Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn quảng nam...

Tài liệu đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn quảng nam

.PDF
76
387
121

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ NHO TUẤN ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG HÀ NỘI, năm 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ NHO TUẤN ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM Chuyên ngành: Chính sách công Mã số: 60.34.04.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. NGUYỄN TRỌNG XUÂN HÀ NỘI, năm 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Các kết quả trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả luận văn Lê Nho Tuấn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ............................................................................8 1.1. Khái niệm, mục tiêu và vai trò của nông thôn mới ..............................................8 1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nông thôn mới ............13 1.3. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng nông thôn mới .................16 1.4. Tiêu chí xây dựng nông thôn mới của Việt Nam ...............................................22 1.5. Các công cụ, giải pháp thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới .............24 1.6. Phương pháp và tiêu chí đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới............29 1.7. Kinh nghiệm thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới của một số địa phương.......................................................................................................................30 CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH QUẢNG NAM .........................................................................................................................35 2.1. Khái quát đặc điểm nông thôn và những yếu tố tác động đến thực hiện chính sách xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Nam........................................................35 2.2. Kết quả thực hiện xây dựng nông thôn mới tỉnh Quảng Nam ...........................40 2.3. Đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới từ thực tiễn Quảng Nam ...............47 CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI.................................................................................................56 3.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước có tác động đến chính sách xây dựng nông thôn mới ....................................................................................................................56 3.2. Quan điểm, định hướng về chính sách xây dựng nông thôn mới ......................58 3.3. Giải pháp hoàn thiện chính sách xây dựng nông thôn mới ................................58 3.4. Kiến nghị ............................................................................................................61 KẾT LUẬN ..............................................................................................................65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT HĐND : Hội đồng nhân dân KT-XH : Kinh tế - xã hội MTQG : Mục tiêu Quốc gia NTM : Nông thôn mới UBND : Ủy ban nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; được Đảng, Nhà nước ta hết sức quan tâm và dành nhiều nguồn lực đầu tư cho khu vực này. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi nông nghiệp và nông dân là lực lượng quan trọng góp phần tạo nên sự giàu có của đất nước, Người cho rằng nông nghiệp phải là mặt trận hàng đầu, muốn phát triển đất nước phải coi trọng cả vấn đề Nông nghiệp - Nông dân - Nông thôn. Định hướng phát triển kinh tế trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) là "phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng NTM" [46, tr.75]. Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm; nâng cao giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu. Tại Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã thông qua Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông thôn, nông dân với mục tiêu "xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng KT-XH hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường" [1]. Tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10 - 11, năm 2015), Quốc hội Khóa XIII đã quyết định cả nước chỉ thực hiện 2 chương trình MTQG: (1) xây dựng NTM và (2) giảm nghèo bền vững (trước đây 16 chương trình). Với quyết định này, nguồn lực đầu tư của Quốc gia không còn bị phân tán, dàn trải mà được tập trung một cách có trọng tâm vào 2 chương trình MTQG. Theo kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020 đã 1 được Quốc hội thông qua, vốn dành cho Chương trình MTQG xây dựng NTM là 43.119 tỷ đồng [15, tr.2]. Thực hiện chủ trương, định hướng của Đảng, ngày 04/6/2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình MTQG về xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020. Trước đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về việc ban hành bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM (sửa đổi tại Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2013 và được thay thế tại Quyết định 1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016). Cùng với cả nước, chính sách xây dựng NTM cũng được triển khai đồng bộ, quyết liệt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam với 204 xã (trong tổng số 244 xã, phường, thị trấn) được quy hoạch xây dựng NTM. Tỉnh ủy Quảng Nam có Chỉ thị số 30CT/TU ngày 24/4/2013 về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Chương trình MTQG xây dựng NTM. HĐND, UBND tỉnh Quảng Nam ban hành nhiều cơ chế, chính sách cũng như thành lập và ban hành quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo, Văn phòng điều phối triển khai thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM. Như vậy, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước về xây dựng NTM được ban hành và triển khai thực hiện từ năm 2010. Đây là một trong những chính sách công có tầm ảnh hưởng rộng lớn, có tính chất quan trọng. Đến nay, chính sách xây dựng NTM đã đi được hơn nữa chặn đường của giai đoạn 2010-2020, việc tổ chức xem xét, đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam vào thời điểm hiện nay là cần thiết và phù hợp nhằm chỉ ra những kết quả đạt được để tiếp tục phát huy; những bất cập, hạn chế và đưa ra các kiến nghị, đề xuất để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách. Quảng Nam là tỉnh khu vực duyên hải miền Trung, với đặc thù địa hình phức tạp; đặc điểm nông thôn, nông nghiệp cũng hết sức đa dạng, từ đồng bằng duyên hải đến khu vực trung du và miền núi với nhiều phương thức sản xuất nông nghiệp, tập quán sinh sống, canh tác khác nhau. Do vậy, việc chọn vấn đề "Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Quảng Nam" làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ 2 Chính sách công có tính bao quát và đại diện cao. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Nghiên cứu về nông nghiệp, nông thôn, nông dân và đặc biệt về NTM được nhiều tác giả, nhà nghiên cứu quan tâm, cả trong nước lẫn nước ngoài. Một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như: - Công trình “Một số vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở các nước và Việt Nam” của Kerrkvliet, Jamesscott do Nguyễn Ngọc và Đỗ Đức Định sưu tầm và giới thiệu về vai trò, đặc điểm của nông dân, thiết chế nông thôn ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam. - Bài viết “Thực tiễn hiện đại hóa nông nghiệp đặc sắc Trung Quốc và kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam” của tác giả Lê Thế Cương đã phân tích thực tiễn con đường hiện đại hóa nông nghiệp đặc sắc Trung Quốc và rút ra những bài học kinh nghiệm đối với xây dựng nông thôn ở nước ta. - Cuốn sách "Quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn ở Trung Quốc" của tác giả Nguyễn Xuân Cường. Cuốn sách viết về nông thôn ở Trung Quốc với một số vấn đề như: chuyển đổi thể chế kinh tế nông nghiệp, nông thôn; phát triển công nghiệp nông thôn; quá trình giải quyết các vấn đề xã hội nông thôn, quá trình đô thị hóa nông thôn... - Cuốn sách "Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau hai mươi năm đổi mới Quá khứ và hiện tại" của tác giả Nguyễn Văn Bích. Cuốn sách đã mô tả khá toàn diện phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân nước ta từ đầu thế kỷ XX đến nay, nhất là 20 năm đổi mới. - Cuốn sách "Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020" của tác giả Nguyễn Thị Tố Quyên đã phân tích một số điểm nổi bật về nông nghiệp, nông thôn, nông dân từ năm 2000 đến nay và cơ hội, thách thức của nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam trước các mô hình tăng trưởng kinh tế. . - Cuốn sách "Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của tác giả Đặng Kim Sơn. Trên cơ sở 3 nghiên cứu một số nước trên thế giới, tác giả có sự liên hệ vào điều kiện cụ thể của Việt Nam như: vai trò của nông nghiệp trong công nghiệp hóa, vấn đề cơ cấu sản xuất, giải quyết những vấn đề lao động, đất đai, môi trường... trong công nghiệp hóa đất nước. - Cuốn sách "Xây dựng NTM, những vấn đề lý luận và thực tiễn" của Vũ Văn Phúc là tập hợp nhiều bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan trung ương, các địa phương, các ngành, các cấp về xây dựng NTM. - Bài viết “Xây dựng NTM là sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng và nhân dân ta” của tác giả Hồ Xuân Hùng đã nêu rõ nội dung nông thôn và NTM Việt Nam, nhấn mạnh một số biện pháp, điều kiện thực hiện 19 tiêu chí Quốc gia về xây dựng NTM trong giai đoạn hiện nay. Bài viết: “Xây dựng mô hình NTM ở nước ta hiện nay” của tác giả Phan Xuân Sơn và Nguyễn Cảnh với phân tích về nông thôn Việt Nam trước yêu cầu mới; những hình dung ban đầu về các tiêu chí của mô hình NTM; những nhân tố chính của mô hình NTM và đề xuất Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, và động viên tinh thần Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi và hoạch định chính sách. - Bài viết "Chương trình NTM ở Việt Nam: một số vấn đề đặt ra và kiến nghị" của GS.TS Đỗ Kim Chung và PGS.TS Kim Thị Dung. Trên cơ sở đánh giá thực trạng triển khai chương trình NTM, bài viết này chỉ ra những bất cập và đề xuất một số giải pháp về chính sách nhằm hoàn thiện chương tình NTM ở nước ta. - Nhiều đề tài luận án, luận văn tiến sỹ, thạc sỹ trong thời gian qua cũng nghiên cứu về kết quả xây dựng NTM trên địa bàn cụ thể một xã, huyện hoặc tỉnh. Đến nay, chương trình MTQG xây dựng NTM được chính thức triển khai trên địa bàn cả nước được hơn 6 năm. Ở tầm quốc gia, Quốc hội đã tiến hành giám sát tối cao về “Việc thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010 2015 gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp” (tại Kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khóa XIV). Tại tỉnh Quảng Nam, Đoàn ĐBQH tỉnh tổ chức giám sát chuyên đề về "việc thực 4 hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2015 gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh". Việc tổ chức giám sát của Quốc hội và Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam thực chất là tổ chức đánh giá chính sách xây dựng NTM gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong giai đoạn 2010-2015. Song, đây là đánh giá chính sách dưới góc độ của cơ quan dân cử - cơ quan quyền lực nhà nước. Do vậy, đề tài "Đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Quảng Nam" là đề tài nghiên cứu có tính chất, yêu cầu, đối tượng nghiên cứu mới. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Từ thực tiễn xây dựng NTM ở tỉnh Quảng Nam để đánh giá chính sách xây dựng NTM của Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần hoàn thiện chính sách xây dựng NTM. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Hệ thống hóa các quy định của nhà nước và tỉnh Quảng Nam về xây dựng NTM. Xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, qua đó chỉ ra những nội dung hợp lý, những vấn đề còn bất cập, hạn chế của chính sách xây dựng NTM trong thời gian qua. Kiến nghị, đề xuất giải pháp góp phần hoàn thiện chính sách xây dựng nông thôn trên địa bàn tỉnh Quảng Nam cũng như của cả nước. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Chính sách xây dựng NTM của Nhà nước và kết quả triển khai thực hiện chính sách xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: nghiên cứu, phân tích, đánh giá chính sách xây dựng NTM. - Về không gian: thực tiễn triển khai chính sách xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và hệ thống các văn bản quy định về chính sách xây dựng NTM. - Về thời gian: nghiên cứu chính sách và kết quả thực hiện NTM giai đoạn từ 5 năm 2010 đến năm 2016. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thu thập số liệu, thông tin: Số liệu, thông tin phục vụ nghiên cứu luận văn được lấy từ các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, Đại hội Đảng bộ Tỉnh Quảng Nam, các Nghị quyết của Đảng; các văn bản, đặc biệt là các báo cáo của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và các cấp chính quyền tỉnh Quảng Nam; báo cáo giám sát của một số Đoàn ĐBQH; một số công trình, bài viết nghiên cứu về chính sách xây dựng nông nghiệp, nông thôn, nông dân và xây dựng NTM; lắng nghe ý kiến, kiến nghị của một số chuyên gia, lãnh đạo các cấp chính quyền địa phương và người dân. - Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu: hệ thống hóa, phân tích, đánh giá các số liệu, thông tin thu thập được để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài. - Phương pháp phân tích chính sách: áp dụng để phân tích, đánh giá quy trình thực hiện chính sách xây dựng NTM trong thực tiễn (sử dụng các phương pháp cụ thể: định lượng, định tính, kết hợp định lượng, định tính). - Phương pháp đánh giá trước - sau: so sánh thực trạng nông thôn tỉnh Quảng Nam trước và sau khi có chính sách xây dựng nông thôn (tại các thời điểm 2010 và 2016) - Phương pháp nghiên cứu bàn giấy: nghiên cứu các tài liệu, báo cáo, các bài viết và kế thừa các công trình nghiên cứu trước đây có liên quan. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Qua việc phân tích, đánh giá chính sách xây dựng NTM từ thực tiễn Quảng Nam, các cơ sở lý luận, lý thuyết về xây dựng NTM được hệ thống hóa và làm rõ hơn, góp phần làm phong phú thêm lý thuyết về xây dựng NTM. 6 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Cung cấp cơ sở thực tiễn để đánh giá, làm rõ chính sách xây dựng NTM của Việt Nam trong thời gian qua, qua đó đề xuất góp phần hoàn thiện chính sách xây dựng NTM. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận văn được kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về đánh giá chính sách xây dựng nông thôn mới. Chương 2: Thực trạng thực hiện và những vấn đề đặt ra về chính sách xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Quảng Nam. Chương 3: Giải pháp hoàn thiện chính sách xây dựng nông thôn mới. 7 CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI 1.1. Khái niệm, mục tiêu và vai trò của nông thôn mới 1.1.1. Các khái niệm Theo từ điển Bách khoa toàn thư mở: "Nông thôn Việt Nam là danh từ để chỉ những vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam, ở đó, người dân sinh sống chủ yếu bằng nông nghiệp". Trong quản lý hành chính nhà nước, theo Thông tư 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã. Như vậy, nông thôn, trước hết đó không phải là đô thị (về không gian sống, về cấu trúc và tổ chức xã hội, về quan hệ con người và sinh kế), là môi trường sống của người nông dân, nơi diễn ra các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội với nhiều nét đặc thù của khu vực nông thôn. Nông thôn là nơi định cư của những người sống chủ yếu bằng nghề nông, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu; về cơ cấu kinh tế, nông nghiệp chiếm tỷ trọng chủ yếu; bên cạnh nông dân sống bằng nghề nông nghiệp, khu vực nông thôn vẫn có một số ít người sống bằng nghề phi nông nghiệp, chủ yếu là kinh doanh nhỏ, làm nghề truyền thống với phân công lao động giản đơn, trình độ sản xuất không cao. Một trong những đặc điểm lớn của cư dân nông thôn là có mối quan hệ họ tộc và gia đình khá chặc chẽ, khắn khít, tính cộng đồng cao, các thiết chế xã hội như gia đình, dòng họ, làng xóm... chi phối lớn đến hành vi của mỗi người. Về NTM: hiện nay có nhiều cách hiểu, nhiều quan niệm khác nhau về NTM, tùy thuộc vào cách tiếp cận của từng nhà nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau như: văn hóa, xã hội học, kinh tế, quản lý nhà nước... Theo Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương về Nông nghiệp, nông dân, nông 8 thôn, có thể hiểu: NTM là nông thôn có kết cấu hạ tầng KT -XH từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa [1]. Để xây dựng nông thôn với các nội dung trên, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao gồm 19 tiêu chí. Khi xã đạt đủ 19 tiêu chí thì được công nhận là xã NTM. NTM về bản chất vẫn là nông thôn, là khu vực cộng đồng dân cư nông thôn sinh sống, nhưng phát triển ở mức cao hơn, với những đặc cơ bản: - Nông thôn được xây dựng và phát triển theo quy hoạch, có kết cấu hạ tầng hiện đại, môi trường sinh thái được bảo vệ; - Kinh tế phát triển, xã hội ổn định, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên; - Bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy; dân trí được nâng lên; - An ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo; - Hệ thống chính trị vững mạnh, dân chủ. Xây dựng NTM của Việt Nam hiện nay là chủ trương, quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm xây dựng nông thôn phát triển bền vững, có kinh tế phát triển, đời sống của người dân được nâng lên, an ninh - chính trị được đảm bảo, các giá trị văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy... Cụ thể là xây dựng nông thôn đạt 19 tiêu chí trong bộ tiêu chí Quốc gia về NTM. Hay nói cách khác, xây dựng NTM là quá trình thực hiện chính sách NTM. 1.1.2. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới - Mục tiêu tổng quát Giai đoạn 2010-2020: Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng KT-XH từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo 9 quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến năm 2016, sau khi kết thúc giai đoạn 2010-2015, một số nội dung mục tiêu tổng quát được điều chỉnh, bổ sung. Theo đó, khẳng định xây dựng NTM để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng KT-XH phù hợp (trước đây là hiện đại). Các nội dung còn lại cơ bản giữ như mục tiêu chung đưa ra năm 2010 cho giai đoạn 2010-2020. - Mục tiêu cụ thể: Đối với cả nước: đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn NTM; đến năm 2020 có 50% số xã đạt tiêu chuẩn NTM. Năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đưa ra mục tiêu cụ thể hơn cho giai đoạn 2016-2020. Mục tiêu phấn đấu số xã đạt NTM của từng vùng, miền là: Miền núi phía Bắc: 28,0%; Đồng bằng sông Hồng: 80%; Bắc Trung Bộ: 59%; Duyên hải Nam Trung Bộ: 60%; Tây Nguyên 43%; Đông Nam Bộ: 80%; Đồng bằng sông Cửu Long: 51%); Khuyến khích mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phấn đấu có ít nhất 01 huyện đạt chuẩn NTM. Bình quân cả nước đạt 15 tiêu chí/xã (trong đó, mục tiêu phấn đấu của từng vùng, miền là: Miền núi phía Bắc: 13,8; Đồng bằng sông Hồng: 18,0; Bắc Trung Bộ: 16,5; Duyên hải Nam Trung Bộ: 16,5; Tây Nguyên: 15,2; Đông Nam Bộ: 17,5; Đồng bằng sông Cửu Long: 16,6); cả nước không còn xã dưới 5 tiêu chí. Cơ bản hoàn thành các công trình thiết yếu đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và đời sống của cư dân nông thôn: giao thông, điện, nước sinh hoạt, trường học, trạm y tế xã; Nâng cao chất lượng cuộc sống của cư dân nông thôn; tạo nhiều mô hình sản xuất gắn với việc làm ổn định cho nhân dân, thu nhập tăng ít nhất 1,8 lần so với năm 2015. Đối với tỉnh Quảng Nam: theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XX (năm 2010): Phấn đấu đến năm 2015, có trên 20% số xã đạt tiêu chuẩn NTM. Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXI (năm 2015): 10 đến năm 2020, có 50% số xã đạt chuẩn NTM. 1.1.3. Vai trò của mô hình nông thôn mới đối với sự phát triển Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2015, Việt Nam có 8.971 xã (chiếm hơn 80%) trong tổng số 11.155 đơn vị hành chính cấp xã, dân số sống ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 66,06% dân số của cả nước; trong khi đó, ngành nông, lâm, ngư nghiệp chỉ chiếm 17% tổng sản phẩm trong nước (theo giá thực tế) [19]. Những số liệu này cho thấy khu vực nông nghiệp, nông thôn mặc dù chiếm tỷ trọng lớn về diện tích và dân số nhưng kinh tế có quy mô nhỏ. Trước khi triển khai thực hiện chương trình MTQG xây dựng NTM, khu vực nông thôn Việt Nam đối diện với nhiều thách thức như: phát triển thiếu bền vững, thiếu định hướng, tự phát; kinh tế phát triển chậm, sản xuất nhỏ lẽ, manh mún, năng suất lao động thấp, chưa có nhiều mô hình sản xuất phù hợp; kết cấu hạ tầng chưa được đầu tư nhiều, thiếu đồng bộ; đời sống vật chất, tinh thần của người dân có nâng lên nhưng vẫn còn khoảng cách lớn so với khu vực đô thị; một số giá trị văn hóa truyền thống có dấu hiệu mai mọt, biến dạng; an ninh - chính trị, trật tự an toàn xã hội một số nơi diễn biến phức tạp... Thực trạng này đòi hỏi cần có chính sách toàn diện để phát triển nông thôn một cách bền vững, đó là chương trình MTQG xây dựng NTM. Vai trò của mô hình NTM được thể hiện qua các mặt sau: - Về định hướng phát triển: yêu cầu đầu tiên trong xây dựng NTM là công tác quy hoạch, đây là định hướng quan trọng để xây dựng và phát triển nông thôn một cách bài bản, chủ động. Các loại quy hoạch cần có: quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển hạ tầng KT-XH - môi trường, quy hoạch phát triển các khu dân cư. - Về hạ tầng KT-XH: mô hình NTM với những yêu cầu cụ thể về đường giao thông, hệ thống kênh mương thủy lợi, hạ tầng trường lớp học, điện, chợ, cơ sở vật chất văn hóa và đặt biệt là nhà ở dân cư, là tiền đề trọng để thay đổi bộ mặt nông thôn, đáp ứng các nhu cầu phát triển KT-XH. Thực trạng chung của hạ tầng khu vực nông thôn Việt Nam hiện nay là vừa yếu, vừa thiếu đồng bộ, trong khi nguồn lực đầu tư hết sức hạn chế. Khi xây dựng NTM, bắt buộc các cấp chính quyền phải huy động, lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Một trong 11 những thuận lợi là có một số cơ chế đầu tư, huy động và quản lý, sử dụng vốn đặc thù khi phát triển kết cấu hạ tầng trong xây dựng NTM, nên tiến độ đầu tư nhanh hơn, hiệu quả sử dụng cao hơn và nguồn lực được huy động nhiều hơn so với trước đây. - Về kinh tế: xây dựng mô hình NTM sẽ tạo điều kiện để khu vực nông thôn phát triển sản xuất theo hướng hàng hoá, hướng đến thị trường, giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, nâng cao mức sống và thu nhập trong dân cư. Để giải quyết tốt vấn đề này, nhà nước phải có cơ chế, chính sách hỗ trợ các mô hình sản xuất hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, định hướng tổ chức sản xuất theo quy hoạch, tính toàn hài hòa đầu vào - đầu ra, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng đất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất; từng bước chấm dứt tình trạng sản xuất manh mún, tự cung tự cấp, tự phát. - Về con người, văn hóa, xã hội, môi trường: + Xây dựng NTM đòi hỏi cần phải có con người nông dân "mới", có trình độ trong sản xuất, văn hóa trong ứng xử, sống hài hòa với môi trường tự nhiên, xã hội. Để làm được điều này phải có quá trình lâu dài, từng bước thay đổi nhận thức, xóa bỏ những tập quán lạc hậu, phản khoa học, hình thành những thói quen mới văn minh. + Sự phát triển kinh tế thường kéo theo nhiều hệ lụy cho xã hội, cũng như áp lực đối với môi trường sinh thái. Do vậy, trong mô hình NTM mà chúng ta xây dựng, kinh tế và các vấn đề về văn hóa, xã hội, môi trường sẽ được chú ý giải quyết một cách hài hòa với sự tham gia của cả cộng đồng dân cư nông thôn. - Về an ninh, trật tự xã hội và hệ thống chính trị: phát huy dân chủ với tinh thần thượng tôn pháp luật; gắn lệ làng, hương ước với pháp luật để điều chỉnh hành vi con người, đảm bảo tính pháp lý, tôn trọng kỷ cương phép nước, phát huy tính tự chủ, vai trò tự quản của làng xã. Hệ thống chính trị được xây dựng vững mạnh với đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện mới. Vấn đề an ninh, trật tự xã hội được giữ vững, người dân yên tâm sống trong môi trường xã hội an toàn. 12 Các nội dung trên trong cấu trúc mô hình NTM có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước đóng vai trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, xây dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo điều kiện, động viên tinh thần. Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong thực thi chính sách. Các chính sách xây dựng NTM sẽ tạo hiệu ứng tổng thể, thúc đẩy xã hội nông thôn phát triển theo định hướng. Khi đó, vai trò của mô hình NTM được phát huy tối đa, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. 1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nông thôn mới Với đặc thù xuất phát từ văn minh nông nghiệp, đại bộ phận nhân dân sinh sống ở khu vực nông thôn và sản xuất nông nghiệp, Đảng ta luôn nhận thức đầy đủ và khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân đối với sự phát triển của đất nước; điều này được thể hiện trong các văn kiện Đại hội Đảng và các văn bản quan trọng khác của Đảng. Từ Đại hội III (năm 1960) đến Đại hội VI (1986), Đảng ta luôn xác định nông nghiệp có một vị trí rất quan trọng trong phát triển kinh tế của đất nước và đề ra nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng hiện đại. Tuy vậy, vấn đề xây dựng NTM chưa được đặt ra trong giai đoạn này. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991): Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển KT-XH đến năm 2000. Đại hội xác định phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng NTM là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình KT-XH. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (năm 1996): Đại hội xác định phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; đồng thời chỉ rõ nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Cụ thể hóa nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VIII đã ra Nghị quyết về “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hóa, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu KT-XH đến năm 2000”, trong đó, chủ trương: 13 đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lao động ở nông thôn; giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản; phát triển mạnh các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới các hoạt động của các cơ sở quốc doanh trong nông nghiệp và nông thôn, phát triển các cơ sở quốc doanh ở vùng sâu, vùng xa. Ngày 10 tháng 11 năm 1998, Bộ Chính trị khóa VIII đã ra Nghị quyết số 06 – NQ/TW về một số vấn đề phát triển nông nghiệp nông thôn, với một số quan điểm như: coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp chế biến, ngành nghề, gắn sản xuất với thị trường để hình thành sự liên kết công – nông nghiệp – dịch vụ và thị trường; gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng NTM; gắn công nghiệp hóa với dân chủ hóa và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực ở nông thôn; phát huy lợi thế của từng vùng và cả nước, áp dụng nhanh các tiến bộ khoa học, công nghệ để phát triển nông nghiệp hàng hóa; phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng, hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp luật; tạo điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông dân và những người có khả năng phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (năm 2000): Đại hội xác định phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa – xã hội, tăng cường các nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn. Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã ra Nghị quyết về “Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010”. Nghị quyết đã chỉ rõ nội dung tổng quát công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn: “...là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các 14 khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường”. - Đại hội Đảng toàn quốc lần X (năm 2006): Đại hội xác định: “Phải luôn luôn coi trong đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn... Gắn phát triển kinh tế với xây dựng NTM, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa nông thôn với thành thị, giữa các vùng miền, góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội” [45, tr.191]. Ngày 5 tháng 8 năm 2008, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X đã thông qua Nghị quyết số 26 – NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn với những nội dung cơ bản: xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển KT-XH bền vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước; các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng NTM, nâng cao đời sống nhân dân. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (năm 2011): Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó đã xác định những định hướng lớn về phát triển kinh tế văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại là: phát triển nông, lâm, ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công nghiệp chế biến và xây dựng NTM [46, tr.75]. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 cũng xác định rõ định hướng trong xây dựng NTM. - Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (năm 2016): Quan điểm Đảng ta xác định một trong những định hướng lớn để sớm đạt được mục tiêu nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan