên 3 mm, mất bám
dính trên 2 mm, tiêu xương ổ răng ít, răng chưa lung lay.
+ Viêm quanh răng mãn (APP III): Túi sâu 4-5 mm, mất bám dính trên 4
mm, tiêu xương ổ răng rõ ràng luôn luôn độ 1.
13
+ Viêm quanh răng tiến triển (APP IV): Túi > 5 mm, tiêu xương ổ răng
nhiều, răng lung lay độ 2, 3 [24].
Viêm quanh răng mạn tính có đă ăc điểm sau (Flemming 1999):
+ Bê nă h thường gă pă ở người trưởng thành
+ Có biểu hiê ăn viêm lợi mạn tính
+ Có túi lợi bê ănh lý và mất bám dính quanh răng
+ Răng lung lay ở các mức đô ă khác nhau
+ Có nhiều mảng bám, cao răng trên lợi và dưới lợi.
+ Có hình ảnh tiêu xương ổ răng trên phim XQ
+ Mức đô ă phá hủy xương phù hợp với sự hiê ăn diê ăn của các yếu tố tại
chỗ
+ Tốc đô ă phát triển châ ăm hoă ăc trung bình nhưng cũng có những thời kì
tiến triển nhanh [25].
1.2.4. Các tổn thương vùng quanh răng trong viêm quanh răng
a. Túi lợi bệnh lý:
- Rãnh lợi là một rãnh nông quanh răng được tạo bởi bề mặt chân răng
trong, lớp biểu mô lót của lợi tự do ở ngoài và đáy là lớp biểu mô bám dính răng
lợi bình thường có độ sâu từ 0,5 đến 2 mm, trong rãnh lợi có chứa dịch lợi.
Trong quá trình bệnh lý, lớp biểu mô bám dính bị phá hủy và dịch
chuyển phía chân răng, kết hợp với sự phá hủy tổ chức quanh răng làm cho
rãnh lợi sâu xuống tạo thành túi trong có chứa các tổ chức hoại tử và mảng
bám vi khuẩn gọi là túi lợi bệnh lý (hay còn gọi là túi quanh răng). Trên lâm
sàng, độ sâu túi lợi bệnh lý chỉ phản ánh mức độ trầm trọng của bệnh mà
không đánh giá được mức độ hoạt động của bệnh. Mức giảm đô ă sâu túi quanh
răng có thể cho phép đánh giá hiê ău quả của viê ăc điều trị bê nă h.
Tùy theo các thể tiêu xương ổ răng mà chia ra túi lợi bệnh lý trên xương
tạo ra do quá trình tiêu xương ngang và túi lợi bệnh lý trong xương tạo ra do
14
quá trình tiêu xương dọc và tiêu xương chéo [26], [27].
b. Tiêu xương ổ răng:
- Tiêu xương ổ răng là đặc điểm quan trọng nhất của bệnh viêm quanh
răng vì mức độ tiêu xương ổ răng phản ánh tình trạng tiến triển của bệnh.
Mảng bám răng và thành phần vi khuẩn gây bệnh cho nó tích tụ trong túi lợi
bệnh lý, giải phóng lipopolysaccaride và các sản phẩm chuyển hóa vào rãnh
lợi làm ảnh hưởng đến cả tế bào miễn dịch cũng như các tạo cốt bào. Các yếu
tố IL-1α, IL-1β, IL-6, Prostaglandin E2 được tạo nên bởi các vi khuẩn làm tăng
quá trình hình thành các tế bào hủy xương, hoạt hóa hủy cốt bào và ức chế chức
năng của tạo các tế bào tạo xương, ức chế chức năng của các tế bào này và kết
quả là gây quá trình tiêu xương [28].
Trên lâm sàng, mức độ tiêu xương ổ răng được phản ánh gián tiếp qua độ
mất bám dính lâm sàng và mức độ lung lay răng. Trên phim X - quang, chiều
cao của mào xương ổ răng bình thường ở dưới các đường nối men - xương
răng từ 0,5 đến 1 mm. Hình ảnh trên phim X - Quang cho phép đánh giá
tương đối lượng xương bị tiêu và dạng tiêu xương [26].
Tiêu xương được chia làm 2 thể:
- Tiêu xương ngang: là tiêu mào xương ổ răng. Trên phim XQ: thể hiê nă
bằng các hình ảnh như phẳng, lõm hình đáy chén, lõm hình đĩa. Khi khám thấy
túi quanh răng trên xương có nghĩa là đáy túi nằm trên mào xương ổ răng.
- Tiêu xương chéo: là tổn thương lá cứng nhiều hơn. Khi khám thấy túi
quanh răng trong xương, đáy túi nằm thấp hơn về phía cuống răng so với mào
xương ổ răng liền kề, túi nằm giữa chân răng và xương ổ răng.
Trên thực tế có thể thấy tiêu xương đơn thuần là tiêu xương ngang hoă ăc
chéo nhưng cũng có thể kết hợp cả hai.
c. Mất bám dính quanh răng lâm sàng:
Mức mất bám dính quanh răng lâm sàng là khoảng cách từ đường nối
men - xương răng đến đáy túi lợi. Mất bám dính quanh răng lâm sàng là yếu
tố quan trọng để đánh giá mức độ phá hủy tổ chức quanh răng và gián tiếp
15
phản ánh mức độ tiêu xương ổ răng [24].
d. Tổn thương chẽ chân răng:
Quá trình tiêu xương ở răng nhiều chân sẽ tạo ra một vấn đề đặc biệt đó là
tổn thương vùng chẽ giữa các chân răng. Thường thì quá trình tiêu xương, áp
xe quanh răng, mất bám dính quanh răng và tăng độ sâu túi lợi bệnh lý nhanh
thường có liên quan đặc biệt với hở chẽ chân răng [24], [27].
e. Răng lung lay hoặc di lệch:
Lung lay răng hoặc di lệch răng bệnh lý là một triệu chứng của viêm quanh
răng nặng tiến triển. Sang chấn khớp cắn cũng làm tăng độ lung lay răng trong
VQR. Thêm vào đó là sang chấn khớp cắn do hậu quả của quá trình di lệch răng
trong VQR cũng làm răng lung lay nhiều hơn [16], [24].
1.2.5. Điều trị viêm quanh răng
Tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh mà có thể điều trị bằng phương
pháp bảo tồn hay phương pháp phẫu thuật.
a. Điều trị bảo tồn:
Bao gồm điều trị khởi đầu, điều trị duy trị và kháng sinh tại chỗ, toàn thân
* Điều trị khởi đầu: Do viêm quanh răng mạn tính nguyên nhân chủ yếu
là do mảng bám răng nên các phương pháp điều trị tại chỗ rất quan trọng [29].
Điều trị khởi đầu bao gồm các biện pháp điều trị tại chỗ
- Loại bỏ kích thích tại chỗ: [30]
+ Lấy sạch cao răng và mảng bám răng
+ Kiểm soát mảng bám răng:
* Hướng dẫn vệ sinh răng miệng
* Chải răng
* Các biê ăn pháp làm sạch kẽ răng
Dùng chỉ tơ nha khoa
Dùng bàn chải kẽ răng
Dùng tăm nước
16
* Làm sạch kẽ răng bằng phương pháp hóa học: dùng nước xúc miê ăng
chlohexidin
+ Loại trừ các yếu tố tại chỗ khác: Các yếu tố này thuận lợi cho việc hình
thành và tích tụ mảng bám răng như hàn các răng sâu, sửa lại các răng hàn
hoặc cầu chụp sai quy cách, sửa chữa khoảng cách lệch lạc hay phẫu thuật cắt
phanh môi, má bám thấp.
-
Kích thích hoạt hóa hệ thống tuần hoàn tổ chức quanh răng:
Xoa nắn lợi: xoa bằng tay hoặc bằng bàn chải có cao su góp phần cải
thiện tuần hoàn máu, tăng cường sức đề kháng, làm dầy lớp biểu mô, tăng
sừng hóa.
Phun nước dưới áp lực
Lý liệu pháp tại chỗ
* Điều trị duy trì: tái khám định kỳ ít nhất 6 tháng 1 lần để kiểm tra về:
- Mảng bám răng và cao răng
- Tình trạng lợi: tình trạng túi lợi và viêm lợi
- Tình trạng khớp cắn
- Mức đô ă lung lay răng
- Các thay đổi bê ănh lý khác [30], [31].
* Điều trị toàn thân
- Viêm quanh răng mạn tính được coi là một bệnh nhiễm khuẩn nên
ngoài việc loại bỏ các kích thích tại chỗ còn kết hợp với kháng sinh tại chỗ và
toàn thân. Việc dùng kháng sinh làm cải thiện tốt một vài chỉ số lâm sàng, đặc
biệt giảm độ sâu túi lợi và giảm chảy máu khi thăm dò [32].
- Chống viêm bằng đường toàn thân
- Giải mẫn cảm
- Tăng cường sức đề kháng của cơ thể và kích thích phản ứng của cơ thể
17
Điều trị toàn thân được dùng để bổ sung cho các biê ăn pháp tại chỗ và
dùng với các mục tiêu riêng như sau:
+ Kiểm soát các biến chứng toàn thân trị nhiễm trùng cấp
+ Hóa trị liê ău để ngăn ngừa các ảnh hưởng có hại của nhiễm trùng máu
sau điều trị.
+ Liê ău pháp dinh dưỡng hỗ trợ.
+ Kiểm soát các bê nă h toàn thân mà làm nă ăng thêm tình trạng quanh
răng
+ Trường hợp viêm quanh răng là biểu lô ă của bê ănh toàn thân thì phải
điều trị các bê nă h toàn thân phối hợp các biê ăn pháp điều trị tại chỗ 3[ 0].
b. Điều trị phẫu thuật
Là việc sử dụng các kỹ thuật giúp cho việc loại bỏ yếu tố bệnh sinh và
mô bệnh lý, tăng khả năng lành thương của mô quanh răng bằng việc hình
thành tái bám dính.
Theo quan điểm chung, điều trị bảo tồn có thể thực hiện được ở những
túi lợi bệnh lý nông. Khi các túi sâu (> 5,5 mm) hoặc viêm quanh răng tiến
triển thì hiệu quả không cao, không giải quyết được triệt để. Vì vậy phương
pháp phẫu thuật được thực hiện để cải thiện môi trường quanh răng, hỗ trợ
cho việc loại bỏ yếu tố căn nguyên và bệnh lý.
Các phương pháp phẫu thuâ ăt khác nhau như: nạo túi lợi, cắt lợi, phẫu
thuâ ăt lâ ăt vạt, ghép xương ổ răng và ghép lợi tự do, phẫu thuâ ăt tái sinh mô có
hướng dẫn…[33].
1.3. Kết quả điều trị bằng Laser
1.3.1. Khái niệm
- Laser: Viết tắt của cụm từ tiếng Anh "Light Amplification by
Stimulated Emission of Radiation" có nghĩa là "khuếch đại ánh sáng bằng bức
xạ kích thích".
- Tia laser, sản phẩm của thiết bị này, có bản chất ánh sáng, nhưng là một
18
ánh sáng đặc biệt.
1.3.2. Lịch sử và sự hình thành ngành y học laser
- Năm 1917, nhà vật lý thiên tài người Đức là Albert Einstein đã phát
minh ra hiện tượng phát xạ cưỡng bức.
- Năm 1954, nhà vật lý Mỹ Townes và hai nhà bác học Liên xô là
Prokhorow và Basov đồng thời công bố các công trình độc lập về việc phát hiện
ra nguyên lý laser dựa trên việc khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ cưỡng bức.
- Năm 1960 nhà vật lý người Mỹ là Maiman đã chế tạo thành công thiết
bị laser đầu tiên trên thế giới trên cơ sở sử dụng oxyt nhôm (Al 2O3) tinh khiết
có pha icon Crom. Đó là laser Ruby. Chính laser ruby cũng đóng vai trò đột
phá trong laser y học khi sử dụng trong nhãn khoa để hàn bong võng mạc
thành công.
- Năm 1961 đã chế tạo thành công laser dùng hỗn hợp khí Heli và Neon
(laser He-Ne).
- Năm 1964 laser tinh thể bán dẫn Gallium Arsenid, laser tinh thể
Yttrium Aluminium Garnet (Laser YAG).
- Năm 1966 các chất màu pha lỏng khác nhau cũng được sử dụng để chế
tạo laser, đó là laser màu [34].
Ngày nay, laser đã trở thành một công cụ không thể thiếu được trong
nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học cũng như ứng dụng kỹ thuật. Trước đây
chúng ta vẫn quan niệm rằng laser phải là những thiết bị cồng kềnh với một
loạt linh kiện quang học được điều chỉnh trên bàn quang học đặc biệt chống
rung và dao động nói chung. Nhưng ngay từ năm 1960, nhờ sự kết hợp tài
tình giữa laser (quang học) và điện tử người ta chế tạo ra laser bán dẫn hay
laser diode [6], [34].
1.3.3. Phân loại các thiết bị laser y học
Theo trạng thái hoạt chất laser chứa trong buồng cộng hưởng mà người
ta gọi theo tên hoạt chất: laser khí (He-Ne, CO 2…) laser rắn (Al2O3), laser bán
19
dẫn (laser diode), laser màu, laser hơi kim loại…..
Trong điều trị lâm sàng laser được phân thành hai nhóm chính: laser
công suất thấp được dùng trong vật lý trị liệu và laser công suất cao được sử
dụng trong ngoại khoa.
* Laser công suất thấp:
- Phổ biến nhất là laser He-Ne. Đó là một laser khí, phát tia laser có màu
đỏ, bước sóng 632,8 nm. Khả năng sử dụng rộng rãi: chiếu diện, chiếu điểm,
hay chiếu ngay trong lòng mạch máu.
- Loại laser năng lượng thấp thứ hai được sử dụng nhiều trong y học là
laser bán dẫn (thường là diode GaAs). Bước sóng của laser này là 830 hay
890 nm, độ phổ rộng (0,3 - 10 A), có công suất phát nằm trong khoảng 4-15
mw (liên tục) hay 5-30 mw (phát xung).
* Laser công suất cao: Phân loại theo tương tác của bức xạ với tổ chức
sống. Có bốn nhóm:
- Nhóm phổ biến nhất hiện nay gồm laser dùng hiệu ứng nhiệt để quang
đông hoặc bốc bay tổ chức
- Nhóm dựa trên hiện tượng quang hoạt hóa của bức xạ laser. Thiết bị
này tạo ra một nguyên lý mới trong chuẩn đoán và điều trị các bệnh
- Nhóm dựa trên hiệu ứng quang bóc lớp. Thành phần chủ lực là laser
eximer, có bước sóng nằm ở vùng cực tím và phát xung cực ngắn. Được dùng
như dao mổ.
- Nhóm các laser công suất rất cao, có độ rộng xung rất nhỏ, dùng để tán
sỏi. Nhóm laser công suất cao sử dụng thông dụng nhất trong các bệnh viện là
laser CO2 [34], [35].
1.3.4. Những ứng dụng laser trong y học
Laser được dùng trong nhiều chuyên ngành khác nhau
* Ứng dụng laser công suất thấp trong điều trị: Laser công suất thấp có
20
tác dụng kích thích sinh học nên điều trị bằng laser công suất thấp gọi là vật
lý trị liệu.
- Da liễu: Điều trị các bệnh ngoài da chủ yếu do dị ứng và điều trị bệnh
cứng bì.
Những nhiễm trùng có mủ và vết loét lâu liền sẹo.
- Răng hàm mặt: Bệnh của niêm mạc khoang miệng và mô quanh răng.
Phẫu thuâ ăt mô mềm trong miê ăng.
- Tai mũi họng: Cấp tính và mãn tính
- Cơ, xương khớp: Viêm khớp dạng thấp, hư xương – sụn gian đốt sống,
thoái hóa xương khớp biến dạng
- Tim mạch: Laser nội mạch trong điều trị thiếu máu cơ tim, viêm nội
tâm mạc
- Y học cổ truyền: Châm cứu
* Ứng dụng laser công suất cao trong điều trị
- Dao mổ để cắt bỏ những khối u, ung thư trong ngoại khoa
- Nhãn khoa: Phẫu thuật giác mạc, tật khúc xạ
- Thần kinh: Điều trị u thần kinh
- Thận tiết niệu: Tán sỏi
- Tim mạch: Điều trị nhịp nhanh thất, tạo hình mạch bằng laser chọc qua
da, nối vi phẫu động mạch
- Phẫu thuật thẩm mĩ: Tạo hình nếp nhăn trên khuôn mặt lão hóa, điều trị
sẹo lồi, điều trị tổn thương sắc tố da
- Phụ khoa: Bệnh màng trong tử cung lạc chỗ, khoét chóp tử cung....
Ngoài ra có thể dùng laser trong chuẩn đoán
- Răng hàm mặt: Dùng kính hiển vi quét laser đồng tiêu đề phát hiện sớm
sâu răng
- Xem thêm -