BỘ GIÁO DỤC VÀ DÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
**********************
LÊ VĂN THÀNH
ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN
VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA MỘT SỐ DÒNG BỐ
MẸ LÚA LAI BA DÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
**********************
LÊ VĂN THÀNH
ĐÁNH GIÁ ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG PHÁT TRIỂN
VÀ KHẢ NĂNG KẾT HỢP CỦA MỘT SỐ DÒNG BỐ
MẸ LÚA LAI BA DÒNG
CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC CÂY TRỒNG
MÃ SỐ: 60.62.01.10
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS NGUYỄN THỊ TRÂM
2. TS. NGUYỄN THANH TUẤN
HÀ NỘI, 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
Lê Văn Thành
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page i
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thị
Trâm, TS. Nguyễn Thanh Tuấn đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi
để tôi hoàn thành đề tài và bản luận văn Thạc sĩ nông nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ
Viện nghiên cứu và Phát triển cây trồng-Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Đặc biệt
các anh chị em Phòng Công nghệ lúa lai đã tạo điều kiện về thời gian và vật chất để
tôi thực hiện và hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn, tập thể các thầy cô Bộ môn Di truyền và Chọn
giống cây trồng trong Khoa Nông học, Ban quản lý đào tạo-Học viện Nông nghiệp
Việt Nam đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập và
thực hiện đề tài này.
Để hoàn thành được khoá học này, tôi còn nhận được sự động viên, hỗ trợ rất
lớn về vật chất, về tinh thần của gia đình, bạn bè.
Tôi xin trân trọng biết ơn những tình cảm cao quý đó!
Hà Nội, ngày 24 tháng 3 năm 2015
Tác giả luận văn
Lê Văn Thành
.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
i
LỜI CẢM ƠN
ii
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC BẢNG
vi
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1
1.1.
Đặt vấn đề
1
1.2.
Mục đích yêu cầu của đề tài
2
1.2.1. Mục đích
2
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
3
2.1
.
2.1
.1.
2.1
.2.
2.2
.
2.2
.1.
2.2
.2.
2.3
.
2.3
.1.
2.4
.
2.4
.1.
2.4
.2.
2.4
.3.
2.5
.
2.6
.
2.6
.1.
2.6
.2.
2.6
.3.
2.6
.4.
Tì
nh
Tì
nh
Tì
nh
Cơ
sở
Cơ
sở
M
ột
Cá
c
Đặ
c
Ph
ươ
Ch
ọn
Ch
ọn
Ch
ọn
Kỹ
th
Cá
c
Cá
ch
Kh
ử
Th
u
Bả
o
3
3
5
7
7
8
1
4
1
5
1
7
1
7
1
8
1
9
1
9
2
2
2
2
2
2
2
3
2
3
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 3
2.7 2
.
3
2.7 2
.1. 3
2.7 2
.2. 4
2.7 2
.3. 5
2.7 2
.4. 6
2.7 2
.5. 7
P 2
H 8
3.1 2
.
8
3.2 2
.
8
3.3 2
.
9
3.4 3
.
0
P 3
H 2
4.1
.
c3
n2
4.1 3
.1. 2
4.1
.2.
X3
ân3
4.1
.3.
v3
X4
4.1 3
.4. 5
4.2
.
đ3
u7
4.2
.1.
b3
t7
4.2
.2.
v3
d9
4.2 4
.3. 2
4.2
.4.
t4
g7
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 4
4.2.5. Một số chỉ tiêu chất lượng gạo của các tổ hợp lai và dòng bố trong vụ
Mùa 2014.
4.3.
52
Đánh giá giá trị ưu thế lai thực và ưu thế lai chuẩn của các tổ hợp lai
trong điều kiện vụ Mùa 2014.
55
4.3.1. Giá trị ưu thế lai thực, ưu thế lai chuẩn trên một số tính trạng số lượng.
55
4.3.2. Giá trị ưu thế lai thực, ưu thế lai chuẩn trên các tính trạng năng suất
59
4.3.3. Giá trị ưu thế lai thực và ưu thế lai chuẩn trên một số tính trạng chất lượng.
62
4.4.
Phân tích khả năng kết hợp của dòng bố mẹ ở một số tính trạng số
lượng và năng suất.
66
4.4.1. Kết quả phân tích phương sai một số tính trạng số lượng và năng suất.
66
4.4.2. Đánh giá khả năng kết hợp chung và khả năng kết hợp riêng của các
dòng bố mẹ lai thử.
P
H
5.1
.
5.2
.
T
ÀI
67
76
76
77
78
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 5
DANH MỤC BẢNG
STT
Tên bảng
Trang
3.1
Các dòng vật liệu nghiên cứu
4.1
Thời gian qua các giai đoạn sinh trưởng của các dòng A và R trong
4.2
4.3
4.4
4.5
4.6
4.7
a
4.7
b
4.8
4.9
4.1
0
4.1
1
4.1
2
4.1
3
đ
i
Đ
ặ
X
u
M
ứ
C
á
T
h
b
ố
M
ứ
k
i
M
ộ
M
ù
M
ộ
m
ù
C
á
v
ụ
N
ă
t
ổ
M
ộ
v
ụ
G
i
tr
ạ
G
i
tr
ạ
G
i
tr
ạ
28
3
2
3
3
3
5
3
6
3
7
4
0
4
2
4
5
4
7
5
0
5
4
5
6
5
9
6
2
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 6
4.1
4
4.1
5
4.1
6
4.1
7.
4.1
8
4.1
9
4.2
0
4.2
1
4.2
2
G
i
B
ả
G
iá
tí
n
G
iá
c
h
B
ả
tr
ạ
G
iá
h
ạt
G
iá
k
h
G
iá
n
ă
G
iá
n
ă
6
5
6
6
6
8
7
0
7
1
7
2
7
3
7
4
7
5
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page vii
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Trong một thời gian dài, ưu thế lai ở cây lúa vẫn chưa được sử dụng rộng
rãi như các cây trồng khác, vì lúa là cây tự thụ phấn nghiêm ngặt. Nhờ phát hiện ra
những hiện tượng bất dục đực ở lúa của các nhà khoa học Trung Quốc vào nhưng
năm cuối thế kỷ 20, việc nghiên cứu ứng dụng ưu thế lai ở lúa đã đạt được nhiều
thành tựu lớn, tạo ra một cuộc cách mạng đột phá về năng suất, góp phần đảm bảo an
ninh lương thực thế giới và tăng thu nhập cho người dân.
Việc khai thác và sử dụng ưu thế lai ở lúa được xem là giải pháp tốt để thúc
đẩy việc tăng sản lượng lúa. Sử dụng rộng rãi các giống lúa lai F1 vào sản xuất đã
làm tăng thu nhập và hiệu của kinh tế của sản xuất nông nghiệp (YuanL.P.et
all,1995).
Để chọn tạo thành công các giống lúa lai cần có các dòng bố mẹ có đặc điểm
nông sinh học tốt, khả năng kết hợp cao, nhân dòng và sản suất hạt lai F1 với năng
suất cao. Đặc biệt trong điều kiện Việt Nam, hạt giống lúa lai F1 sản xuất trong
nước mới chỉ đáp ứng được 20-25% nhu cầu nên việc chủ động tạo được các dòng
bố mẹ và con lai F1 nhằm hạn chế việc nhập khẩu là cần thiết.
Do công nghệ sản xuất cồng kềnh, tốn nhiều thời gian và kinh phí nên việc
nghiên cứu và chọn tạo giống lúa lai ba dòng ở nước ta chưa đạt được thành công
như lúa lai hệ hai dòng. Các vật liệu chọn giống lúa lai ba dòng đang được sử
dụng ở Việt Nam phần lớn có nguồn gốc nhập nội từ IRRI và Trung Quốc. Một số
dòng mẹ mới đã được chọn tạo song số lượng còn rất hạn chế. Vì vậy, để tạo
nhiều tổ hợp lai tốt, khai thác một cách tối đa ưu thế lai ở lúa nhằm nâng cao năng
suất, chất lượng và khả năng chống chịu của các tổ hợp này chúng ta cần phải có
nhiều dòng bố, mẹ tốt, khả năng kết hợp và cho ưu thế lai cao. Từ những yêu cầu
thực tế và định hướng phát triển lâu dài trong chương trình phát triển giống lúa lai
bền vững tại Việt Nam chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá đặc điểm sinh
trưởng, phát triển và khả năng kết hợp của một số dòng bố mẹ lúa lai ba dòng”.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 1
1.2. Mục đích yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
- Đánh giá đặc điểm sinh trưởng, phát triển, khả năng chống chịu của các
dòng A và R trong điều kiện miền bắc Việt Nam.
- Đánh giá khả năng kết hợp của các dòng A và R từ đó chọn ra các dòng bố
mẹ và tổ hợp lai ưu tú.
1.2.2. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá đặc điểm sinh trưởng, phát triển, năng suất, chất lượng và khả
năng chống chịu sâu bệnh tự nhiên của các dòng A, R trong điều kiện vụ Xuân 2014
- Lai thử một số dòng R trong tập đoàn của Phòng Công nghệ lúa lai với các
dòng A nghiên cứu để đánh giá khả năng nhận phấn trong vụ Xuân.
- Đánh giá khả năng kết hợp của các dòng A và R trong điều kiện miền Bắc
Việt Nam từ đó chọn ra các dòng bố mẹ và tổ hợp lai ưu tú.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 2
PHẦN II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nghiên cứu và phát triển lúa lai trong nước và thế giới.
2.1.1. Tình hình nghiên cứu và phát triển lúa lai trên thế giới.
Yuan Long Ping được xem như là “Cha đẻ của lúa lai”. Trong những năm
1960 và 1970 công trình của ông đã thúc đẩy sự phát triển của cây lúa với tính năng
bất dục đực di truyền. Điều này có nghĩa rằng sự tự thụ phấn không xảy ra, cho
phép nó được thụ phấn chéo bởi một cây lúa khác, tạo điều kiện cho thụ phấn chéo
xảy ra. Kỹ thuật này hiện được sử dụng rộng rãi bởi các nhà nhân giống lúa trên thế
giới để phát triển lúa lai.
Năm 1964, Tại đảo Hải Nam Yuan Long Ping và cộng sự đã phát hiện được
cây lúa dại bất dục trong loài lúa dại Oryzae fatuaspontanea, sau đó họ đã chuyển
được tính bất dục đực hoang dại này vào lúa trồng và tạo ra những vật liệu di truyền
hoàn toàn mới giúp cho việc khai thác ưu thế lai thương phẩm. Năm 1973 lô hạt
giống F1 ba dòng đầu tiên được sản xuất. Năm 1974 Trung Quốc đưa ra một số tổ
hợp lai cho ưu thế cao đồng thời quy trình sản xuất hạt lai "ba dòng" cũng được
hoàn thiện vào năm 1975. Năm 1976, Trung Quốc đã có khoảng 140.000 ha gieo
cấy lúa lai thương phẩm (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, 2002). Những
năm 1970, Yuan L.P. và cộng sự tạo ra các tổ hợp năng suất cao, dạng hình lý
tưởng, dễ dàng sử dụng như: Nam ưu số 2, Uỷ ưu số 7 (Nguyễn Trí Hoàn, 2002).
Bên cạnh đó Trung Quốc cũng bắt đầu nghiên cứu sử dụng gen tương hợp
rộng (WCG). Đồng thời phát hiện gen p(t)ms tạo nên điểm đột phá dẫn đến một
cuộc cách mạng mới trong công nghệ sản xuất lúa lai: Phương pháp sản xuất lúa lai
"2 dòng". Bước đi đầu tiên thử nghiệm lúa lai hai dòng là sử dụng hoá chất diệt hạt
phấn nhưng độ thuần F1 thấp, giá thành đắt, ảnh hưởng môi trường. Những nghiên
cứu sử dụng các dòng bất dục đực di truyền nhân cảm ứng môi trường (EGMS) tỏ
ra khả quan (Nguyễn Thị Gấm, 2003).
Năm 1973, Shi Mingsong phát hiện một số cây bất dục trong quần thể của
giống Nongken 58, ở độ dài ngày trên 14h chúng thể hiện tính bất dục, ở độ dài
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 3
ngày dưới 13h45' chúng lại biểu hiện hữu dục. Qua nghiên cứu ông thấy tính trạng
này do một cặp gen lặn trong nhân điều khiển. Theo Yuan L.P., dòng Nongken 58
đặc trưng cho dạng bất dục PGMS cảm ứng mạnh với ánh sáng và cảm ứng yếu với
0
nhiệt độ, giới hạn chuyển hoá là 13h45' (điều kiện 23-26 C). Theo Shi Mingsong,
thời kỳ mẫn cảm là phân hoá gié cấp 1 đến hình thành tế bào mẹ hạt phấn (10-12
ngày trước trỗ) (Trích theo Quách Ngọc Ân, 2002).
Năm 1988, Murayama và cộng sự phát hiện dòng TGMS trên giống Annongs
0
từ dạng đột biến tự nhiên, quan sát thấy trong điều kiện nhiệt độ trên 27 C dòng này
0
thể hiện bất dục, điều kiện dưới 24 C chúng thể hiện tính hữu dục. Tính trạng này
do gen lặn trong nhân quy định. Theo Yuan L.P., ông cho rằng Annongs là dòng
đặc trưng cho bất dục dạng TGMS thuộc loài phụ Indica, bất dục trong điều kiện
0
nhiệt độ cao, nhiệt độ chuyển hoá 23-24 C. Giai đoạn mẫn cảm là giai đoạn hình
thành hạt phấn hoặc phân bào giảm nhiễm (Trích theo Quách Ngọc Ân, 2002).
Công nghệ sản xuất lúa lai của Trung Quốc đã được ứng dụng rộng rãi ở
nhiều nước trên thế giới. Đã có 17 quốc gia, nghiên cứu và phát triển lúa lai, diện
tích lúa lai chiếm khoảng 10% và chiếm khoảng 20% tổng sản lượng lúa toàn Thế
Giới. Lúa lai đã mở ra hướng phát triển mới để nâng cao năng suất, chất lượng lúa
gạo và góp phần đảm bảo an ninh lương thực trên phạm vi toàn cầu (Virmani S.S.,
1995). Tại hội nghị lúa lai quốc tế lần thứ năm được tổ chức tại Hồ Nam, Trung
Quốc năm 2008 đã tổng kết trồng lúa lai ở các nước ngoài Trung Quốc tới năm
2007 là 2.521.000 ha, trong đó Ấn Độ (1.100.000 ha), Việt Nam (650.00 ha),
Philippines (341.000 ha), Bangladesh (300.000 ha), Indonesia (130.000 ha)
(Fangming Xie, 2008). Diện tích này còn tiếp tục tăng những năm sau. Một số nước
như Indonesia và Mỹ đã tiến hành sản xuất lúa lai trên quy mô công nghiệp.
Siêu lúa lai được Yuan L.P. nghiên cứu từ năm 1997 đến 2000, đã trồng
240.000 ha, năng suất bình quân đạt 9,6 tấn/ha. Năm 2002, trồng 1,4 triệu ha, năng
suất 9,1 tấn/ha (Trần Văn Đạt, 2005), và hiện nay đã có hàng chục giống lúa đạt
năng suất cao và siêu cao, được trồng trên diện tích rộng, năng suất tăng 10% so với
giống lúa lai hiện có, đạt năng suất 10,5 tấn/ha (năm 2000) và giai đoạn 2 năng suất
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 4
đạt 12 tấn/ha (năm 2005), ở diện tích thí nghiệm nhỏ “siêu lúa lai” đạt tới 19,5
tấn/ha (tổ hợp Kim 23A/Q661).
Qua 30 năm nghiên cứu, dùng phương pháp lai xa huyết thống, lai xa địa lý
sinh thái, Trung Quốc đã tạo được hơn 600 dòng vật liệu bất dục di truyền tế bào
chất (A) và dòng duy trì (B) tương ứng, hơn 3000 dòng phục hồi (R) để tạo ra nhiều
tổ hợp lai trong đó có hơn 200 tổ hợp được gieo trồng phổ biến trong sản xuất.
Thành tựu về lúa lai có thể xem là cuộc cách mạng xanh lần thứ hai trong
nông nghiệp, góp phần đảm bảo an ninh lương thực thế giới và tăng thu nhập của
người nông dân trong các biện pháp kỹ thuật hiện nay (Leocadios, Sebastian
Flordeliza H., Boedey, 2005).
IRRI đã tham gia vào nghiên cứu lúa lai từ năm 1979. Nghiên cứu của họ
vào lúa lai hiện nay tập trung vào sản xuất lúa lai có năng suất cao nhất, chất lượng
hạt tốt, khả năng chịu áp lực môi trường khắc nhiệt, kháng sâu bệnh côn trùng và
các bệnh và năng suất sản xuất hạt giống cao.
Trong năm 1992, IRRI thành lập văn phòng đại diện tại Hà Nội nhằm hỗ
trợ hợp tác tốt hơn với Việt Nam.(Hồ Đình Hải, 2013).
2.1.2. Tình hình nghiên cứu và phát triển lúa lai ở Việt Nam.
ViÖt Nam ® tiÕp thu nh÷ng thµnh tùu vÒ nghiªn cøu vµ ph¸t triÓn lóa lai
cña Trung Quèc. N¨m 1991, ® trång thö h¬n 100 ha lóa lai cho kÕt qu¶ rÊt kh¶
quan. N¨m 1992, ViÖt Nam b¾t ®Çu nghiªn cøu lóa lai. Ch−¬ng tr×nh nghiªn cøu
lóa lai ®−îc sù tham gia cña c¸c c¬ quan
nghiªn cøu kh¸c nhau nh−: ViÖn
Di truyÒn N«ng nghiÖp, Tr−êng §¹i häc N«ng nghiÖp Hµ Néi, ViÖn C©y L−¬ng
thùc vµ c©y thùc phÈm, ViÖn B¶o vÖ thùc vËt, ViÖn Nghiªn cøu lóa §ång b»ng
s«ng Cöu long, ViÖn N«ng ho¸ thæ nh−ìng vµ Trung t©m kh¶o kiÓm nghiÖm
gièng c©y trång Trung −¬ng. §−îc sù hç trî cña c¸c dù ¸n, c¸c tæ chøc n−íc
ngoµi, ®Æc biÖt lµ cña c¸c chuyªn gia lóa lai Trung Quèc chóng ta ®
®µo t¹o
®−îc c¸n bé, thu thËp ®−îc vËt liÖu phôc vô cho nghiªn cøu vµ s¶n xuÊt thö
nghiÖm h¹t gièng lóa lai (NguyÔn TrÝ Hoµn, 2002).
Hiện nay, diện tích canh tác lúa ngày càng giảm nhưng năng suất và sản
lượng lúa vẫn tăng do: Bố trí cơ cấu mùa vụ được điều chỉnh hợp lý, kỹ thuật canh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 5
tác được cải tiến, các giống lúa năng suất cao được đưa vào đồng ruộng ngày càng
nhiều, trong đó các tỉnh phía Bắc đã trồng lúa lai năm sau cao hơn năm trước, góp
phần làm tăng tổng sản lượng lúa (Nguyễn thị Trâm, 2012). Diện tích lúa lai trong
cơ cấu giống tăng từ 1% năm 1995, lên 9,54% năm 2009. Theo Bộ nông nghiệp và
phát triển nông thôn (2010), năng suất lúa lai trong các năm đều cao hơn năng suất
lúa trung bình toàn quốc từ 24,28-66,39%. Sự tham gia của các giống lúa lai vào cơ
cấu giống lúa đã góp phần làm tăng năng suất và sản lượng lúa ở các tỉnh phía Bắc
và đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói giảm nghèo (Nguyễn thị Trâm, 2012).
Diện tích trồng lúa lai thương phẩm ở Việt Nam tăng rất nhanh. Sau khi cấy
thử lúa lai trong vụ mùa năm 1991 trên diện tích 100 ha, từng bước được mở rộng
ra 36 tỉnh đại diện cho các vùng sinh thái khác nhau, bao gồm cả miền núi, đồng
bằng, trung du Bắc bộ, duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng Sông Cửu
Long. Đến nay, diện tích trồng lúa lai ở Việt Nam được phát triển với tốc độ khá
nhanh, từ 11.094 ha (1992) tăng lên 435.508 ha năm 2000 và 613.117 ha năm 2012
(bảng 1) và Việt Nam trở thành quốc gia có diện trồng lúa lai lớn thứ ba trên thế
giới sau Trung Quốc và Ấn Độ. Tổng kết nhiều năm cho thấy năng suất lúa lai cao
hơn lúa thuần từ 10-20% trong cùng điều kiện canh tác. Năng suất trung bình đạt
6,5 tấn/ha (lúa thuần là 5,27 tấn/ha). Nhiều diện tích lúa lai đạt 9-10 tấn/ha, nơi cao
nhất đã đạt 11-14 tấn/ha (Cục trồng trọt - Bộ NN&PTNT, 2012).
Đối với lúa lai ba dòng, các nhà nghiên cứu đã thu thập và đánh giá sự thích
ứng của 77 dòng mẹ bất dục đực CMS, 77 dòng duy trì tương ứng và rất nhiều dòng
phục hồi từ Viện nghiên cứu lúa quốc tế (IRRI), Trung Quốc, Ấn Độ. Các Viện,
Trường đã nghiên cứu và duy trì được các nguồn này. Hiện nay các dòng CMS
đang được sử dụng ở Việt Nam là BoA, II32A, IR50825A, IR68897A...và các dòng
duy trì tương ứng đồng thời đã chọn được hàng 100 dòng bố phục hồi phấn phục vụ
cho chương trình lai tạo. Viện Cây lương thực và cây thực phẩm đã lai tạo và chọn
lọc được 3 dòng CMS đó là AMS71S, AMS72S, AMS73S và 22 dòng B có khả
năng duy trì tốt. Hàng năm lai tạo khoảng 2000 tổ hợp lai, kết quả là đã chọn tạo
được một số tổ hợp lai cho năng suất cao, chất lượng tốt như HYT56, HYT57,
HYT92, HYT100 (công nhận tạm thời), giống HYT83 (Công nhận quốc gia) và một
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 6
số tổ hợp có triển vọng HYT84, HYT101, HYT102, HYT103, HYT95…. Hoàn
thiện qui trình nhân dòng và sản xuất hạt lai F1 của các tổ hợp lai ba dòng: Bắc ưu
903, Bắc ưu 64, Bắc ưu 253, Nhị ưu 838, Nhị ưu 63, D ưu 525…( Nguyễn Trí
Hoàn, 2007)
2.2. Cơ sở khoa học của đề tài.
Việc sử dụng rộng rãi các giống lai F1 vào sản xuất đã làm tăng thu nhập và
hiệu quả kinh tế của sản xuất nông nghiệp (Yuan L.P và cs, 1995).
Trong một thời gian dài, ƯTL ở cây lúa vẫn chưa được sử dụng rộng rãi như
ở các cây trồng khác, vì lúa là một cây tự thụ nghiêm ngặt (Nguyễn Văn Hoan và
Vũ Hồng Quảng, 2006). Sau đó nhờ những phát hiện ra những hiện tượng bất dục
đực ở lúa, vấn đề ƯTL ở lúa đã đạt được nhiều thành tựu lớn, tạo ra một cuộc cách
mạng đột phá năng suất, góp phần đảm bảo an ninh lương thực thế giới và tăng thu
nhập cho người nông dân.
Theo Hoàng Bồi Kính (1993), Trung Quốc là nước đầu tiên ứng dụng thành
công ƯTL và đã đưa lúa lai vào sản xuất thành công trên hàng chục triệu ha trong 2
thập kỷ qua. Sau đó, chương trình nghiên cứu và phát triển lúa lai đã được ứng dụng
trên 20 nước khác nhau trên phạm vi toàn cầu.
2.2.1. Cơ sở di truyền của hiện tượng ưu thế lai.
2.2.1.1. Thuyết siêu trội
Thuyết này do Shull và East công bố năm 1908 (Nguyễn Hồng Minh, 1999).
Các tác giả cho rằng ưu thế lai gây nên do kết quả của tác động qua lại giữa các alen
khác nhau cùng vị trí. Ở trạng thái dị hợp tử theo các alen, mỗi gen trội và lặn đều
giữ một chức năng khác nhau do sự phân hoá khác nguồn của các alen. Do tác động
tương hỗ giữa các alen trong cùng một locus sẽ tạo ra những ảnh hưởng làm cho
con lai dị hợp tử có sức sống vượt xa bất kỳ dạng đồng hợp thể nào: a1a1
a2a2
hoặc AA < Aa > aa. Với giả thiết này thì con lai càng có độ dị hợp cao thì ưu thế lai
càng lớn, giảm độ dị hợp tử thì cũng giảm ưu thế lai.
Thuyết siêu trội được nhiều công trình chứng minh, tuy nhiên vẫn có những
thực nghiệm đối lập thuyết này. Ở cây tự thụ phấn, các con lai giữa các dòng, giống
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 7
khác nhau về mặt di truyền không phải luôn luôn cho ƯTL cao hơn bố mẹ đồng
hợp tử (Nguyễ Hồng Minh, 2006).
2.2.1.2. Thuyết tính trội
Thuyết tính trội do Davenport đề xuất năm 1908, sau đó Bruce Keeble và
Pellew bổ sung vào năm 1910 (Nguyễn Hồng Minh, 1999. Nguyễn Công Tạn và cs,
2002). Theo thuyết này các alen trội là những alen có lợi còn các alen lặn đồng vị
của chúng có hại, làm giảm sức sống. Ưu thế lai là kết quả của sự tác động tương hỗ
giữa các gen trội có lợi được hình thành trong quá trình tiến hoá của sinh vật, cũng
theo thuyết này thì con lai càng có nhiều alen trội thì ưu thế lai càng cao.
♀ Aabb
x
♂ aaBB
F1: AaBb
A>a
Gen trội ức chế gen lặn
B>b
2.2.2. Một số nghiên cứu về biểu hiện ưu thế lai và sử dụng ƯTL ở lúa.
ƯTL xuất hiện ngay từ khi hạt nảy mầm cho đến khi hoàn thành quá trình
sinh trưởng và phát triển của cây. Sự biểu hiện ƯTL ở các cơ quan sinh trưởng sinh
dưỡng, sinh trưởng sinh thực và có thể quan sát được ở các tính trạng hình thái, đặc
tính sinh lý, hóa sinh, năng suất, chất lượng, khả năng thích ứng chống chịu...
(Nguyễn Văn Hiển và cs, 2000).
Cây lúa có kiểu hình khoẻ đẹp là cơ sở cho năng suất cao và là mục tiêu của
các nhà chọn giống nhằm tạo ra được các giống có kiểu cây lý tưởng. Năm 1980,
các nhà chọn giống lúa Nhật Bản đã đề xuất kiểu hình cho giống lúa siêu cao sản
với năng suất vượt lên 25% sau 15 năm cải tiến giống. Donald (1986), người khởi
xướng đầu tiên về kiểu cây lý tưởng, Huang cho rằng sinh trưởng nhanh mạnh, đẻ
nhiều cho ưu thế lai vượt trội về năng suất, Zhou cho rằng kiểu cây lý tưởng phải có
bông to. Yuan L.P (1997) đặc biệt nhấn mạnh đến việc tạo ra kiểu hình đạt đến sự
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 8
hài hoà giữa “nguồn” và “sức chứa”, ông tạo ra tổ hợp lai Peiai64S/E32 với kiểu
cây lý tưởng, năng suất đạt 13,9 tấn/ha (Ngô Thế Dân, 2002).
2.2.2.1. ƯTL về số lá trên cây
Tổng số lá trên cây có liên quan đến thời gian sinh trưởng và diện tích quang
hợp của quần thể. Theo Nguyễn Văn Hiển (2000), nhóm giống lúa ngắn ngày
thường có khoảng 12-15 lá, có thời gian sinh trưởng từ 90-120 ngày, trong đó có
nhiều giống cực ngắn khoảng 12-13 lá, nhóm trung bình có 16-18 lá, có thời gian
sinh trưởng 140-160 ngày và nhóm dài ngày có khoảng 20-21 lá và thời gian sinh
trưởng là 170-200 ngày.
Yuan Long Ping (1995) và các nhà chọn giống lúa Trung Quốc cho rằng: lá
đòng dài, rộng vừa phải, bản lá lòng mo, dày, đứng và xanh đậm là lý tưởng.
Kết quả nghiên cứu của Jenning (1981) cho rằng lá đòng dài và di truyền độc
lập không liên quan với gen lặn điều khiển độ dài thân, đặc điểm này rất quan trọng
bởi vì có thể chuyển gen lùn sang những giống có tính trạng mong muốn mà vẫn
giữ được tính lùn (Ngô Thế Dân, 2002).
Lá đứng được kiểm tra bởi 1 gen lặn có hệ số di truyền cao, cặp gen này có
tác dụng đa hiệu vừa gây nên thân ngắn, vừa làm cho bộ lá đứng thẳng, cứng và
ngắn, độ dài lá có quan hệ đa hiệu với gen xác định chiều cao cây, nhưng còn bị chi
phối của điều kiện môi trường, độ dày lá có quan hệ chặt với tiềm năng năng suất
lúa (Nguyễn Thị Gấm, 2003).
2.2.2.2. ƯTL về số nhánh và khả năng đẻ nhánh
Số nhánh lúa và động thái đẻ nhánh là một trong những mục tiêu mà nhà
chọn giống đưa ra để chọn tạo giống mới. Số nhánh hữu hiệu cao quyết định số
bông/khóm là một yếu tố cấu thành năng suất. Trong điều kiện cấy 1-2 dảnh và cấy
thưa cây lúa có thể đẻ được 20-30 nhánh.
Đối với lúa thì số nhánh đẻ của một cá thể là di truyền số lượng với hệ số di
truyền thấp đến trung bình. Nếu một trong hai bố mẹ có khả năng đẻ nhánh khoẻ thì
con lai đẻ khoẻ và ở các thế hệ phân ly sẽ xuất hiện những cá thể đẻ khoẻ với tần số
cao (Ngô Thế Dân, 2002).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 9
Nghiên cứu các tổ hợp lai, Nguyễn Thị Gấm (2003) nhận xét rằng kiểu đẻ
nhánh chụm và đứng thẳng là do gen lặn quy định còn kiểu đẻ nhánh xoè là trội.
Theo đề xuất của Yuan Long Ping (1990), cây lúa đạt năng suất cao phải có khả
năng đẻ nhánh trung bình, khi chín đầu bông uốn cong cách mặt ruộng 60cm, lá
đòng luôn che khuất bông.
2.2.2.3. ƯTL về chiều cao cây
Gen lùn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo ra kiểu cây lý tưởng, ở
lúa có 2 kiểu gen lùn chính trong tự nhiên, ngoài ra còn có một số kiểu gen lùn do
đột biến tự nhiên hay nhân tạo. Các cặp gen lặn sẽ làm cho các lóng bị rút ngắn
nhưng không rút ngắn chiều dài bông. Gen lùn có hệ số di truyền cao nhưng không
liên kết với gen làm nhỏ hạt vì vậy được sử dụng khá rộng rãi trong các chương
trình cải tiến vật liệu bố mẹ lúa lai (Ngô Thế Dân, 2002).
Chiều cao của lúa lai cao hay thấp phụ thuộc vào đặc điểm của bố mẹ, tùy
từng trường hợp, chiều cao của F1 có lúc biểu hiện ưu thế lai dương, có lúc nằm
trung gian giữa bố và mẹ có lúc lại xuất hiện ưu thế lai âm.
2.2.2.4. ƯTL về thời gian sinh trưởng
Thời gian sinh trưởng của cây lúa tính từ khi hạt thóc nảy mầm cho đến khi
chín, thay đổi từ 90-180 ngày tuỳ theo giống và điều kiện ngoại cảnh. Nắm được
quy luật thay đổi thời gian sinh trưởng của cây lúa là cơ sở chủ yếu để xác định thời
vụ gieo cấy, cơ cấu giống, luân canh tăng vụ ở các vùng khác nhau (Nguyễn Minh
Công và Nguyễn Tiến Thăng, 2007).
Thời gian sinh trưởng được chia làm hai giai đoạn là giai đoạn sinh trưởng
sinh dưỡng và giai đoạn sinh trưởng sinh thực (sinh sản). Giai đoạn sinh sản thường
kéo dài 27-35 ngày, trung bình 30 ngày. Hầu hết các giống lúa ở vùng nhiệt đới có
giai đoạn chín khoảng 30 ngày.
Thời gian sinh trưởng của lúa bị ảnh hưởng môi trường như ngày dài, nhiệt
độ và điều kiện đất, đã có 15 QTL được xác định trên quần thể lai giữa Nipponbare
và Kasalath; trong đó 9 QTL: Hd1(Se1), Hd2, Hd3a, Hd3b, Hd4, Hd5, Hd6, Hd8,
Hd9 di truyền theo Mendel. Roonsattham et al. 2006; Uga et al., 2007), nghiên cứu
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 10
giống lúa thơm Khao Dawk Mali 105 cho biết có 3 gen Hd1, Hd3a, Hd6 điều khiển
phản ứng quang chu kỳ của giống này.
Dựa trên phân tích di truyền số lượng, Kiều Thị Ngọc (2002) cho rằng gen
cộng tính và siêu trội điều khiển tính trạng thời gian sinh trưởng. Đồng thời, Uga
(2007) cũng cho rằng các locus liên quan đến phản ứng quang chu kỳ có tác động
cộng tính.
Yuan Long Ping (1980) cho rằng đa số con lai F1 có thời gian sinh trưởng
khá dài và thường dài hơn bố mẹ sinh trưởng dài nhất. Xu và Wang (1980) nhận xét
rằng thời gian sinh trưởng của con lai phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng của dòng
phục hồi (dòng R) (Nguyễn Thị Trâm, 1995; Vũ Hồng Quảng, 2003).
Lúa lai có thời gian sinh trưởng ngắn hơn các giống lúa thường vì hầu hết
các dòng mẹ đang sử dụng hiện nay có thời gian sinh trưởng cực ngắn đến ngắn khi
lai dòng R sinh trưởng trung bình, con lai có thời gian sinh trưởng trung gian giữa
bố và mẹ. Thời gian sinh trưởng của cây lúa biến động trong phạm vi rộng, là tính
trạng số lượng do nhiều gen cùng kiểm soát. Khi lai hai giống lúa có thời gian sinh
trưởng khác nhau, con lai F1 của đa số tổ hợp lai biểu hiện hiệu ứng cộng tính (Ngô
Thế Dân, 2002; Nguyễn Thị Gấm, 2003).
2.2.2.5. ƯTL về khả năng chống chịu
Đặc tính chống sâu bệnh ở lúa lai đa số do gen trội hoặc trội không hoàn toàn
kiểm tra. Nếu một trong hai bố mẹ mang gen chống chịu sâu bệnh thì sau đó được
truyền cho con lai F1 và mất đi nhanh chóng ở các thế hệ tiếp theo (Nguyễn Trí
Hoàn, 2002).
Nếu bố mẹ có những đặc điểm tốt được lai với nhau có thể giữ lại tính trạng
đó ở đời sau làm cho con lai F1 hoàn thiện hơn, ví dụ dòng mẹ Shan ưu 6 có đặc
điểm nổi bật như kháng đạo ôn, thời gian sinh trưởng ngắn, đẻ nhánh yếu, khối
lượng 1000 hạt cao. Dòng bố IR26 chống bạc lá, thời gian sinh trưởng dài, đẻ nhánh
khoẻ, khối lượng 1000 hạt nhẹ, khi lai hai dòng trên với nhau cho con lai F1 có các
tính trạng được bổ sung khá hoàn thiện là: vừa kháng đạo ôn, vừa kháng bạc lá, có
thời gian sinh trưởng trung bình, đẻ nhánh khoẻ, khối lượng 1000 hạt nặng (Lê Duy
Thành, 2001).
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Nông
nghiệp
Page 11