Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ đăng ký đầu tư nước ngoài tại việt nam theo luật đầu tư 2014 từ thực tiễn thành ...

Tài liệu đăng ký đầu tư nước ngoài tại việt nam theo luật đầu tư 2014 từ thực tiễn thành phố hà nội

.PDF
88
126
128

Mô tả:

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BCC : Hợp đồng hợp tác kinh doanh CNH-HĐH : Công nghiệp hóa- hiện đại hóa ĐUQT : Điều ước quốc tế FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài ODA : Hỗ trợ phát triển chính thức KCN : Khu công nghiệp KCNC : Khu công nghệ cao KDTM : Kinh doanh thương mại KCX : Khu chế xuất KKT : Khu kinh tế LDN : Luật Doanh nghiệp LĐT : Luật Đầu tư LTM : Luật thương mại NXB : Nhà xuất bản TNHH : Trách nhiệm hữu hạn UBND : Uỷ ban nhân dân WTO : Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU Số hiệu bảng Tên bảng Trang 2.1 Quy trình cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư 40 2.2 Quy trình đăng ký đầu tư 37 2.3 Quy trình thẩm tra đầu tư 46 MỤC LỤC Mở đầu ……………………………………..………………………………1 Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đăng ký đầu tư nước ngoài…...8 1.1. Khái quát chung về đăng ký đầu tư nước ngoài …………………….8 1.2. Lược sử các giai đoạn phát triển của hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ………………………………………………...….….21 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong lĩnh vực đăng ký đầu tư và bài học rút ra cho Việt Nam.…………………………………...24 Chương 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và thực tiễn từ thành phố Hà Nội……………………………………33 2.1. Các quy định pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam...36 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Hà Nội…………………………………………………………….…………..53 2.3. Một số nhận định, đánh giá chung pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và thực tiễn thi hành tại Hà Nội…………………...…59 Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành từ thành phố Hà Nội…..….71 3.1. Những định hướng về việc hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ………………………………………..……....71 3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ………………………………………………………………….…..75 3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về đăng ký đầu tư tại Hà Nội ………………………...…………………..……………….78 Kết luận …………………………………………….…………..…...…....82 Danh mục tài liệu tham khảo ……………………….…………..…….…..83 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sự ra đời của hàng loạt các văn bản pháp luật về kinh doanh năm 2014 đánh dấu một bước chuyển biến lớn trong thể chế kinh tế, chính trị của đất nước, mang lại những tích cực to lớn cho môi trường kinh doanh và sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp những năm tiếp theo. Trong đó phải kể đến sự ra đời của LDN 2014, LĐT 2014 đánh dấu bước chuyển biến về tư duy từ quản lý hành chính sang tư duy phục vụ doanh nghiệp, đánh dấu những bước căn bản về thể chế quản lý doanh nghiệp. Điều này đã tạo môi trường kinh doanh thông thoáng hơn, bình đẳng hơn cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật về đăng ký đầu tư nước ta vẫn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống. Tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh còn chậm, chất lượng các văn bản pháp luật chưa cao. Việc nghiên cứu và tổ chức thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên chưa thực sự được quan tâm đầy đủ. Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật còn hạn chế. Đầu tư nước ngoài là phương thức đầu tư quốc tế quan trọng trong tình hình thế giới hiện nay và là xu hướng chung mà tất cả các quốc gia đang hướng tới. Ở Việt Nam, bên cạnh nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, vốn đầu tư nước ngoài là một trong những nguồn vốn quan trọng. Đăng ký đầu tư được coi là giai đoạn “cửa ngõ” để các Nhà đầu tư có thể bước vào nhằm thực hiện hoạt động đầu tư với mục đích sinh lợi [8, tr. 42 – 49]. Do vậy, đây được coi là giai đoạn tiên quyết để quyết định hoạt động đầu tư có thành công hay không. Bên cạnh đó, ở một góc độ khác LĐT 2014 có nhiều tư tưởng mở rộng tạo môi trường đầu tư cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tiễn kinh doanh hiện nay có những rào cản 1 do quy định pháp luật đặt ra, song cũng tồn tại những rào cản do vấn đề thực thi. Một đạo luật mới được sửa đổi để phát triển mà đội ngũ thực thi không chịu sửa đổi thì không thể phát triển theo đúng tinh thuần của luật đề ra và càng không thể đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Đặc biệt, trong giai đoạn thực thi LĐT 2014 cho tới nay vẫn còn tồn tại một số quy định chỉ mang tính chung chung, chưa hướng dẫn cụ thể đối với từng trường hợp và nhiều quy định còn khá rườm rà, nhất là trong khâu đăng ký đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Điều này gây ảnh hưởng lớn tới hoạt động của các nhà đầu tư khi mới gia nhập thị trường Việt Nam. Do vậy, nhiều hoạt động nghiên cứu về đăng ký đầu tư nước ngoài đã và đang được thực hiện rất đa dạng do xu hướng phát triển chung của thị trường đòi hỏi cần nghiên cứu nhằm điều chỉnh cho phù hợp tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút đầu tư. Vì vậy việc lựa chọn nghiên cứu đề tài:“Đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo Luật đầu tư 2014 từ thực tiễn thành phố Hà Nội” là thực sự cần thiết. Điều này nhằm đánh giá thực trạng của pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài, qua đó làm rõ những điểm mới, điểm hạn chế còn tồn tại và đề ra phương án giải quyết góp phần nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước trong lĩnh vực đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tạo một môi trường cạnh tranh và cởi mở cho các nhà đầu tư phát triển nền kinh tế nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Thời gian qua đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài, thông qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu cũng như xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, các nghiên cứu có liên quan đến vấn đề đăng ký đầu tư nước ngoài đã giải đáp được các khía cạnh khác nhau của hoạt động đầu tư nước ngoài, cụ thể: 2 Các công trình luận văn, luận án, chuyên đề như: Nguyễn Văn An (2012), Nghiên cứu phát triển đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Việt Nam vào lĩnh vực công nghiệp ở CHDCND Lào, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân; Nguyễn Đình Khuyến (2006), Nguyễn Tiên Phong (2011), Những vấn đề pháp lý về chuyển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần, Luận văn thạc sĩ luật học; TS. Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006), “Những xu thế đầu tư trực tiếp nước ngoài và chiến lược thu hút - thúc đẩy đầu tư nước ngoài đến năm 2020”, Luận văn tiến sĩ, Học viện ngoại giao Việt Nam; Đào Thị Bích Thủy (2012), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình nền kinh tế đang phát triển, Tạp chí khoa học ĐHQHN, Kinh tế và kinh doanh 28, Tr 193-199; Phạm Thị Mai Hương (2016), Thực trạng thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sĩ quản lý kinh tế, Trường Đại học kinh tế và quản trị kinh doanh Đại học Thái Nguyên Các chuyên đề được xuất bản thành sách hoặc được đăng tải trên các tạp chí như: TS. Lê Xuân Bá (2006), “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam”, NXB Khoa học kỹ thuật; Tạp chí nhà đầu tư số 93, tháng 2/2017, Tạp chí điện tử tài chính tháng 10/2017,… Như vậy, các công trình nghiên cứu nêu trên đã giải quyết được vấn đề và phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau về đăng ký đầu tư nước ngoài nói chung tại Việt Nam. Dù không phải là vấn đề mới song kể từ khi LDN 2014 cùng LĐT 2014 có hiệu lực thi hành cho tới nay thì vấn đề đăng ký đầu tư hay đăng ký kinh doanh cũng có nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập cần được nghiên cứu làm sáng tỏ. Mặt khác, với một công trình nghiên cứu tổng thể, toàn diện về đăng ký đầu tư đi trước và có sự gắn kết với thực tiễn 3 triển khai trên địa bàn Hà Nội - một trong những trung tâm kinh tế hàng đầu của cả nước là hết sức cần thiết hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, pháp luật và thực trạng áp dụng đăng ký đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ việc áp dụng quy định LĐT 2014 trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó đưa ra các đề xuất và khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư nước ngoài nhằm xúc tiến hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng hơn nữa trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu Nghiên cứu làm rõ khung lý thuyết về hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Đánh giá thực trạng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam hiện nay từ thực tiễn tại Hà Nội để tìm ra những mặt mạnh, mặt hạn chế và nguyên nhân. Đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế những tồn tại hiện nay và nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài chủ yếu tập trung vào những vấn đề sau đây: Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hoàn thiện pháp luật đăng ký đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay; Các quy định của LĐT 2014, nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành và các quy định pháp luật về hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài; 4 Thực tiễn thi hành pháp luật về đăng ký đầu tư trên địa bàn thành phố Hà Nội 4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài đăng ký đầu tư nước ngoài là một đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Tuy nhiên, trong yêu cầu của một bản luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở nội dung cụ thể sau: - Nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về đăng ký đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn thi hành mà không nghiên cứu sâu hơn về quá trình hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong bài luận văn này, tác giả có sử dụng các quy định về đăng ký đầu tư nước ngoài theo luật đầu tư với mục đích nhằm so sánh, đối chiếu, phân tích để nhận diện sâu sắc hơn những thay đổi trong quy định pháp luật và bản chất của hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài. - Tìm hiểu về đăng ký đầu tư nước ngoài từ thực tiễn áp dụng tại Hà Nội. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin; - Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử,… được sử dụng hầu hết trong chương 1 nhằm nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về đăng ký đầu tư nước ngoài, những đặc điểm của đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; 5 - Phương pháp hệ thống hóa, mô tả, phân tích các yếu tố liên quan đến đăng ký đầu tư nước ngoài nhìn trong mối quan hệ biện chứng với các nhân tố môi trường đăng ký đầu tư và những tác động liên quan đối với thành phố Hà Nội được sử dụng chủ yếu trong chương 2 trên cơ sở các kinh nghiệm và lý luận cơ bản về vấn đề đăng ký đầu tư nước ngoài đã được trình bày và công bố trong các công trình liên quan đến đề tài. Từ đó tiếp tục kế thừa và phát triển dựa trên góc độ tiếp cận và mục đích nghiên cứu; - Phương pháp so sánh luật học, phương pháp đánh giá, phân tích khi tìm hiểu những quy định pháp luật liên quan đến đăng ký đầu tư trong chương 2; - Phương pháp đánh giá, tổng hợp,… được sử dụng trong chương 3 khi xem xét, tìm hiểu về các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam từ thực tiễn tại Hà Nội. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Những phân tích, đánh giá trong đề tài mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng quy định pháp luật trong hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhằm hiểu và vận dụng tốt hơn pháp luật trong quá trình áp dụng và từ đó đề xuất được các biện pháp nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong quy định pháp luật nhằm thu hút hơn nữa hoạt động đầu tư vào Việt Nam trong giai đoạn tới. Cụ thể: - Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ hơn cơ sở lý luận và nội dung quy định của pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài; - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đóng góp cho quá trình hoàn thiện pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài và thực tiễn áp dụng tại Hà Nội. Từ đó, luận văn đưa ra những giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài để nâng cao hiệu quả thực thi trên thực tiễn trên địa bàn Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung. 6 7. Cơ cấu của luận văn Với những mục tiêu trên đây, luận văn được chia thành 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về đăng ký đầu tư nước ngoài Chương 2: Thực trạng pháp luật về đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và thực tiễn từ thành phố Hà Nội. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật đăng ký đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành từ thành phố Hà Nội 7 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐĂNG KÝ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI 1.1. Khái quát chung về đăng ký đầu tư nước ngoài 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm chung về đăng ký đầu tư nước ngoài 1.1.1.1. Khái niệm đăng ký đầu tư nước ngoài Để hiểu được khái niệm về đăng ký đầu tư nước ngoài, trước hết cần tìm hiểu về khái niệm đầu tư. Xuất phát từ khái niệm đầu tư theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, đầu tư được hiểu là việc“bỏ nhân lực, tài lực, vật lực vào một công việc gì dựa trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế- xã hội” [13, tr.32]. Như vậy, đầu tư bao giờ cũng có đối tượng hay chủ thể, mục đích và cách thức thực hiện xác định. Tuy nhiên, khái niệm này còn khá chung chung và chưa thể hiện hết bản chất của khái niệm đầu tư. Theo đó, đăng ký đầu tư theo khái niệm này được hiểu là việc Nhà đầu tư ngay sau khi chuẩn bị “nhân lực, tài lực, vật lực” thực hiện thủ tục đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép thực hiện hoạt động đầu tư. Theo quan điểm của kinh tế học, đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh, để từ đó thu được số vốn lớn hơn số đã bỏ ra, thông qua lợi nhuận, “là khâu đầu tiên trong quá trình sản xuất, kinh doanh của một chủ thể đầu tư, là chi phí ban đầu phục vụ một đối tượng nào đó, được sử dụng một cách có chủ đích nhằm thỏa mãn nhu cầu của chủ đầu tư”[11]. Với cách hiểu này thì đầu tư gói gọn trong một khâu của hoạt động kinh tế và đơn thuần chỉ là hoạt động bỏ vốn ban đầu để hướng tới kết quả quá trình sản xuất, kinh doanh. Đăng ký đầu tư theo đó cũng là khâu đầu tiên của quá trình sản xuất kinh doanh được Nhà nước bảo hộ thông qua việc cấp phép 8 hoạt động, để thực hiện được thì Nhà đầu tư phải thực hiện thông báo với cơ quan Nhà nước thông qua việc đăng ký đầu tư. Tuy nhiên dưới góc nhìn của doanh nghiệp, đầu tư là hoạt động bỏ vốn kinh doanh, để từ đó thu được các hiệu quả kinh tế- xã hội, vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, góp phần vào sự phát triển quốc gia. Từ góc nhìn này, đăng ký đầu tư dường như có thể không được thực hiện vì bản chất của đầu tư chính là việc bỏ vốn để sinh lợi, việc đăng ký đầu tư có thể được thực hiện hoặc không bởi Nhà đầu tư không muốn vướng phải những rào cản từ phía cơ quan nhà nước khi cơ quan nhà nước quản lý hoạt động đầu tư. Nhưng việc không đăng ký đầu tư sẽ dẫn tới hệ lụy đối với Nhà đầu tư, theo đó nhà đầu tư sẽ bị cơ quan nhà nước ra quyết định xử phạt vì không đăng ký trước khi hoạt động kinh doanh. Dưới góc độ pháp lý, theo quy định tại LĐT 2014, khái niệm đầu tư đã được thu hẹp dần, cụ thể: “Đầu tư kinh doanh là việc Nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế, đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế, đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”[6]. Với việc thu hẹp khái niệm đầu tư, LĐT 2014 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn các nội hàm của khái niệm đầu tư. Cũng dưới góc độ pháp lý này, hoạt động đăng ký đầu tư là việc nhà đầu tư với tiềm lực về vốn thực hiện hoạt động đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp phép hoạt động. Hoạt động đăng ký đầu tư có hai hình thức là đăng ký đầu tư trong nước và đăng ký đầu tư nước ngoài. Đăng ký đầu tư nước ngoài là hoạt động được thực hiện bởi chủ thể có quốc tịch nước ngoài nhằm thực hiện hoạt động đầu tư sang nước tiếp nhận đầu tư theo quy định pháp luật quốc gia tiếp nhận đầu tư và pháp luật quốc tế có liên quan. 9 Với xu thế hội nhập và toàn cầu hóa thì việc các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam là quy luật tất yếu, khách quan. Đăng ký đầu tư là “cửa ngõ” đề các Nhà đầu tư có thể bước vào nhằm thực hiện hoạt động kinh doanh sinh lợi của mình. Do vậy, việc đăng ký đầu tư có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động đầu tư. Trước khi hoạt động kinh doanh, Nhà đầu tư phải tiến hành đăng ký với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về lĩnh vực dự kiến hoạt động kinh doanh. Đây là thủ tục bắt buộc mà các Nhà đầu tư nước ngoài nếu muốn hoạt động kinh doanh tại Việt Nam phải làm trước hết. Việc này vừa tạo cho doanh nghiệp sự bảo hộ từ phía cơ quan nhà nước vừa giúp nhà nước dễ dàng quản lý, xử lý các trường hợp kinh doanh trái phép, vi phạm pháp luật. Trong các văn bản quy định pháp luật Việt Nam mới chỉ quy định việc đăng ký đầu tư như là một chế định về quyền hạn và nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh có vốn đầu tư nước ngoài mà chưa quy định cụ thể giải thích thuật ngữ “đăng ký đầu tư nước ngoài”. Do vậy, có thể tiếp cận khái niệm “đăng ký đầu tư nước ngoài” dưới các góc độ sau: Về góc độ kinh tế: Đăng ký đầu tư nước ngoài là việc chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần để hình thành nên một tổ chức kinh doanh. Do đó, Nhà đầu tư phải chuẩn bị địa điểm thực hiện hoạt động kinh doanh, chuẩn bị vốn, đầu tư trang thiết bị, nhà xưởng, đội ngũ cán bộ công nhân viên quản lý và phải có phương án hoạt động kinh doanh cụ thể. Khái niệm đầu tư nước ngoài là khái niệm thể hiện nguồn gốc địa lý của vốn và quốc tịch gắn với nơi định cư của chủ sở hữu vốn đầu tư. Đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài được phân biệt nhằm nhận biết nguồn vốn đầu tư và khẳng định vai trò của nó đối với nền kinh tế mỗi quốc gia. Về góc độ quản lý Nhà nước: Đăng ký đầu tư được coi là biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế. Đăng ký đầu tư nước ngoài là hoạt động quản 10 lý nhà nước đầu tiên đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và khác với doanh nghiệp trong nước ở đặc điểm là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thực hiện hoạt động đăng ký đầu tư. Hoạt động này sẽ tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện các hoạt động quản lý Nhà nước tiếp theo của mình được dễ dàng hơn, tránh việc kinh doanh trái phép hoặc dùng các công cụ tài chính làm ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia, tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội, thậm chí có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến chủ quyền quốc gia [4, tr53-56]. Mặc dù có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về hoạt động đăng ký đầu tư nhưng nhìn chung có thể tiếp cận khái niệm này theo cách chung nhất xuất phát từ khái niệm nhà đầu tư nước ngoài theo quy định tại khoản 14 điều 3 LĐT 2014: “Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam”. Như vậy, đăng ký đầu tư nước ngoài tiếp cận từ khái niệm này được hiểu là việc nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài thực hiện thủ tục đăng ký đầu tư để được cấp phép hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.Từ cách tiếp cận khái niệm chung về đăng ký đầu tư nước ngoài có thể thấy, hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài là hoạt động được thực hiện xuất phát từ chủ thể là tổ chức, cá nhân có quốc tịch nước ngoài thực hiện hoạt động nhằm sinh lợi tại quốc gia tiếp nhận đầu tư, hoạt động đăng ký đầu tư nước ngoài có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến chủ thể đăng ký đầu tư và chủ thể nhà nước tiếp nhận đầu tư và ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của cả quốc gia có chủ thể đăng ký đầu tư và chủ thể của quốc gia tiếp nhận đầu tư nên có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.1.1.2. Đặc điểm của đăng ký đầu tư nước ngoài 11 Từ cách tiếp cận về khái niệm về đăng ký đầu tư nước ngoài trên có thể rút ra được đăng ký đầu tư nước ngoài có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, về chủ thể, đăng ký đầu tư nước ngoài được thực hiện bởi chủ thể có quốc tịch nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư tại quốc gia tiếp nhận đầu tư bằng cách đóng góp một khối lượng vốn tối thiểu theo quy định của từng quốc gia. Luật đầu tư của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp tối thiểu so với vốn pháp định của dự án đối với từng loại dự án trong lĩnh vực khác nhau theo quy định. Mặt khác, chủ thể đăng ký đầu tư có thể đến từ nhiều quốc gia khác nhau cùng lúc đầu tư đăng ký góp vốn vào cùng một dự án. Tuy nhiên phải đáp ứng về điều kiện chủ thể theo quy định của quốc gia tiếp nhận đầu tư và quy định pháp luật liên quan [22]. Song song với chủ thể bị quản lý trong hoạt động đầu tư là chủ thể thực hiện hoạt động quản lý trong lĩnh vực đăng ký đầu tư. Chủ thể này chính là nhà nước - quốc gia tiếp nhận đầu tư. Tùy đối tượng, loại hình hoạt động mà hoạt động đăng ký đầu tư được nhà nước phân ra phạm vi thuộc sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền tương ứng trong bộ máy quản lý Nhà nước. Điều này giúp cho bộ máy quản lý nhà nước được hoạt động xuyên suốt và có sự phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận liên quan theo thẩm quyền cấp phép với từng trường hợp cụ thể. Thứ hai, đăng ký đầu tư nước ngoài là giai đoạn “cửa ngõ” để hình thành nên chủ thể đặc biệt, không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia tiếp nhận đầu tư mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc tế, những hiệp định song phương, đa phương mà quốc gia đó là thành viên trước khi được cấp phép hoạt động. Đây được coi là “luật chơi” dù bất cử chủ thể nào muốn tham dự vào đều phải tuân thủ nếu muốn tiếp tục kinh doanh. Việc phân loại các loại hình doanh nghiệp đăng ký đầu tư giúp cho 12 việc phân biệt các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư và áp dụng quy định tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp. Nhờ vậy, chủ thể kinh doanh dễ dàng lựa chọn được loại hình doanh nghiệp đăng ký đầu tư phù hợp mục tiêu và quy mô doanh nghiệp. Thứ ba, đăng ký đầu tư không chỉ gắn liền với việc di chuyển vốn mà còn gắn liền với việc chuyển giao vốn, công nghệ, kinh nghiệm, kiến thức quản lý và góp phần vào việc tạo ra thị trường mới cho cả phía Nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Do vậy, việc di chuyển nguồn lực sẵn có được thực hiện từ quốc gia có chủ thể đăng ký đầu tư sang quốc gia tiếp nhận đầu tư. Điều này có ý nghĩa không chỉ đối với chủ thể quốc gia đầu tư trong việc tìm kiếm lợi nhuận mà còn có ý nghĩa rất lớn đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư khi tận dụng, học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm, ứng dụng được khoa học kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý, quản trị doanh nghiệp tiến bộ, văn minh của các quốc gia phát triển trên thế giới. Thứ tư, đăng ký đầu tư thường được thực hiện bởi các công ty đa quốc gia nên thường gắn liền với các hoạt động kinh doanh quốc tế, do vậy có sự đan xen giữa văn hóa, chính trị, kinh tế giữa các quốc gia nên việc đăng ký đầu tư tại mỗi chủ thể từ các quốc gia khác nhau cũng có những đặc điểm khác nhau. Việc hoạt động đầu tư không chỉ là xoay quanh các vấn đề kinh tế mà nó còn kéo theo cả bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia được thể hiện trong mỗi cá nhân, chủ thể kinh doanh khi lựa chọn hoạt động đầu tư của mình, chẳng hạn như Hàn Quốc thường xuyên đưa nét văn hóa ẩm thực riêng của mình sang đầu tư tại Việt Nam thông qua việc kinh doanh nhà hàng phục vụ ăn uống, đặc biệt là các món ăn Hàn Quốc mang nét đặc trưng của văn hóa Hàn Quốc. Thứ năm, đăng ký đầu tư là một khâu khởi đầu nhằm phục vụ quá trình vận hành doanh nghiệp nên không phát sinh lợi nhuận. Bản thân việc 13 đăng ký đầu tư mới chỉ là khâu bước đệm để hoạt động đầu tư được tiến hành, nó chính là giấy phép thông hành để chủ thể kinh doanh có thể mang những tiềm lực sẵn có của mình để tiến hành kinh doanh mang lại lợi ích cho chính mình. Tại đây chưa có sự trao đổi về vật chất nên chưa phát sinh lợi nhuận, hơn nữa giai đoạn này được coi là giai đoạn cũng gây mất nhiều thời gian, gây tốn kém nhiều cho chủ thể đầu tư để chuẩn bị cho hoạt động kinh doanh của mình. Thứ sáu, đăng ký đầu tư nước ngoài có những đặc điểm cơ bản khác biệt so với đăng ký đầu tư trong nước ở đặc điểm quốc tịch của chủ thể đăng ký đầu tư, chủ thể đăng ký đầu tư nước ngoài là những cá nhân có quốc tịch nước ngoài, các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp theo quy định pháp luật nước ngoài. Còn đối với chủ thể đăng ký đầu tư trong nước là những cá nhân có quốc tịch trong nước, các tổ chức kinh tế được đăng ký thành lập hợp pháp theo quy định pháp luật trong nước. Đặc điểm khác biệt cơ bản giữa đăng ký đầu tư nước ngoài so với đăng ký đầu tư trong nước nữa là đăng ký đầu tư trong nước có thể hoặc không cần phải xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư tùy quy mô dự án đầu tư. Như vậy, đăng ký đầu tư là một khâu của quá trình đầu tư với những đặc điểm đặc trưng gắn với hoạt động đầu tư. Song với những nhà đầu tư lần đầu đăng ký đầu tư thì vấn đề thủ tục pháp lý vẫn khiến họ gặp không ít khó khăn, nhất là trong việc lựa chọn hình thức đầu tư. 1.1.2. Các yếu tố tác động đến hoạt động đăng ký đầu tư 1.1.2.1. Nhân tố khách quan: a. Kinh tế Các nhân tố kinh tế có vai trò quyết định trong việc hoàn thiện môi trường kinh doanh và ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh 14 nghiệp. Môi trường kinh tế tạo cơ hội cho các nhà đầu tư trong việc tiếp cận hoạt động đầu tư và tạo động lực để các nhà đầu tư sang đăng ký đầu tư kinh doanh. Chiến lược thu hút vốn là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến việc thu hút vốn FDI vào quốc gia. Chiến lược này thể hiện tập trung ở một số điểm như: Mở cửa thu hút vốn bên ngoài hay không, giai đoạn nào thì nên tập trung nguồn vốn trong nước hay ngoài nước, đối với nguồn vốn ngoài nước thì nên lựa chọn tập trung vào nguồn nào như đi vay thương mại, ODA hay vốn FDI…[21]. Việc định hướng chiến lược thu hút có ý nghĩa quan trọng nhằm thiết lập các điều kiện để thu hút cho phù hợp. Các địa phương, vùng miền khác nhau ngoài chiến lược thu hút tổng thể của quốc gia sẽ có định hướng, chính sách và mục tiêu riêng để thu hút vốn FDI phát triển kinh tế – xã hội của địa phương đó [3]. Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô như ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội là điều kiện hết sức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, môi trường kinh tế vĩ mô có tác động trực tiếp tạo điều kiện hoặc cản trở việc thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài và muốn thu hút được vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài thì các nước phải ổn định được môi trường kinh tế vĩ mô trước. b. Môi trường khoa học – công nghệ Sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ trên thế giới làm cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngày càng phải đầu tư thay đổi công nghệ mới. Sự thay đổi nhanh chóng đó làm cho tuổi thọ của các thiết bị kỹ thuật ngày càng không đáp ứng được với đòi hỏi của thị trường và thời đại. Do vậy trong định hướng đầu tư của doanh nghiệp phải có sự suy xét chu đáo, lựa chọn các loại máy móc sao cho phù hợp với trình độ phát triển và yêu cầu của thời đại vừa phù hợp với trình độ phát triển và yêu cầu 15 của thời đại vừa phù hợp kế hoạch phát triển và ngân sách đầu tư cho phép của doanh nghiệp. c. Môi trường hóa- xã hội Người Việt thường có tập quán sinh sống gắn bó với nhau, hiện nay, ở nông thôn thì đơn vị dân cư là làng, xã, ở đô thị là phường, tổ dân phố… và cùng với tập quán định canh, định cư đã giúp cho việc phổ biến pháp luật, quản lý hành chính… theo đơn vị dễ dàng hơn. Ngoài ra, việc sinh sống gắn bó với nhau kết hợp cùng khái niệm “lệ làng”, “hương ước” (những quy định riêng của nhóm nhỏ dân cư) còn góp phần hình thành khả năng tự quản, một trong những yếu tố của dân chủ. Quy chế dân chủ nội bộ hay thỏa ước lao động tập thể trong Luật Lao động chính là xuất phát từ tính gắn bó cộng đồng và sự linh hoạt. Do vậy, nền văn hóa mỗi quốc gia cũng được chú trọng rất lớn để các Nhà đầu tư tìm hiểm và ra quyết định đăng ký đầu tư. d. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý bao gồm luật và các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành. Mọi quy định về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Môi trường pháp lý tạo ra sân chơi để các doanh nghiệp cùng tham gia hoạt động kinh doanh, vừa cạnh tranh vừa hợp tác lẫn nhau. Hệ thống pháp luật của nước sở tại bao gồm các luật liên quan đến hoạt động đầu tư như LĐT, LDN, Luật Bảo vệ môi trường…và các văn bản hướng dẫn luật, các quy định về hoạt động đầu tư đối với người nước ngoài, các văn bản về quản lý Nhà nước trong hoạt động đầu tư [12]. Đây cũng chính là hành lang pháp lý đảm bảo sự an tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hệ thống pháp luật được xây dựng theo hướng thông thoáng, đầy đủ chặt chẽ là cơ sở tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Mặt khác, hệ 16 thống pháp luật không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn có chức năng ngăn cản những tác động tiêu cực mà các nhà đầu tư cố tình vi phạm ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng, an ninh quốc gia và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư. LĐT 2014 tập trung vào việc kiểm soát của Nhà nước vào giai đoạn sớm hơn của quá trình đầu tư và thành lập doanh nghiệp, cụ thể là quản lý việc lựa chọn hình thức, đăng ký hoặc cấp phép đầu tư, cũng như quy định quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư khi đã được cấp phép đầu tư tại Việt Nam. 1.1.2.2. Nhân tố chủ quan: a. Nguồn lao động Một nhà đầu tư muốn mở một nhà máy thì trên phương diện nguồn nhân lực nhà đầu tư sẽ chọn khu vực có thể đáp ứng được cả về số lượng và chất lượng của lao động, ngoài ra giá cả sức lao động là một trong những chỉ tiêu đánh giá của các nhà đầu tư trước khi thực hiện hoạt động đăng ký đầu tư. Chất lượng lao động là một lợi thế cạnh tranh đối với các nhà đầu tư vào lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao hay có sử dụng nhiều công nghệ hiện đại. Ngoài ra, yếu tố văn hoá cũng ảnh hưởng tới yếu tố lao động như sự cần cù, tính kỷ luật, ý thức trong lao động…Vì vậy, yếu tố lao động là một trong những điều kiện tác động tới các nhà đầu tư nước ngoài khi tiến hành kinh doanh. Tuy nhiên, để có lực lượng lao động tốt thì lại phụ thuộc vào hệ thống giáo dục, đào tạo, chất lượng đào tạo nghề… b. Cơ sở vật chất, nguồn lực của nhà đầu tư Sự phát triển cơ sở hạ tầng là một điều kiện vật chất hàng đầu để các nhà đầu tư nước ngoài đăng ký đầu tư. Thực tế thu hút đăng ký đầu tư tại các địa phương trong cả nước cho thấy các dòng vốn chỉ đổ vào nơi nào có 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan