Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đánh giá hiện trạng và nghiên cứu đề xuất giải pháp vận hành cống lấy nước vùng ...

Tài liệu đánh giá hiện trạng và nghiên cứu đề xuất giải pháp vận hành cống lấy nước vùng triều thuộc hệ thống bắc hưng hải trong bối cảnh suy giảm nguồn nước và biến đổi khí hậu

.PDF
85
2
100

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI ĐÀO KIM DUNG ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG VÀ NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP VẬN HÀNH CỐNG LẤY NƯỚC VÙNG TRIỀU THUỘC HỆ THỐNG BẮC HƯNG HẢI TRONG BỐI CẢNH SUY GIẢM NGUỒN NƯỚC VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Chuyên ngành Quy hoạch và quản lý tài nguyên nước Mã số: 60-62-30 LUẬN VĂN THẠC SĨ Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. DƯƠNG THANH LƯỢNG Hà Nội – 2012 LỜI CẢM ƠN ♥ Luận Văn “Đánh giá hiện trạng và nghiên cứu đề xuất giải pháp vận hành cống lấy nước vùng triều thuộc hệ thống Bắc Hưng Hải trong bối cảnh suy giảm nguồn nước và biến đổi khí hậu” được thực hiện từ tháng 9 năm 2010. Ngoài sự cố gắng của bản thân, tác giả đã được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy, cô giáo, gia đình và bạn bè. Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo GS.TS. Dương Thanh Lượng, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và cung cấp những tài liệu, những thông tin cần thiết cho tác giả hoàn thành Luận văn này. Tác giả xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các đồng nghiệp đã cung cấp các tài liệu cần thiết cho tác giả hoàn thành luận văn. Tuy nhiên do thời gian có hạn, trình độ còn hạn chế, số liệu và công tác xử lý số liệu với khối lượng lớn nên những thiếu xót của Luận văn là không thể tránh khỏi, do đó tác giả rất mong tiếp tục nhận được sự chỉ bảo giúp đỡ của các thầy cô giáo cũng như những ý kiến đóng góp của bạn bè và của đồng nghiệp. Cuối cùng tác giả xin chân thành cảm ơn tấm lòng của những người thân trong gia đình, bạn bè đã động viên giúp đỡ khích lệ tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Xin chân thành cảm ơn./. Hà Nội, tháng 3 năm 2012 Tác giả Đào Kim Dung Céng hoµ x· héi chñ nghÜa ViÖt Nam §éc lËp - Tù do - H¹nh phóc GIẤY CAM ĐOAN KÝnh göi: Khoa Kü thuËt tµi nguyªn n­íc – §¹i häc Thñy lîi Tªn t¸c gi¶: §µo Kim Dung Häc viªn cao häc CH17Q Ng­êi h­íng dÉn: GS.TS D­¬ng Thanh L­îng Tªn ®Ò tµi LuËn v¨n “§¸nh gi¸ hiÖn tr¹ng vµ nghiªn cøu ®Ò xuÊt gi¶i ph¸p vËn hµnh cèng lÊy n­íc vïng triÒu thuéc hÖ thèng B¾c H­ng H¶i trong bèi c¶nh suy gi¶m nguån n­íc vµ biÕn ®æi khÝ hËu”. T¸c gi¶ xin cam ®oan §Ò tµi luËn v¨n ®­îc lµm dùa trªn c¬ së nghiªn cøu, tæng hîp, hÖ thèng c¸c kÕt qu¶ nghiªn cøu trªn thÕ giíi vµ trong n­íc ®Ó ®­a mét sè ®Ò xuÊt vÒ gi¶i ph¸p, t¸c gi¶ kh«ng sao chÐp bÊt kú mét luËn v¨n th¹c sÜ nµo tr­íc ®ã. Xin tr©n träng c¶m ¬n! Häc viªn §µo Kim Dung MỤC LỤC MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN ....................................................................................... 4 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu biến đổi khí hậu trên thế giới .......................4 1.2. Tình hình nghiên cứu biến đổi khí hậu trong nước ..........................................8 1.2.1. Khái quát chung .........................................................................................8 1.2.2. Một số công trình khoa học đã nghiên cứu có liên quan đến tiêu nước và biến đổi khí hậu ở Việt Nam ...............................................................12 1.2.3. Nhận xét và đánh giá chung về các công trình khoa học đã công bố có liên quan đến biến đổi khí hậu ở Việt Nam .............................................16 CHƯƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG THUỶ LỢI BẮC HƯNG HẢI .................................. 18 2.1. Giới thiệu chung về hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải ....................................18 2.1.1. Vị trí địa lý ...............................................................................................18 2.1.2. Đặc điểm địa hình ....................................................................................18 2.1.3. Đặc điểm khí tượng thuỷ văn ..................................................................18 2.1.4. Hiện trạng kinh tế xã hội .........................................................................20 2.1.5. Hiện trạng phát triển nông nghiệp ...........................................................21 2.2. Hiện trạng hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải...................................................22 2.2.1. Hiện trạng hệ thống công trình thuỷ lợi...................................................22 2.2.2. Hiện trạng các tuyến đê, bờ kênh nội đồng .............................................26 2.2.3. Hiện trạng các tuyến sông trục trong hệ thống ........................................29 2.2.4. Hiện trạng các công trình điều tiết chính trên kênh chính .......................31 2.2.5. Tình hình quản lý vận hành hệ thống thủy lợi .........................................34 2.2.6. Những khó khăn thách thức .....................................................................37 2.3. Những ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt động của hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải .........................................................................................38 2.3.1. Sự thay đổi khí hậu ..................................................................................38 2.3.2. Sự thay đổi chế độ thuỷ văn ....................................................................40 CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÙNG BẮC HƯNG HẢI TRONG ĐIỀU KIỆN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ...................................................................... 45 3.1. Định hướng phát triển kinh tế.........................................................................45 3.1.1. Về nông nghiệp ........................................................................................45 3.1.2. Về thuỷ sản ..............................................................................................47 3.1.3. Các ngành khác ........................................................................................49 3.2. Mục tiêu phát triển thuỷ lợi ............................................................................51 3.3. Nhiệm vụ phát triển thuỷ lợi...........................................................................52 CHƯƠNG 4. NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP CÔNG TRÌNH VÀ PHI CÔNG TRÌNH .............................................................................................. 53 4.1. Các giải pháp công trình .................................................................................53 4.1.1. Giải pháp lấy nước công trình đầu mối ...................................................53 4.1.2. Giải pháp đối với các tiểu vùng và hệ thống kênh trục dẫn nước tưới tiêu, cống thoát nước ven sông ................................................................54 4.1.3. Giải pháp đối với tiêu úng qua cống Cầu Xe và An Thổ ........................67 4.2. Các giải pháp phi công trình ...........................................................................67 4.2.1. Giải pháp quy hoạch sử dụng đất và cơ cấu cây trồng trong hệ thống ....67 4.2.2 Giải pháp sửa đổi, bổ sung quy trình vận hành lấy nước vùng triều qua cống Cầu Xe và An Thổ ..........................................................................71 4.2.3. Giải pháp sửa đổi, bổ sung quy trình vận hành hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải..................................................................................................72 4.2.4. Giải pháp đổi mới hoạt động của Hội đồng quản lý hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải ..........................................................................................75 4.2.5. Giải pháp tăng cường tham gia của cộng đồng đến quản lý vận hành hệ thống (PIM). ............................................................................................76 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ................................................................................... 77 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 79 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Biến đổi khí hậu là những thay đổi theo thời gian của khí hậu, trong đó bao gồm cả những biến đổi tự nhiên và những biến đổi do các hoạt động của con người gây ra. Dự báo đến năm 2100 mực nước biển trung bình có thể cao thêm từ 9 ÷ 88 cm, mà nguyên nhân chủ yếu là do lớp nước mặt giãn nở thể tích do nóng lên và sự tan băng ở các cực trái đất, lượng mưa toàn cầu cũng tăng lên. Việt Nam được xem xét như là một trong số những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu toàn cầu. Khu vực nông thôn, sản xuất nông nghiệp và người nông dân là những đối tượng chịu tác động trực tiếp nhất, gặp nhiều khó khăn lớn. Quốc gia cần có chiến lược toàn diện, giải pháp cụ thể để thích ứng, giảm thiểu, khắc phục tác động của biến đổi khí hậu để duy trì sự phát triển bền vững. Biến đổi khí hậu làm cho lượng mưa tăng lên trong mùa lũ, nhưng giảm xuống trong mùa khô dẫn đến cho nhu cầu tưới tiêu cao hơn trước. Biến đổi khí hậu làm cho mực nước biển dâng, gây ngập lụt, làm mất đất ở vùng ven biển, đồng thời đe doạ an toàn của các công trình, trong đó có các tuyến đê biển, đê sông. Hiện tượng thời tiết cực đoan sẽ đè nặng lên công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Mưa lớn làm tăng lưu tốc dòng chảy dẫn đến xói mòn đất, nhiều bùn cát chuyển đến lòng hồ chứa làm giảm dung tích hữu ích, khả năng cung cấp nước giảm đi. Đối với công tác thuỷ lợi, biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ tác động đến toàn bộ các nội dung từ cấp nước, phòng chống và khắc phục hậu quả lũ lụt, phòng chống úng ngập và tiêu thoát nước, phòng chống cạn kiệt, ô nhiễm và suy thoái nguồn nước, phòng chống sạt lở bờ sông và chỉnh trị sông. Để thích ứng và hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong điều kiện biến đổi khí hậu công tác thuỷ lợi cần có những giải pháp, hành động phù hợp, hiệu quả, vừa đáp ứng những yêu cầu trước mắt vừa thích ứng với những đòi hỏi lâu dài trong điều kiện thực tế của đất nước. Vùng đồng bằng sông Hồng sẽ chịu ảnh hưởng rất nặng của biến đổi khí hậu, trực tiếp là ảnh hưởng của nước biển dâng, ngập lụt, xâm nhập mặn. Theo kết quả nghiên cứu của một số đề tài, mặc dù trong mùa kiệt đã được điều tiết nguồn nước từ hồ thuỷ điện Hoà Bình, Thác Bà, Tuyên Quang bổ sung nước cho hạ du nhưng 2 tình trạng xâm nhập mặn vẫn vào sâu nội địa, ranh giới mặn 4‰ lên đến 25 ÷ 40 km. Nước biển dâng sẽ ảnh hưởng tới các công trình tiêu thoát nước, phòng chống lũ và an toàn hệ thống công trình thuỷ lợi. Trong trường hợp vào giai đoạn triều cường, nước biển dâng cao đúng vào thời gian xuất hiện mưa to tăng thêm 25% so với mức bình thường, thì diện tích úng của đồng bằng Bắc bộ sẽ là 550.000 ha ứng với kịch bản nước biển dâng cao thêm 70 cm và 650.000 ha ứng với kịch bản nước biển dâng cao thêm 100 cm. Hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng nên cũng phải gánh chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu, trong đó chủ yếu là nước biển dâng và tổ hợp nước biển dâng - lũ sông cao - mưa lớn nội đồng. Một số ảnh hưởng chính của biến đổi khí hậu đối với Hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải như sau: - Nước biển dâng lên làm thay đổi chế độ dòng chảy ven bờ gây xói lở và làm cho khả năng tiêu thoát nước ra sông, ra biển giảm dẫn đến mực nước các sông trong hệ thống, kênh trục trong nội đồng dâng lên, nếu trùng hợp vào đúng lúc hệ thống cần tiêu úng, nước từ đầu hệ thống dồn xuống sẽ làm cho mực nước lên rất cao, uy hiếp sự an toàn của các công trình tiêu, nhất là cống tiêu lớn như Cầu Xe và An Thổ..., đồng thời những cống tiêu tự chảy ra sông, kênh nội đồng sẽ khó khăn dẫn đến diện tích úng ngập tăng lên và thời gian tiêu kéo dài hơn. - Nước biển dâng làm cho mặn xâm nhập sâu vào nội địa, các cống sẽ không lấy được nhiều nước ngọt vào ruộng, đặc biệt là việc lấy nước ngọt ngược từ sông vào đồng qua các cống Cầu Xe và An Thổ, Cầu Cất sẽ bị hạn chế. Trong trường hợp này nhiều công trình sẽ hoạt động khác với thiết kế, năng lực phục vụ sẽ giảm xuống. Không đủ nước ngọt, hạn hán sẽ tăng lên và mức độ ngày càng trở lên căng thẳng. 2. Mục tiêu của đề tài Tìm hiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự hoạt động của các công trình thủy lợi vùng triều ở hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm thích ứng với ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hệ thống này. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải. - Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các vấn đề liên quan đến sự làm việc của các 3 công trình tưới tiêu của hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải trong bối cảnh có sự biến động nguồn nước do biến đổi khí hậu. 4. Nội dung nghiên cứu - Tìm hiểu các kết quả nghiên cứu khoa học liên quan đến biến đổi khí hậu và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến các hoạt động kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong đó có vùng thuộc hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải. - Nghiên cứu, phân tích và đánh giá hiện trạng hệ thống thuỷ lợi Bắc Hưng Hải. - Đề xuất một số giải pháp công trình và phi công trình cần được áp dụng để đảm bảo cho hệ thống thủy lợi Bắc Hưng Hải hoạt động nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài của Luận văn, cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp kế thừa: Nghiên cứu các kết quả có liên quan đến đề tài nhằm làm rõ các nội dung và vấn đề cần nghiên cứu. - Phương pháp điều tra: Thu thập, thống kê số liệu có liên quan. - Phương pháp phân tích: Phân tích các số liệu để xác định các đại lượng, các giải pháp cần thiết. 4 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu biến đổi khí hậu trên thế giới Các công trình nghiên cứu quy mô toàn cầu về hiện tượng biến đổi khí hậu đã được các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới tiến hành từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ trước. Hội nghị quốc tế do Liên hiệp quốc triệu tập tại Rio de Janeiro năm 1992 đã thông qua Hiệp định khung và Chương trình hành động quốc tế nhằm cứu vãn tình trạng “xấu đi” nhanh chóng của bầu khí quyển trái đất. Từ đó Tổ chức liên Chính phủ về biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (IPCC) đã được thành lập, thu hút sự tham gia của hàng ngàn nhà khoa học quốc tế. Tại Hội nghị Kyoto năm 1997, Nghị định thư Kyoto đã được thông qua vào đầu tháng 2/2005 đã được nguyên thủ 165 quốc gia trong đó có Việt Nam phê chuẩn. Nghị định thư này bắt đầu có hiệu lực từ 10/2/2005. Theo kết quả nghiên cứu mới nhất của IPCC trình lên Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu do con người gây ra chiếm 90%, do tự nhiên gây ra chiếm 10 %. Cũng theo báo cáo của IPCC, trong vòng 85 năm (từ 1920 đến 2005) nhiệt độ trung bình trên bề mặt trái đất đã ấm lên gần 1°C và tăng rất nhanh trong khoảng 25 năm nay (từ 1980 đến 2005) và đưa ra dự báo: đến cuối thế kỷ XXI, nhiệt độ bề mặt Trái đất sẽ tăng thêm từ 1,4 oC đến 4 °C, mực nước biển sẽ dâng thêm khoảng 28 cm đến 43 cm, tối đa có thể lên tới 81cm. Nhiều nhà khoa học còn đưa ra những dự báo mực nước biển đang dâng nhanh hơn nhiều, nhất là do hiện tượng tan băng đang xảy ra với tốc độ đáng kinh ngạc trong thời gian gần đây. Các nhà khoa học Anh dự báo mực nước biển cuối thế kỷ XXI có thể tăng thêm 163 cm - tức là gấp đôi số liệu dự báo của IPCC. Trong thế kỷ XXI, nhiệt độ thế giới có thể tăng thêm 5 oC, tương đương với sự thay đổi nhiệt độ từ thời kỳ băng hà, thời kỳ phần lớn châu Âu và Bắc Mỹ còn nằm dưới lớp băng dầy 1 km. Trong khi đó, ngưỡng biến đổi khí hậu nguy hiểm là tăng thêm 2 oC. Sự nóng lên của trái đất làm cho băng tuyết của các dãy Himalaya, vùng Nam Cực, Bắc Cực và các khu vực có băng tuyết khác tan chảy. Ví dụ ở Nam Cực, tháng 3/2002, các nhà khoa học tận mắt chứng kiến khối băng 500 tỷ tấn tan rã thành hàng nghìn mảnh; ở Bắc Cực, mùa hè 2002, lượng băng tan ở Greenland cao gấp đôi so 5 với 1992, diện tích băng tan đã lên tới 655.000 m2. Hơn 110 sông băng và những cánh đồng băng vĩnh cửu ở bang Montana đã biến mất trong vòng 100 năm qua. Nếu độ tan chảy duy trì như hiện nay thì các sông băng sẽ hầu như biến mất khỏi dãy Alpes vào năm 2050. Mùa hè 2002, các nhà khoa học ghi nhận một khối băng 3,5 triệu tấn tách ra, gây ra lũ băng từ dãy núi Mali trên đỉnh Kavkaz thuộc Nga. Trong vòng 13 năm gần đây, số băng tan ở châu Âu tăng gấp đôi so với lượng băng tan của 30 năm trước (1961-1990). Các số liệu quan trắc mực nước biển thế giới cho thấy trong khoảng thời gian 40 năm (1962−2003), mực nước biển đã tăng thêm 7,2 cm (trung bình mỗi năm tăng 1,8 mm). Trước nguy cơ này các nhà khoa học thế giới đã mô phỏng tính toán 6 kịch bản dự báo tăng nhiệt độ và mực nước biển. Theo kịch bản số 4, nếu hàm lượng phát thải khí nhà kính năm 2100 bằng 850 ppm thì nhiệt độ trung bình toàn cầu của bề mặt trái đất sẽ tăng 2,8 oC so với năm 2000 và mực nước biển sẽ dâng từ 0,21 cm đến 0,48 m, gây một thảm hoạ không lường trước cho nhân loại, đó là chưa kể từ nay đến lúc đó biến đổi khí hậu sẽ tạo ra bão lụt, hạn hán, sụt lở đất, nhiễm mặn, bệnh tật… cho bao nhiêu cư dân trên hành tinh ở các vùng đất thấp, mà trước hết đối tượng dễ bị tổn thương nhất là các nước kém phát triển và người nghèo là đại bộ phận của nhân loại. Cả thế giới hiện có hơn một nửa trong số 7 tỷ người đang sống ở vùng duyên hải với phạm vi chiều rộng 100 km thuộc vùng ven bờ biển. Báo cáo phát triển con người 2007/2008 của UNDP cảnh báo rằng nếu nhiệt độ tăng lên từ 3 0C đến 4 0C, các quốc đảo nhỏ và các nước đang phát triển sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi mực nước biển dâng lên khoảng 1,0 m, Việt Nam sẽ có khoảng 22 triệu người bị mất nhà cửa; vùng trũng Ai Cập có khoảng 6 triệu người mất nhà cửa và 4.500 km2 đất ngập lụt; ở Bangladesh có khoảng 18 % diện tích đất ngập úng, tác động tới 70 triệu dân ... Trong báo cáo cũng cho rằng không chỉ những nước đang phát triển ảnh hưởng mà những nước đã phát triển cũng không tránh khỏi thảm họa biến đổi khí hậu. Trước mắt, băng tan sẽ đe dọa hơn 40 % dân số toàn thế giới. Mặt khác, biến đổi khí hậu sẽ làm cho năng suất nông nghiệp giảm, thời tiết cực đoan tăng, thiếu nước ngọt trầm trọng trên toàn thế giới, hệ sinh thái tan vỡ và bệnh tật gia tăng... Những nước như Việt Nam, Bangladesh, Myanmar, Ai Cập... sẽ bị ảnh hưởng nhiều nhất. Nguy cơ bão lụt, thiên tai sẽ làm cho những nước này rất khó khăn để phát triển kinh tế, đẩy lùi đói nghèo. 6 Theo Báo cáo của IPCC, danh sách 10 thành phố bị đe doạ nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu bao gồm Calcutta và Bombay của Ấn Độ, Dacca của Bangladesh, Thượng Hải, Quảng Châu của Trung Quốc, TP.Hồ Chí Minh của Việt Nam, Bangkok của Thái Lan và Yangon của Myanmar. Các nhà khoa học thế giới cũng dự báo thủ đô Băng Cốc (Thái Lan) trong vòng 20 năm nữa sẽ bị ngập và hiện Thái Lan không đủ thời gian để chuyển thủ đô sang nơi khác. Tại hội thảo “Biến đổi khí hậu và phát triển con người” do Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và môi trường, Cục Bảo vệ môi trường, Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và môi trường phối hợp tổ chức ngày 5/12/2008 tại TP. Hồ Chí Minh, ông John Hendra, điều phối viên thường trú của Liên hiệp quốc tại Việt Nam cho biết: nếu nhiệt độ trung bình của trái đất tăng lên từ 2 0C đến 3 0C so với mức hiện nay sẽ có thêm 600 triệu người ở châu Phi bị đói, hơn 300 triệu người phải rời bỏ nhà cửa do bão lũ và có thêm 400 triệu người bị bệnh truyền nhiễm như sốt rét, viêm màng não, sốt xuất huyết, 185 triệu người chết ... Trước nguy cơ nói trên, Liên hợp quốc đã kêu gọi tất cả các quốc gia trên thế giới đồng tâm nhất trí để giải quyết vấn đề này. Theo các nhà khoa học, các giải pháp hạn chế tình trạng biến đổi khí hậu toàn cầu cần đi theo hai hướng sau: thứ nhất là làm giảm tác động của biến đổi khí hậu và thứ hai là thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhật Bản là quốc gia có hệ thống công trình phòng chống thiên tai kiên cố nhất thế giới nhưng với tốc độ mực nước biển dâng trung bình 4mm đến 8mm/năm, cùng với gia tăng về tần suất xuất hiện và cường độ ác liệt của các trận bão thì nguy cơ làm gián đoạn các hoạt động sản xuất sẽ rất cao. Nước Anh với hệ thống công trình chống lũ có khả năng chống lũ 100 năm và lũ 200 năm nhưng với diễn biến của biến đổi khí hậu và nước biển dâng thì hệ thống này không có khả năng kiểm soát. Kết quả tính toán dự báo cho biết số hộ có nguy cơ bị lũ đe dọa tăng từ 2 triệu hộ hiện nay lên 3,5 triệu hộ với các kịch bản biến đổi khí hậu nếu hệ thống công trình không được củng cố. Ở Bangladesh, Chính phủ có chương trình đầu tư 6,5 triệu USD để đối phó với các vùng đất ven biển ngày càng bị nhiễm mặn. Chính phủ cũng đề xuất dự án nâng cao 800 km đường bộ lên từ 0,5 m đến 1,0 m so với mức hiện tại để tránh bị ngập do nước biển dâng với chi phí đầu tư khoảng 128 tỉ USD. 7 Biến đổi khí hậu toàn cầu đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống của người dân ở mọi nơi trên thế giới. Để đối phó và thích ứng với tác động của biến đổi khí hậu, người dân đã tìm ra nhiều giải pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên và môi trường sống của họ. Dưới đây là một số ví dụ điển hình: - Để đối phó với tình trạng hạn hán triền miên, nông dân ở Ecuado đào các ô chứa nước hình chữ U trên sườn dốc để chặn, chứa nguồn nước trong mùa mưa giúp tăng cường lượng nước bổ sung xuống tầng nước ngầm đề từ đó lại khai thác nước ngầm sử dụng trong mùa khô còn người dân ở Ấn Độ lại tăng cường đầu tư các hình thức trữ nước, thu góp nước quy mô nhỏ để trữ nước mưa. - Để đối phó với tình trạng úng ngập, người dân ở Tây Bengal (Ấn Độ) thường phải làm những hệ thống cột chống rất cao để có chỗ lánh nạn khi lũ lụt kéo đến. Ở Bangladesh nông dân làm những ngôi nhà nổi có thể tự nâng lên khi mực nước lũ dâng cao. Còn ở Nepal các cộng đồng dân cư xây dựng các tháp canh cảnh báo lũ sớm, đóng góp nhân công và nguyên vật liệu để gia cố các bờ kè không cho các hồ băng bị vỡ do tan băng. Trong các nghiên cứu của IPCC, UNDP về các kịch bản biến đổi khí hậu thì hệ thống các mô hình toán khí động học khí quyển, mô hình thủy động lực học cho các đại dương được xây dựng và sử dụng để đánh giá định lượng tác động của biến đổi khí hậu đến khí hậu toàn cầu, mực nước các đại dương trên thế giới. Với từng vùng lãnh thổ, từng quốc gia trên cơ sở các kịch bản biến đổi khí hậu toàn cầu sẽ có các nghiên cứu chi tiết đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến từng yếu tố khí tượng (nhiệt độ, mưa, độ ẩm, bốc hơi…), điều kiện thủy văn, hải văn (dòng chảy trong sông, dao động triều, biến đổi mực nước biển). Mô hình toán được sử dụng trong trường hợp này thường là mô hình thủy động lực học HEC (Mỹ), SOBEK (Hà Lan), MIKE (Đan Mạch), ISIS (Anh). Một số nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu đến tăng giảm nhu cầu sử dụng nước, ví dụ như nghiên cứu ứng dụng mô hình toán CROPWAT tính toán thay đổi trong tổng lượng nhu cầu nước cho cây trồng, cũng như thay đổi mùa vụ, các giai đoạn phát triển của cây trồng do nhiệt độ không khí ấm lên. Nghiên cứu gần đây được Hiệp hội các trường đại học công bố tại Trường đại học Copenhagen tháng 3/2009 cho thấy nhiều khả năng tác động của biến đổi khí 8 hậu trong thế kỷ XXI sẽ trầm trọng hơn những con số dự báo của IPCC đã công bố năm 2007. 1.2. Tình hình nghiên cứu biến đổi khí hậu trong nước 1.2.1. Khái quát chung Việt Nam là một trong 5 quốc gia trên thế giới bị tác động nhiều nhất của hiện tượng biến đổi khí hậu mà cụ thể là hiện tượng nước biển dâng cao - hậu quả tăng nhiệt độ làm bề mặt trái đất nóng lên do phát thải khí nhà kính. Ông Bernard O’Callaghan là Điều phối viên chương trình của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã đưa ra bản báo cáo có nhan đề “Cuộc chiến chống lại biến đổi khí hậu: Đoàn kết nhân loại trong một thế giới phân cách” cho biết: Nếu mực nước biển dâng cao như dự báo vào năm 2030 thì vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ có khoảng 45% diện tích đất bị nhiễm mặn quá mức cho phép, năng suất lúa sẽ giảm 9%. Nếu mực nước biển dâng cao 1 m, phần lớn đồng bằng sông Cửu Long sẽ hoàn toàn ngập trắng nhiều thời gian dài trong năm”. Theo nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), thành phố Hồ Chí Minh nằm trong danh sách 10 thành phố bị đe doạ nhiều nhất bởi biến đổi khí hậu (gồm Calcutta và Bombay của Ấn Độ, Dacca của Bangladesh, Thượng Hải, Quảng Châu của Trung Quốc, thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam, Bangkok của Thái Lan, Yangon của Myanmar). Theo bản báo cáo về phát triển con người 2007−2008 của UNDP, nếu nhiệt độ trên trái đất tăng thêm 2 oC, thì có khoảng 22 triệu người ở Việt Nam sẽ mất nhà cửa và 45 % diện tích đất nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ ngập chìm trong nước biển. Theo cảnh báo của IPCC, đến năm 2100, nếu mực nước biển dâng cao thêm 1 mét sẽ ảnh hưởng đến 5 % đất đai, 10 % dân số, tác động đến 7 % sản xuất nông nghiệp, làm giảm 10 % GDP của Việt Nam, riêng sản xuất kinh tế biển sẽ suy giảm ít nhất 1/3 so với hiện nay (nguồn UNDP). Còn theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), nếu nước biển dâng cao 1m, có tới 27 % sinh cảnh tự nhiên quan trọng, 33 % khu bảo tồn, 23 % khu vực có sự đa dạng sinh học chính của Việt Nam bị tác động. 9 Tại hội thảo “Đánh giá nhu cầu nâng cao năng lực về biến đổi khí hậu cho các tổ chức phi chính phủ”, các đại biểu xác nhận, nếu nước biển dâng cao 30 cm thì đồng bằng sông Cửu Long sẽ có thể bị nhiễm mặn thêm 10 km, nguy cơ mặn hóa ở đồng bằng sông Cửu Long làm giảm 9 % năng suất cây trồng vật nuôi vào năm 2030. Theo đánh giá của ông Vũ Thái Trường thuộc Tổ chức CARE quốc tế tại Việt Nam, mỗi thập kỷ mực nước biển có thể dâng 5cm, đến năm 2070 có thể dâng 69 cm, năm 2100 nước biển có thể sẽ dâng tới khoảng 1 mét. Nếu nước biển dâng cao theo dự báo như vậy sẽ ảnh hưởng đến 12 % diện tích và 10,8 % dân số khiến 22 triệu người mất nhà cửa và làm giảm 10 % GDP. Nếu nước biển dâng cao thêm 1 mét thì Đồng bằng sông Hồng sẽ bị ngập khoảng 5.000 km2, đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập 20.000 km2 dẫn đến mất đất và giảm sản lượng nông nghiệp. Nước biển dâng cao 1 mét có thể sẽ làm giảm sản lượng lương thực tới 12 % (5 triệu tấn) tại đồng bằng sông Hồng. Nếu nhiệt độ tăng thêm 1 oC có thể làm giảm 5 % đến 20 % sản lượng ngô và 10 % sản lượng lúa gạo. Khi năng suất sản lượng vật nuôi giảm thì tình hình dịch bệnh cũng gia tăng, đa dạng sinh học trong lâm nghiệp cũng bị tác động mạnh mẽ. Tại Hội thảo khoa học biến đổi khí hậu toàn cầu và giải pháp ứng phó của Việt Nam tổ chức tại Hà Nội từ ngày 26 đến 29/02/2008, nhiều nhà khoa học trong nước và quốc đều có chung nhận định: nếu mực nước biển dâng lên 1m sẽ làm cho 1/5 diện tích lãnh thổ bị ngập chìm trong nước, khoảng 22 triệu người dân sẽ bị mất nhà cửa và đất đai canh tác. Riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long, khi mực nước biển dâng cao từ 0,2 m đến 0,6 m sẽ có 1.708 km2 đất bị ngập ảnh hưởng tới hàng chục triệu người sinh sống. Dưới đây là tóm lược một số nhận định và kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học trong nước đã trình bày tại Hội thảo: PGS. TS.Trần Thục - Viện trưởng Viện Khoa học khí tượng thủy văn và môi trường cho biết: “Chỉ cần nước biển dâng lên một mét chúng ta sẽ mất đi một diện tích đất khoảng 15.000 km2 ÷ 20.000 km2 tại Đồng bằng sông Cửu Long”. Nhà khoa học Nguyễn Khắc Hiếu đã trình bày tóm tắt một số phác thảo kịch bản biến đổi khí hậu ở Việt Nam được trình bày trong các bảng 1.1, 1.2 và 1.3. 10 Bảng 1.1. Thông báo Quốc gia về biến đổi khí hậu ở Việt Nam (so với năm 1990) Năm Nhiệt độ tăng thêm (0C) Mực nước biển tăng thêm (cm) 2010 0,3 ÷ 0,5 9 2050 1,1 ÷ 1,8 33 2100 1,5 ÷ 2,5 45 Bảng 1.2: Kịch bản biến đổi khí hậu các vùng của Việt Nam (nhiệt độ tăng thêm 0C so với năm 1990) Năm Tây Bắc Đông Bắc Tây Đồng bằng Bắc Nam Bắc Bộ Trung Bộ Trung Bộ Nguyên 2050 1,41 1,66 1,44 1,68 1,13 1,01 1,21 2100 3,49 4,38 3,71 3,88 2,77 2,39 2,80 Nam Bộ Bảng 1.3. Kịch bản nước biển dâng ở Việt Nam so với năm 1990 (cm) Năm Kịch bản 2050 2100 A1F1 13,7 39,7 A2 12,5 33,1 A1B 13,3 31,5 B2 12,8 28,8 A1T 12,7 27,9 B1 13,4 26,9 Tính trung bình của cả 6 kịch bản thì đến cuối thế kỷ XXI nhiệt độ trung bình của nước ta có khả năng tăng thêm 2,8 0C, mực nước biển dâng cao thêm 37 cm. Số liệu nêu trên chưa tính đến sự tan băng mà chỉ tính đến sự dãn nở nước đại dương. Xu thế chung của biến đổi khí hậu ở Việt Nam theo Nguyễn Khắc Hiếu: 1) Nhiệt độ ở các vùng phía Bắc tăng nhanh hơn các vùng phía Nam; 2) Nhiệt độ ở các vùng ven biển tăng chậm hơn các vùng sâu hơn trong lục địa; 3) Đến cuối thế kỷ XXI 11 nhiệt độ trung bình của nước ta có thể tăng thêm từ 4,0 oC đến 4,5 0C theo kịch bản cao nhất và từ 2,0 oC đến 2,2 0C theo kịch bản thấp nhất. Cũng tại Hội thảo khoa học nói trên, nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã đến dự và đưa ra một số định hướng sau đây về những công việc cần phải làm để đối phó và thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu: - Tổng kết, rút ra các kinh nghiệm thành công và chưa thành công của cha ông ta trong nhiều thế kỷ qua, được đẩy mạnh trong thời cận hiện đại trong việc ứng phó với các loại “thiên tai” thường xuyên xảy ra ở các vùng đồng bằng thấp, vùng ven biển; - Xây dựng mạng lưới kênh mương rộng lớn phục vụ việc tưới và tiêu nước cho đồng bằng; - Gia cố hệ thống đê điều; - Xây dựng các công trình hồ thủy điện - thủy lợi điều tiết ở thượng nguồn; - Từng bước xây dựng tuyến đê biển từ Bắc vào Nam kết hợp xây dựng các cống điều tiết thoát lũ và ngăn mặn ở các cửa sông; - Xây dựng các công trình kè bờ chống sạt lở sông và biển; - Nạo vét cửa sông, luồng vào cảng; - Bơm thoát nước cưỡng bức đối với nạn úng, ngập sâu và ô nhiễm nặng tại các vùng đất thấp ở đồng bằng và ven biển. - Những công trình có quy mô lớn, xây dựng bền vững lâu dài như hệ thống công trình “chung sống với lũ” ở đồng bằng Cửu Long, tuyến đê biển Bắc - Nam cần được hoạch định có căn cứ khoa học về tuyến, về nền móng, để những công việc được thực hiện ngày nay còn được tiếp nối thuận lợi cho nhiều thế hệ mai sau. Ngày 9/9/2009 Bộ Tài nguyên và môi trường đã chính thức công bố ba kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam trong thế kỷ XXI theo các trường hợp phát thải trung bình, thấp và cao. Theo đó, nếu khí nhà kính của thế giới thải ít, ý thức bảo vệ môi trường của con người tốt thì thực tế có thể diễn ra theo kịch bản phát thải thấp. Khi đó, nhiệt độ của năm 2100 chỉ tăng từ 1,4 oC đến 1,7 oC tùy theo từng vùng. Tuy nhiên, nếu dân số tăng nhanh, nếu các nước tiếp tục gia tăng sự phát thải thì kịch bản phát thải cao rất có thể sẽ trở thành hiện thực. Khi đó, 12 nhiệt độ có thể tăng từ 2,1 oC cho đến 3,6 oC, tức là mức tăng gấp đôi kịch bản phát thải thấp. Kịch bản nước biển dâng cũng đã được xây dựng theo các kịch bản phát thải thấp - trung bình - cao. Theo đó, vào giữa thế kỷ XXI, mực nước biển có thể dâng thêm lần lượt là 28 cm – 30 cm – 33 cm và đến cuối thế kỷ XXI, mực nước biển dâng thêm từ 65 cm − 75 cm − 100 cm so với thời kỳ 1980−1999. Theo kịch bản trung bình, vào cuối thế kỷ XXI nhiệt độ trung bình năm có thể tăng lên 2,6 oC ở Tây Bắc, 2,5 oC ở Đông Bắc, 2,4 oC ở đồng bằng Bắc Bộ, 2,8 oC ở Bắc Trung Bộ, 1,9 oC ở Nam Trung Bộ, 1,6 oC ở Tây Nguyên và 2,0 oC ở Nam Bộ so với trung bình thời kỳ 1980−1999. Nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc và Bắc Trung Bộ sẽ tăng nhanh hơn so với nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Nam. Tại mỗi vùng, nhiệt độ mùa đông sẽ tăng nhanh hơn nhiệt độ mùa hè. Tổng lượng mưa năm và lượng mưa mùa mưa ở tất cả các vùng của nước ta đều tăng, trong khi đó lượng mưa mùa khô có xu hướng giảm. Theo tính toán, nếu kịch bản trung bình xảy ra, vào giữa thế kỷ XXI mực nước biển có thể dâng thêm khoảng 30 cm và đến cuối thế kỷ này, mực nước biển có thể dâng thêm khoảng 75 cm so với thời kỳ 1980−1999. Kịch bản cũng cho biết tại Thành phố Hồ Chí Minh nếu nước biển dâng thêm 65 cm thì phạm vi ngập là 128 km2 chiếm 6 % diện tích; dâng 75 cm ngập 204 km2 chiếm 10 % và nếu dâng 100 cm thì diện tích ngập lên tới 473 km2, chiếm 23 % diện tích thành phố. Tại đồng bằng sông Cửu Long nếu nước biển dâng 65 cm thì diện tích ngập là 5.133 km2, chiếm 12,8 %; nếu dâng 75 cm, ngập 7.580 km2, chiếm 19%; dâng 100 cm thì diện tích ngập là 15.116 km2, chiếm 37,8 % diện tích vùng đồng bằng. 1.2.2. Một số công trình khoa học đã nghiên cứu có liên quan đến tiêu nước và biến đổi khí hậu ở Việt Nam 1) Nghiên cứu biến đổi khí hậu Châu Á: Báo cáo của Việt Nam (ADB, 1994) do Viện Quy hoạch thủy lợi chủ trì thực hiện, được tài trợ từ Ngân hàng phát triển Châu Á. Tham gia cùng thực hiện nghiên cứu còn có các chuyên gia nghiên cứu từ 10 cơ quan nghiên cứu của Việt Nam như Viện Khí tượng thủy văn, Trường Đại học Thủy lợi, Viện Khoa học Thủy lợi, Trường Đại học Tổng hợp. Nghiên cứu cũng nhận được tư vấn trực tiếp từ IPCC và các chương trình của Liên hợp quốc như UNEP, UNDP, UN/ESCAP, UNCRD, WB. Nghiên cứu chủ yếu tập trung vào 13 hai lưu vực sông Hồng - Thái Bình và sông Cửu Long, gồm có 1) Tác động của biến đổi khí hậu đối với các điều kiện tự nhiên và xã hội ở Việt nam, 2) Các lựa chọn chính sách đối phó với biến đổi khí hậu, 3) Chiến lược ứng phó của quốc gia. Tác động của biến đổi khí hậu được xem xét và đánh giá định lượng tương đối chi tiết, cụ thể cho nông nghiệp, tài nguyên nước, hệ sinh thái ngập mặn, lâm nghiệp, hệ thống năng lượng, sức khỏe cộng đồng và cơ sở hạ tầng. Kết quả nghiên cứu đã đề xuất các chính sách đối phó với biến đổi khí hậu bao gồm các giải pháp: 1) Thích ứng; 2) Kiểm kê phát thải khí nhà kính từ các nguồn năng lượng, các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, dịch vụ; 3) Giảm thải khí nhà kính trong các ngành công nghiệp năng lượng, xây dựng, giao thông vận tải, nông nghiệp, lâm nghiệp. 2) Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho công ước chung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và môi trường, 2003) đã kiểm kê phát thải khí nhà kính của Việt Nam năm 1994, đề xuất các phương án giảm thải khí nhà kính. Một trong những nội dung chính của Thông báo là tính toán dự báo các tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến tài nguyên nước cho 7 vùng lãnh thổ Việt Nam dựa trên kết quả dự báo của CSIRO. Kịch bản sử dụng trong Thông báo được phân thành hai nhóm: kịch bản về biến đổi nhiệt độ và kịch bản về biến đổi lượng mưa. Liên quan đến lưu vực sông Hồng - Thái Bình có vùng Tây Bắc, Việt Bắc và vùng đồng bằng Bắc Bộ. Thông báo cũng dự báo tác động của biến đổi khí hậu đến các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, năng lượng, giao thông vận tải. Thông báo cũng đề xuất xây dựng hệ thống quan trắc khí tượng thủy văn và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ nghiên cứu. 3) Báo cáo sơ bộ đánh giá tác động của biến đổi khí hậu đến vùng hạ du và ven biển lưu vực sông Hồng - Thái Bình (Viện Quy hoạch thủy lợi, 2008). Kết quả nghiên cứu đánh giá sơ bộ cho thấy biến đổi khí hậu sẽ tác động rất mạnh đến toàn bộ hệ thống lưu vực sông Hồng - Thái Bình như sau: Đến năm 2020 với mực nước biển dâng thêm 17 cm cùng với tăng lượng mưa trên lưu vực dẫn đến hệ số tiêu trung bình toàn vùng đạt khoảng 18 l/s/ha, diện tích bị úng khoảng 300.000 ha phân bổ ở khu vực đồng bằng ven biển. Cũng với trường hợp mực nước biển dâng thêm 17 cm thì tác động làm dâng mực nước lũ chỉ thể hiện rõ ở khu vực gần cửa sông (trung bình 35 km tính từ cửa sông), hệ thống đê sông vẫn đảm bảo, riêng đê sông Trà Lý có mực nước lũ xấp xỉ cao trình đỉnh đê cần có biện pháp nâng cao trình và 14 củng cố đê. Báo cáo đã đánh giá tác động đến từng vấn đề cấp nước, tiêu thoát nước, phòng chống lũ cùng với đề xuất các giải pháp ứng phó, thích nghi. Phạm vi ngập, mức độ ngập cũng được cung cấp qua các bản đồ. 4) Quy hoạch sử dụng tổng hợp nguồn nước lưu vực sông Hồng - Thái Bình (Viện Quy hoạch thủy lợi, 2007). Nội dung của quy hoạch này cũng đã sơ bộ đánh giá tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu đến vùng hạ lưu và vùng ven biển lưu vực sông Hồng - Thái Bình. Tác động cụ thể đến các hoạt động cấp nước, tiêu thoát nước và phòng chống lũ đã được sơ bộ định lượng cùng với đề xuất và tính toán các giải pháp thích nghi. Tuy vậy do hạn chế về thời gian cũng như điều kiện số liệu nên các tác động mới chỉ dừng ở mức đánh giá sơ bộ. 5) Chiến lược phát triển thuỷ lợi đến năm 2020 (Viện Quy hoạch thủy lợi, 2005) cũng đã xem xét đến tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu. Tuy nhiên do điều kiện thời gian và kinh phí có hạn nên bản Chiến lược này chưa xem xét được toàn diện các yếu tố biến đổi khí hậu có ảnh hưởng tới phát triển thuỷ lợi, cũng như chưa tính toán được đầy đủ các giải pháp cần có để phòng chống các ảnh hưởng này. 6) Nghiên cứu cơ sở khoa học và giải pháp công nghệ để phát triển bền vững lưu vực sông Hồng (Viện Quy hoạch thủy lợi, 2008). Mục tiêu và kết quả nghiên cứu của đề tài này là tìm giải pháp phân bổ tối ưu nguồn nước lưu vực sông Hồng đến năm 2020 đảm bảo hiệu quả sử dụng nước và đáp ứng tốt điều kiện môi trường nguồn nước lưu vực sông. Phương án vận hành điều tiết hệ thống công trình thủy lợi được xác định trên cơ sở tính toán tối ưu hiệu ích kinh tế các ngành sử dụng nước (các mục tiêu sử dụng nước như cấp nước cho trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, công nghiệp, sinh hoạt, phát điện…). Kết quả nghiên cứu đã xác định phương án chuyển nước từ dòng chính sông Hồng bổ sung nước làm giảm thiểu ô nhiễm nguồn nước cho lưu vực sông Nhuệ - Đáy (là lưu vực sông ô nhiễm rất trầm trọng hiện nay). Đề tài đã triển khai ứng dụng công nghệ GAMS để giải quyết bài toán tối ưu phi tuyến vận hành hệ thống công trình phân bổ nguồn nước cho các mục tiêu sử dụng nước trên lưu vực sông, mô hình toán sinh thái nguồn nước ECOLab mô phỏng hệ môi trường sinh thái, ô nhiễm kim loại nặng trong nguồn nước lưu vực sông. GAMS và ECOLab là những công nghệ tiên tiến hiện nay trên thế giới, Viện Quy hoạch thủy lợi là tổ chức nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam tiếp nhận chuyển giao và triển khai đưa vào ứng dụng thành công ở Việt Nam). 15 7) Nghiên cứu xây dựng quy trình vận hành hệ thống liên hồ chứa Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang phục vụ cấp nước trong mùa cạn cho hạ du lưu vực sông Hồng - Thái Bình (Viện Quy hoạch thủy lợi, 2007). Sản phẩm của quy trình là đảm bảo vận hành hệ thống liên hồ chứa lớn Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang và hệ thống công trình khai thác nguồn nước vùng hạ du lưu vực sông Hồng - Thái Bình phục vụ cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, thủy sản, giao thông thủy và yêu cầu môi trường chất lượng nước. Nghiên cứu đã ứng dụng công nghệ GAMS giải quyết bài toán tối ưu phi tuyến vận hành hệ thống công trình phân bổ nguồn nước cho các mục tiêu sử dụng nước trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình, đảm bảo mục tiêu cấp nước cho các ngành sử dụng nước đồng thời tối ưu lượng điện pháp trên toàn hệ thống liên hồ chứa đa mục tiêu. 8) Quy hoạch thủy lợi vùng duyên hải ven biển Bắc Bộ và Bắc Trung bộ do Viện Quy hoạch thủy lợi và Trường Đại học Thủy lợi thực hiện năm 2007 có sự phối hợp của Viện Kinh tế Quy hoạch Thủy sản. Mục tiêu và sản phẩm chính là giải quyết vấn đề cấp nước, tiêu thoát nước, phòng chống lũ và giảm nhẹ thiên tai đáp ứng quá trình phát triển của vùng ven biển từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên Huế. Kết quả tính toán dự báo cho thấy đến năm 2020 hệ thống thủy nông Nam Thái Bình sẽ không đảm bảo cấp đủ nước cho 18.000 ha đất canh tác của huyện Tiền Hải còn ở huyện Thái Thụy thuộc hệ thống thủy lợi Bắc Thái Bình sẽ có gần 6.000 ha không có công trình tiêu. Tại tỉnh Ninh Bình, hệ thống đê sông đều có cao trình thấp, mặt đê nhỏ, chưa đảm bảo yêu cầu chống lũ kết hợp triểu dâng, hệ thống đê biển Bình Minh có nhiều vị trí xung yếu chưa có kè bảo vệ, một số kè và cống đã có thì bị bị hỏng. Phương án quy hoạch đề xuất giải pháp đảm bảo cấp đủ nước cho toàn vùng, đảm bảo tiêu thoát và yêu cầu phòng chống lũ bão đến năm 2020. 9) Dự án Quy hoạch phòng chống lũ đồng bằng sông Hồng (Viện Quy hoạch thủy lợi, 2000). Giải pháp phòng chống lũ đề xuất cho đồng đồng bằng sông Hồng bao gồm: 1) Các phương án hồ chứa cắt lũ thượng nguồn, công trình vận hành chống lũ hạ du; 2) Xác định nhiệm vụ phòng chống lũ cho các hồ chứa lớn như Hòa Bình, Thác Bà, Tuyên Quang, Sơn La, Lai Châu; 3) Xác định hiệu quả các công trình khống chế dòng chảy lũ như cống sông Đào, âu Quần Liêu, các đập Đò Hàn, Sông Hóa cũng như các khu phân lũ chậm lũ lớn trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan