VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN MINH CƯỜNG
ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA CÁC HỘ KINH DOANH
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN NHƯ PHÁT
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Nguyễn Minh Cường, cam đoan rằng đề tài nghiên cứu khoa
học: “Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ
thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh” của luận văn là kết quả nghiên
cứu riêng của bản thân tôi cùng với sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS.
Nguyễn Như Phát. Tôi xin cam đoan, những kết quả nghiên cứu của các tác
giả khác và các số liệu được sử dụng trong luận văn đều có trích dẫn đầy đủ.
Tác giả
Nguyễn Minh Cường
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA CÁC HỘ
KINH DOANH ................................................................................................ 7
1.1. Quá trình phát triển của hộ kinh doanh................................................... 7
1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh .............................. 10
1.3. Khái niệm đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh ........................ 22
1.4. Đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh so với các loại hình doanh
nghiệp khác .................................................................................................. 25
1.5. Vai trò của hộ kinh doanh trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở Việt
Nam hiện nay ............................................................................................... 26
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
CỦA CÁC HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN, TỈNH QUẢNG NINH ....................... 35
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện nay về đăng ký kinh doanh của các
hộ kinh doanh ............................................................................................... 35
2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh
doanh từ thực tiễn thực hiện tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh ............ 40
Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
CỦA CÁC HỘ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN
NAY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH........ 49
3.1. Một số kiến nghị chung về cơ chế, thủ tục .......................................... 49
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ
kinh doanh .................................................................................................... 50
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 65
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CPTPP
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
FTA
Hiệp định thương mại tự do
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
UBND
Uỷ ban nhân dân
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: So sánh các tiêu chí hộ kinh doanh với các loại hình doanh
nghiệp khác..................................................................................................... 26
Sơ đồ 3.1: Luồng xử lý đăng ký hộ kinh doanh theo mô hình một cửa liên
thông ............................................................................................................... 55
Sơ đồ 3.2: Mô hình hệ thống đăng ký hộ kinh doanh mới ......................... 56
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, bên cạnh hệ thống các doanh nghiệp thành lập
theo Luật Doanh nghiệp, loại hình hộ kinh doanh là một mô hình pháp lý
phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Hộ kinh
doanh đã gắn liền với quá trình phát triển kinh tế đa thành phần của Việt
nam, với các tên gọi: Hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp, hộ kinh doanh. Cùng
với sự tăng trưởng, phát triển của các thành phần kinh tế trong giai đoạn
qua khu vực kinh tế tư nhân trong đó các hộ kinh doanh ngày càng tăng
trưởng về số lượng cũng như ngành nghề kinh doanh. Hộ kinh doanh giữ
vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta, đã và đang đạt được những
thành tựu đáng kể: Sử dụng nguồn lực lao động xã hội một cách tối ưu,
góp phần giải quyết việc làm, an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo. Sản
xuất kinh doanh của hộ kinh doanh đa dạng đủ mọi ngành nghề, nhiều mặt
hàng sản phẩm truyền thống của nước ta đang được hộ kinh doanh giữ gìn
và phát triển. Do hộ kinh doanh với quy mô nhỏ, gọn mang tính chất gia
đình, hoặc liên kết nhóm nên không phát sinh nhiều thủ tục hành chính
trong quá trình khởi nghiệp, áp dụng hình thức nộp thuế theo tỉ lệ trên
doanh thu nên đơn giản và thuận tiện. Khuôn khổ pháp luật hiện hành đã
cụ thể hóa quyền tự do kinh doanh của công dân theo quy định của Hiến
pháp năm 2013. Pháp luật về đăng ký kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu
đơn giản hóa tối đa về trình tự, thủ tục, giảm bớt về thủ tục hành chính
cho các chủ thể kinh doanh. Do đó, sớm nhận thức rõ vai trò của hộ kinh
doanh trong quá trình đổi mới phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước đã
có những chủ trương, chính sách tạo điều kiện phát triển kinh tế ở khu
vực hộ kinh doanh.
1
Tuy nhiên từ thực tiễn hiện nay cho thấy từ khái niệm cho tới địa vị,
trách nhiệm pháp lý của hộ kinh doanh đều không rõ ràng. Mặt khác, các
hộ kinh doanh chịu nhiều hạn chế như chỉ được kinh doanh ở một địa
điểm, không được mở chi nhánh, văn phòng đại diện, không có quy định
về thủ tục giải thể, phá sản và không được hỗ trợ theo Luật Hỗ trợ doanh
nghiệp nhỏ và vừa… Pháp luật hiện hành đã có các quy định khuyến
khích, tạo thuận lợi cho các hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh
nghiệp. Nhưng thực tế khi áp dụng những quy định trên còn gặp nhiều
lúng túng và khó khăn, chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc đăng
ký kinh doanh của các hộ kinh doanh. Trước những khó khăn, bất cấp
hiện nay, cần hoàn thiện pháp luật về hộ kinh doanh để minh bạch, rõ
ràng, đảm bảo về mặt pháp lý; khi đó nhà nước sẽ bảo hộ các hộ kinh
doanh, giúp tối đa hóa các nguồn lực, xóa bỏ các hạn chế với các hộ kinh
doanh để hoạt động đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh đơn giản
và thuận lợi nhất.
Vì các lý do trên học viên lựa chọn đề tài: "Đăng ký kinh doanh của
các hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Vân Đồn,
tỉnh Quảng Ninh" để thực hiện luận văn thạc sĩ luật kinh tế. Qua đó, luận
văn cũng hướng đến việc tìm hiểu, nghiên cứu, so sánh và phân tích
những luận điểm, luận cứ khoa học và thực tiễn quy định của pháp luật về
đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh để đưa ra những kiến nghị,
hướng hoàn thiện phù hợp thực tiễn của pháp luật về đăng ký kinh doanh
của các hộ kinh doanh, sự điều chỉnh pháp luật trong hoạt động đăng ký
kinh doanh của các hộ kinh doanh.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong chương trình đào tạo đào tạo cử nhân luật ở các trường Đại học
trong nước, vấn đề về hộ kinh doanh là một phần chương trình giảng dạy
2
về Luật Thương mại, ví dụ như Tài liệu học tập Luật Thương mại tập 1 và
2, của Trường Đại học Huế, Nxb. Đại học Huế, 2011; Giáo trình Luật
Thương mại phần chung và thương nhân, của Trường Đại học Quốc gia
Hà Nội, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; Giáo trình Luật Thương
mại tập 1 và 2, của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2015. Nghiên cứu các vấn đề pháp luật về đăng ký kinh doanh ở
Việt Nam hiện nay gồm có Luận án Tiến sĩ luật học chuyên ngành Luật
Kinh tế năm 2016 của tác giả Nguyễn Thị Thu Thủy; Nghiên cứu vấn đề
pháp luật về thuế đối với hộ kinh doanh từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi là
Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Luật kinh tế năm 2017 của tác giả Phạm
Thị Minh Phương. Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên đã đi sâu
phân tích khái niệm đăng ký kinh doanh, đặc điểm, bản chất và vai trò của
hộ kinh doanh trong nền kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Nghiên cứu vấn đề
về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, luận văn mong muốn tìm ra
các vấn đề bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời
đưa ra các giải pháp hoàn thiện các qui định của pháp luật và nâng cao vị
trí pháp lý của hộ kinh doanh so với các loại hình đăng ký kinh doanh
khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu là đề xuất một số kiến nghị và giải pháp sửa đổi,
bổ sung các quy định pháp luật hỗ trợ hoạt động đăng ký kinh doanh của
các hộ kinh doanh và góp phần hoàn thiện pháp luật. Luận văn có những
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất: Phân tích các vấn đề lý luận của pháp luật về đăng ký kinh
doanh của các hộ kinh doanh theo hướng việc đăng ký kinh doanh là
quyền của các hộ kinh doanh và được Nhà nước đảm bảo thực hiện bằng
các quy định của pháp luật, cụ thể như sau: Khái niệm, đặc điểm và ý
3
nghĩa, giá trị pháp lý của hộ kinh doanh, những điều kiện để thực hiện
việc đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh.
Thứ hai: Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về đăng ký kinh
doanh của các hộ kinh doanh qua thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh.
Thứ ba: Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực trạng của pháp luật
về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, luận văn tập trung đưa ra
những phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh của các hộ kinh doanh ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường hiện
nay từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là giải pháp hoàn thiện công tác
đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh từ thực tiễn tại huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh .
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là thực tiễn áp dụng pháp luật về
đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh tại huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh từ năm 2015-2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và áp dụng các
phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và luật học. Đó là các
phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống, thống kê, lịch sử; phương
pháp phân tích quy phạm, phương pháp xã hội pháp luật… Theo đó có
phương pháp điều tra, phỏng vấn: Điều tra, phỏng vấn bằng phiếu hỏi đã
được thực hiện đối với 200 hộ kinh doanh và 10 doanh nghiệp; phỏng vấn
chuyên sâu đối với 20 chủ hộ kinh doanh tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh.
4
Bên cạnh đó, Luận văn sử dụng các kết quả khi tham gia các hội thảo,
ghi chép các ý kiến của các chuyên gia để thu thập những đánh giá cũng
như đề xuất giải pháp khuyến khích hộ kinh doanh đăng ký thành doanh
nghiệp theo quy định tại Luật Doanh nghiệp.
Chương 1. Luận văn sử dụng phương pháp chủ đạo là phân tích và
tổng hợp để nêu lên những lập luận của pháp luật về đăng ký kinh doanh
của các hộ kinh doanh, qua đó làm rõ khái niệm hộ kinh doanh, đăng ký
kinh doanh và pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh.
Chương 2. Luận văn sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp để chỉ ra thực trạng thực hiện
pháp luật trong hoạt động đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh từ
thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3. Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp luật học so sánh, phương pháp hệ thống để đề ra các giải
pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đăng ký
kinh doanh của các hộ kinh doanh từ thực tiễn tại huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về ý nghĩa khoa học, luận văn đóng góp về phương diện lý luận cho
việc nghiên cứu pháp luật, quá trình xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp
luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, tìm kiếm mô hình
đăng ký kinh doanh nào cho phù hợp. Luận văn cũng làm rõ vai trò, chức
năng của pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh, sự tác
động của hệ thống pháp luật về hộ kinh doanh tới quá trình phát triển kinh
tế - xã hội.
5
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham
khảo có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu cũng như áp dụng pháp
luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Với cách tiếp cận và nội dung nghiên cứu trên, luận văn này gồm ba
phần chính sau:
Chương 1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ kinh doanh.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ
kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn huyện Vân Đồn, tỉnh
Quảng Ninh
Chương 3. Hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh của các hộ
kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vân
Đồn, tỉnh Quảng Ninh .
6
Chương 1
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH CỦA CÁC
HỘ KINH DOANH
1.1. Quá trình phát triển của hộ kinh doanh
Thuật ngữ “hộ kinh doanh” chính thức được sử dụng tại các văn bản
quy phạm pháp luật Việt Nam từ năm 2006. Trong những năm trước đây,
hộ kinh doanh được gọi bằng các tên khác nhau như tổ chức tiểu sản xuất
hàng hóa; hộ cá thể, hộ tiểu công nghiệp; hộ kinh doanh cá thể;… và thay
đổi theo từng thời kỳ. Trước Đổi mới (trước năm 1986), hộ kinh doanh
tồn tại dưới hình thức tổ chức tiểu sản xuất hàng hoá (gồm các thợ thủ
công, nông dân cá thể, người làm dịch vụ nhỏ) được kinh doanh sau khi
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy môn bài. Tuy nhiên, do
việc thực hiện cải cách xã hội chủ nghĩa và vận động cho một chính sách
kinh tế xã hội chủ nghĩa đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế, khu vực
kinh tế của sản xuất trong giai đoạn này chỉ có tỷ lệ khá khiêm tốn. Năm
1975 (năm thống nhất), khu vực tư nhân và sản xuất hàng hóa quy mô nhỏ
ở miền Bắc chỉ chiếm 8,3% tổng sản lượng xã hội [27] cho đến khi bắt
đầu thời kỳ Đổi mới (năm 1986) các nghề thủ công và các tổ chức tư nhân
sử dụng 23,2% tổng lực lượng lao động và tạo ra 15,3% giá trị của tổng
sản xuất công nghiệp [28].
Trong giai đoạn từ năm 1986 đến nay cùng với chủ trương, chính sách
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, hộ kinh doanh đã phát triển mạnh
mẽ, thể hiện:
Thứ nhất, trước khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty
(năm 1990), hộ kinh doanh tồn tại dưới hình thức hộ cá thể. Hộ cá thể do
Uỷ ban nhân dân phường, xã xét cấp đăng ký kinh doanh và hộ tiểu công
7
nghiệp. Hộ tiểu công nghiệp (xưởng, cửa hàng,...) có tư liệu sản xuất và
các vốn khác thuộc sở hữu của chủ hộ; được thuê mướn lao động theo hợp
đồng thoả thuận giữa chủ và người làm thuê; chủ hộ là người lao động
trực tiếp hoặc đóng vai trò chính về kỹ thuật sản xuất và tự điều hành sản
xuất kinh doanh; thu nhập sau khi đóng thuế và trả công cho người làm
thuê thuộc sở hữu của chủ hộ [37]. Hộ tiểu thủ công nghiệp do Uỷ ban
nhân dân quận, huyện xét cấp đăng ký kinh doanh và được chính thức
công nhận bằng Nghị định số 27-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ).
Trong giai đoạn này, do điều kiện lịch sử và bối cảnh kinh tế - xã hội
cùng với danh mục cấm kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện theo
quy định của pháp luật rất rộng nên sự phát triển của các hộ cá thể, hộ
tiểu công nghiệp còn chậm.
Thứ hai, trong giai đoạn từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân
và Luật Công ty (năm 1990) đến trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp
1999, hộ kinh doanh tồn tại dưới hình thức người kinh doanh (gồm các cá
nhân, nhóm người kinh doanh dưới vốn pháp định) theo quy định tại Nghị
định số 66/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) . Nghị định
này quy định về quyền, nghĩa vụ của người kinh doanh; về nội dung, trình
tự, thủ tục đăng ký, thay đổi, tạm ngừng, chấm dứt kinh doanh của loại
hình này. Điểm đáng chú ý là, Nghị định này quy định người kinh doanh
không bị giới hạn trong việc thuê mướn số lượng lao động [37].
Thứ ba, trong giai đoạn từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp năm 1999
đến trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp 2005, hộ kinh doanh tồn tại
dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể do một cá nhân hoặc hộ gia đình làm
chủ theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP của Chính phủ . Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân quy
8
định không cho phép hộ kinh doanh được thường xuyên thuê lao động
không phù hợp với thực tiễn hoạt động của hộ kinh doanh. Vì vậy, để tạo
điều kiện cho hộ kinh doanh cá thể phát triển, ngày 02 tháng 04 năm 2004
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 109/2004/ NĐ-CP về đăng ký kinh
doanh; trong đó đã bãi bỏ quy định hộ kinh doanh không được thường
xuyên thuê lao động [37]. Điều 24 Nghị định số 109/2004/NĐ-CP quy
định “hộ kinh doanh cá thể được thuê không quá mười lao động. Hộ kinh
doanh cá thể có sử dụng trên mười lao động hoặc có hơn một địa điểm
kinh doanh phải chuyển đổi thành doanh nghiệp” .
Thứ tư, trong giai đoạn từ khi ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 đến
nay, với các nghị định hướ ng dẫn Luật Doanh nghiệp 2005. Nghị định số
88/2006/NĐ-CP năm 2006, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP năm 2010, Luật
Doanh nghiệp 2014, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP năm 2015, hộ kinh
doanh cá thể được đổi tên thành hộ kinh doanh, bổ sung đối tượng một
nhóm người làm chủ hộ kinh doanh và sửa đổi quy định việc yêu cầu các
hộ kinh doanh sử dụng từ mười lao động phải chuyển đổi sang hoạt động
theo hình thức doanh nghiệp. Bên cạnh việc đổi tên hộ kinh doanh theo
từng thời kỳ, nhiều cơ chế, chính sách đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho
việc hình thành và phát triển của hộ kinh doanh. Nhờ đó, thị trường đã
chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của hộ kinh doanh. Theo Tổng cục
Thống kê, năm 1999 cả nước có hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh sử dụng hơn
3 triệu lao động, đến năm 2017, số hộ kinh doanh đã tăng lên trên 5,14
triệu, sử dụng khoảng 8,58 triệu lao động [37].
Như vậy, hộ kinh doanh là giải pháp cần thiết và tất yếu thay thế cho
thành phần kinh tế tư bản tư nhân, vì trong rất nhiều năm trước đó, pháp luật
không khuyến khích. Từ năm 2000, đặc biệt là từ năm 2006 và 2014 trở đi,
mọi điều kiện thành lập và hoạt động của doanh nghiệp nói chung, doanh
9
nghiệp tư nhân nói riêng đã được xoá bỏ (Các Luật Doanh nghiệp năm 1999,
2005 và 2014). Điều kiện thành lập doanh nghiệp tư nhân và công ty gần như
bằng không và không khác gì với việc thành lập hộ kinh doanh. Đặc biệt là
việc Luật Doanh nghiệp năm 2005 và 2014 cho phép thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là cá nhân. Do đó, hộ kinh doanh đã thật sự hết
lý do, vai trò lịch sử. Còn sự tồn tại và phát triển như là doanh nghiệp mà
không được thừa nhận là doanh nghiệp chỉ là do sự khiếm khuyết của pháp
luật. Tuy nhiên, vì các Luật Doanh nghiệp năm 1999, 2005, 2014 và các văn
bản quy phạm pháp luật liên quan khác vẫn tiếp tục quy định về hộ kinh
doanh một cách quá đơn giản, nên đương nhiên đã trở thành sự lựa chọn chủ
yếu trên thực tế. Việc một người có nhiều công ty là chuyện bình thường,
nhưng một người đồng thời duy trì hai loại hình kinh doanh là công ty và hộ
kinh doanh là điều pháp luật cần phải nghiên cứu điều chỉnh.
1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của hộ kinh doanh
1.2.1. Khái niệm hộ kinh doanh
Ở một số quốc gia phát triển trên thế giới chỉ có quy định về hộ kinh
doanh do cá nhân làm chủ với nhiều khái niệm khác nhau như doanh nghiệp
một chủ (one-man business), thương nhân cá thể (sole trader) hoặc doanh
nghiệp cá thể (sole proprietorship).
Để hiểu rõ hơn về khái niệm “hộ kinh doanh”ở Việt Nam, trước hết
cần tìm hiểu thêm về thuật ngữ “hộ gia đình”. Hộ gia đình đã được để cập
đến trong các văn bản quy phạm pháp luật từ năm 1964 ví dụ như tại khoản 6,
Điều 29, Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1981 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
1990). Hộ gia đình được nhắc đến với tư cách là chủ thể của quan hệ dân sự
bắt đầu từ Luật Đất đai năm 1993 khi quy định hộ gia đình là một trong
những chủ thể sử dụng đất bên cạnh các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân
dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội và cá nhân. Và tiếp tục tại
10
Điều 116 Bộ luật dân sự năm 1995 đã ghi nhận hộ gia đình là một chủ thể của
quan hệ dân sự. Chủ thể hộ gia đình được ghi nhận tại Điều 106 Bộ luật dân
sự năm 2005 như sau: “Hộ gia đình mà các thành viên có tài sản chung, cùng
đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất nông, lâm, ngư
nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do pháp luật quy định
là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc lĩnh vự c này”. Ngoài ra, Luật
Đất đai sửa đổi bổ sung năm 2013 cũng ghi nhận “tư cách” chủ thể của hộ gia
đình trong các quan hệ về quyền sử dụng đất hay sản xuất nông nghiệp. Điều
này có nghĩa rằng Bộ luật Dân sự và một số văn bản khác đã ghi nhận sự tồn
tại khách quan của kinh tế hộ gia đình với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ
trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và một số ngành
nghề khác. Trong giai đoạn phát triển của nước ta hiện nay, hộ gia đình đang
được coi là đối tượng đầu tư chủ của các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng. Số
lượng giao dịch tài chính, tín dụng giữa các hộ gia đình và ngân hàng, các tổ
chức tín dụng ngày càng gia tăng. Do vậy, khi xác định chủ thể thành viên hộ
gia đình, Bộ luật dân sự trước kia và một số quy định pháp luật có liên quan
luôn coi hộ gia đình là chủ thể đặc biệt, bởi vì, hộ gia đình được hiểu là các
thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế
chung trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh khác do pháp luật quy định. Kinh tế hộ gia đình nhìn chung là sản
xuất, buôn bán nhỏ, mang tính tự cấp, tự túc hoặc sản xuất hàng hóa với năng
suất lao động thấp nhưng lại có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, đặc biệt là ở các nước đang
phát triển, trong đó có Việt Nam. Kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam đã xuất hiện
và tồn tại hàng nghìn năm và vẫn sẽ là đơn vị cơ bản trong xã hội và trong
phát triển sản xuất nông nghiệp.
11
Các hoạt động kinh tế hộ gia đình ngày càng đa dạng và phát triển. Để
tăng năng suất lao động và mở rộng phạm vi sản xuất ra ngoài hộ gia
đình, các hộ gia đình khi đó sẽ thực hiện các thủ tục tham gia vào thị
trường kinh doanh. Từ bản chất ban đầu là kinh tế hộ gia đình, khi có đủ
điều kiện, hộ gia đình sẽ được nhà nước cho phép đăng ký ngành nghề
kinh doanh và đi vào hoạt động kinh doanh với tên gọi là hộ kinh doanh
như các loại hình doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, hiện nay Luật Doanh
nghiệp chưa thừa nhận hộ kinh doanh là một hình thức doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là chủ thể có hoạt động kinh doanh. Kinh doanh là các
hoạt động sản xuất, mua bán và trao đổi hàng hóa nhằm mục đích sinh ra
lợi nhuận trên thị trường. Các hoạt động kinh doanh luôn có sự đa dạng về
hình thức và cách thức thực hiện và được điều chỉnh bởi pháp luật kinh tế.
Theo đó, dù là cá nhân hoặc nhóm cá nhân, hay pháp nhân (công ty) đều có
thể là nội hàm của khái niệm doanh nghiệp. Lúc này khái niệm doanh nghiệp
là khái niệm kinh tế, chưa phải là khái niệm pháp lý.
Từ cách phân tích định nghĩa này, có quan điểm cho rằng việc đưa cá
nhân - hộ kinh doanh vào Luật doanh nghiệp để thừa nhận họ là doanh nghiệp
là vấn đề rất bình thường. Nhưng khi có quan điểm như vậy, đồng nghĩa đang
có sự nhầm lẫn giữa khái niệm pháp lý và khái niệm kinh tế.
Khoản 1 điều 66 nghị định 78/2015/NĐ-CP định nghĩa về hộ kinh doanh
như sau: “Hộ kinh doanh do một cá nhân hoặc một nhóm người gồm các cá
nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm,
sử dụng dưới mười lao động và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của
mình đối với hoạt động kinh doanh”.
Đồng thời, điều 101 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp hộ gia
đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ
12
dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có
tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự”.
Theo đó, hộ kinh doanh không phải là một chủ thể pháp lý. Các thành
viên là cá nhân tham gia hộ kinh doanh đó mới là chủ thể pháp lý. Hộ kinh
doanh chỉ là cách gọi chung cho những nhóm cá nhân kinh doanh với trách
nhiệm vô hạn (“chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt
động kinh doanh”).
Vì tất cả những điều đó, cá nhân kinh doanh là một chủ thể khác với công
ty kinh doanh, dù trong khái niệm kinh tế thì hai chủ thể đều là doanh nghiệp,
nhưng trong khái niệm pháp lý, những cơ chế và yêu cầu pháp lý đối với hai
chủ thể này là khác hẳn.
Như vậy, hộ kinh doanh như một chủ thể doanh nghiệp không tồn tại
trong Luật doanh nghiệp hiện hành, nhưng hộ kinh doanh thực chất đã có tư
cách pháp lý trong rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật, nổi bật là trong Bộ
luật dân sự. Cũng cần tính đến thực tế hộ kinh doanh là khái niệm sinh ra từ
thực tiễn mang tính truyền thống và văn hóa của Việt Nam, bắt đầu từ “hộ gia
đình”.
Các bộ luật dân sự năm 1995, 2005 đều có quy định về hộ gia đình và tổ
hợp tác, tức mặc nhiên thừa nhận sự tồn tại của “hộ” có chức năng kinh
doanh. Tuy từ “hộ” không còn giá trị trong mối quan hệ hiện đại và khái niệm
hộ đã bị loại bỏ khỏi Bộ luật dân sự 2015 nêu trên (coi “hộ” chỉ là nhóm
những cá nhân), chúng ta nên thẳng thắn nhìn nhận rằng, “hộ” kinh doanh đã
tồn tại rất lâu trong thế giới pháp luật chúng ta và là một thực tiễn sống động
không thể phủ nhận.
13
Trước đây, Nghị định của Chính phủ về đăng ký kinh doanh là Nghị
định số 02/2000/NĐ- CP ngày 03/02/2000 và Nghị định số 109/2004/NĐCP ngày 02/4/2004 đều có quy định về tên gọi “hộ kinh doanh cá thể”.
Sau đó, Nghị định số 78/2015/NĐ-CP năm 2015 về đăng lý kinh doanh
với tên gọi là “hộ kinh doanh” [10].
Nghị định số 109/2004/NĐ-CP định nghĩa: Hộ kinh doanh cá thể do
một cá nhân hoặc hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại
một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh
doanh [6]. Nghị định số 88/2006 NĐ- CP định nghĩa: Hộ kinh doanh do
một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia
đình làm chủ, chỉ được kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá
mười lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
của mình đối với hoạt động kinh doanh [7]. Điều 66, khoản 1 Nghị định
số 78/2015/NĐ-CP năm 2015 định nghĩa: “Hộ kinh doanh do một cá nhân
hoặc một nhóm người gồm các cá nhân là công dân Việt Nam đủ 18 tuổi,
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ
được đăng ký kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng dưới mười lao động
và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh
doanh”.
Định nghĩa trên về “hộ kinh doanh” cho thấy hộ kinh doanh được chia
thành ba loại căn cứ vào chủ tạo lập ra nó: (1) Hộ kinh doanh do một cá
nhân làm chủ; (2) hộ kinh doanh do một nhóm người làm chủ; và (3) Hộ
kinh doanh do hộ gia đình làm chủ. “Hộ gia đình” được kinh doanh dưới
hình thức hộ kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh như trên vừa nói có lẽ
xuất phát từ việc Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2015 qui định
“hộ gia đình” là chủ thể của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng.
14
Thứ nhất, “hộ gia đình” không phải là cá nhân và cũng không phải là
pháp nhân, mà là một chủ thể đặc biệt của pháp luật Việt Nam. Do đó hộ
kinh doanh cá thể hay hộ kinh doanh là thương nhân thể nhân. Trước đây,
hộ cá thể và hộ tiểu công nghiệp (hình thức đầu tiên của hộ hộ kinh doanh
cá thể hay hộ kinh doanh), theo Nghị định số 27- HĐBT ngày 9/3/1988, là
thương nhân thể nhân [12].
Thứ hai, tập hợp các cá nhân hay các thành viên của “hộ gia đình”
không dễ xác định. Dấu hiệu của một “gia đình” được thể hiện qua quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hay quan hệ nuôi dưỡng. Song “hộ gia
đình” không bao gồm tất cả các thành viên có các mối quan hệ đó với
nhau. Được xem là thành viên của hộ gia đình cần phải có hai điều kiện:
(1) Điều kiện quan hệ (điều kiện cần), thể hiện qua việc hoặc có quan hệ
hôn nhân, hoặc có quan hệ huyết thống, hoặc có quan hệ nuôi dưỡng; và
(2) điều kiện chung sống (điều kiện đủ), có nghĩa là cùng trú ngụ ở một
nơi hoặc cùng kiếm sống dựa vào cùng một sản nghiệp. Tuy nhiên số
lượng các thành viên thuộc hộ gia đình có thể biến động, vì vậy gây khó
khăn không ít cho việc giải quyết tranh chấp có liên quan. Trong thực tiễn
tư pháp và trong thực tiễn thi hành pháp luật ở các cơ quan hành pháp,
người ta thường xác định tập hợp thành viên hộ gia đình thông qua sổ hộ
khẩu. Đây có lẽ không phải là một việc làm hợp lý bởi sự tồn tại của sổ hộ
khẩu không có cơ sở để đứng vững trong giai đoạn hiện nay. Hơn nữa sổ
hộ khẩu không nói lên vấn đề rằng các thành viên có cùng trú ngụ hay
cùng kiếm sống hay không. Có lẽ cần đưa vào nội dung đăng ký kinh
doanh việc xác định các thành viên của hộ gia đình khi đăng ký kinh
doanh dưới hình thức hộ kinh doanh, bởi vấn đề xác định các thành viên
như vậy có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của các chủ nợ
của hộ kinh doanh.
15
- Xem thêm -