Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đảng cộng sản việt nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay...

Tài liệu đảng cộng sản việt nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay

.PDF
191
312
97

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ HÀ VÂN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC HÀ NỘI - 2019 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH TRẦN THỊ HÀ VÂN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC Mã số: 62 31 02 03 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. ĐỖ NGỌC NINH 2. TS. NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của Tôi; các số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Trần Thị Hà Vân MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 6 1.1. Các công trình nghiên cứu về môi trường và bảo vệ môi trường 6 1.2. Các công trình nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với các lĩnh vực đời sống xã hội 20 1.3. Kết quả và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ 27 Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA - NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 29 2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam và công tác bảo vệ môi trường ở nước ta 29 2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường nước ta khái niệm, nội dung và phương thức 60 Chương 3: CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM 68 3.1. Thực trạng công tác bảo vệ môi trường ở nước ta 68 3.2. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường - thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm 76 Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở NƯỚC TA ĐẾN NĂM 2030 112 4.1. Những thuận lợi, khó khăn và phương hướng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường nước ta đến năm 2030 112 4.2. Những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đến năm 2030 120 KẾT LUẬN 149 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 PHỤ LỤC 166 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BVMT : Bảo vệ môi trường CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội CTBVMT : Công tác bảo vệ môi trường HTCT : MTST : Môi trường sinh thái MTTQ : Mặt trận Tổ quốc PTLĐ : Phương thức lãnh đạo TNTN : Tài nguyên thiên nhiên XHCN : Xã hội chủ nghĩa Hệ thống chính trị 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Bảo vệ môi trường (BVMT) là một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố rất quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo sức khỏe của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế, xã hội; ổn định chính trị, an ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “…bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là một trong những nội dung của phát triển bền vững” [60, tr.141]. Nhận thức rõ tầm quan trọng của môi trường đối với đời sống của con người, trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước, Đảng ta luôn coi BVMT là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu song hành với nhiệm vụ phát triển, bền vững kinh tế - xã hội ở nước ta. Lãnh đạo sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đã làm thay đổi diện mạo của đất nước và đời sống của nhân dân trong giai đoạn hiện nay là tất yếu. Tuy nhiên, do còn nhiều hạn chế trong lãnh đạo, quản lý về công tác bảo vệ môi trường (CTBVMT) của Đảng, Nhà nước và các cấp ủy, chính quyền địa phương cùng với ý thức trách nhiệm của người dân chưa cao nên ở nhiều địa phương môi trường chưa được bảo vệ tốt. Ở khá nhiều nơi môi trường xuống cấp nhanh chóng, đáng báo động, tác động xấu đến sự phát triển mọi mặt, nhất là kinh tế - xã hội. Ở một vài nơi, ô nhiễm môi trường tiềm ẩn những yếu tố trở thành vấn đề chính trị. Từ thực trạng đó, Đảng ta đã ban hành các nghị quyết, chỉ thị về BVMT và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách quyết liệt. Cụ thể, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Nghị quyết chỉ rõ: “Xây dựng nước ta trở thành một nước có môi trường tốt, có sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường; mọi người đều có ý thức bảo vệ môi trường, sống thân thiện với thiên nhiên” [50, tr.3]. Nghị quyết Đại hội Đại XII của Đảng tiếp tục khẳng định: Ngăn chặn từng bước và khắc phục sự xuống cấp của môi trường do con người, nhất là các dự án phát triển kinh tế gây ra. Hạn chế, tiến tới khắc 2 phục tình trạng hủy hoại, làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường của các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp, khu đô thị. Ban hành các chế tài đủ mạnh để bảo vệ môi trường, ngăn chặn, xử lý theo pháp luật nhằm chấm dứt tình trạng gây ô nhiễm môi trường... [60, tr.31-32]. Thực hiện các nghị quyết, quan điểm, chủ trương nêu trên của Đảng; trong thời gian qua, CTBVMT ở nước ta đã có những chuyển biến tích cực: Nhà nước đã cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương, quan điểm, các nghị quyết của Đảng về BVMT thành chính sách, pháp luật, chương trình, đề án và tổ chức thực hiện trong toàn xã hội. Nhận thức về BVMT của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và nhân dân được nâng lên một bước; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố về môi trường từng bước được hạn chế; công tác bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học có tiến bộ rõ rệt… Những chuyển biến tích cực và kết quả đó, đã tạo tiền đề để Đảng lãnh đạo CTBVMT đạt kết quả lớn hơn trong thời gian tới. Tuy nhiên, công tác BVMT còn nhiều hạn chế, yếu kém; ý thức BVMT của cán bộ, đảng viên và nhiều người dân, nhìn chung còn thấp; việc hoàn thiện cơ chế, chính sách và hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về môi trường còn chậm; đội ngũ cán bộ quản lý môi trường còn hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn; việc xử lý, giải quyết ô nhiễm môi trường hiệu quả thấp; thiếu kiên quyết trong xử lý vi phạm pháp luật về BVMT. Trong khi đó, ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi tiếp tục gia tăng với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về kinh tế, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, đời sống nhân dân đang là vấn đề báo động. Những hạn chế yếu kém nói trên cùng với tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu và mặt trái của hội nhập quốc tế đặt ra cho công tác BVMT nhiều thách thức lớn trước mắt và lâu dài. Những yếu kém trong CTBVMT chủ yếu từ những hạn chế, bất cập trong lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT. Cụ thể là, Đảng còn lúng túng trong xác định nội dung và phương thức lãnh đạo (PTLĐ) CTBVMT; chưa xác định rõ trọng tâm, trọng điểm lãnh đạo trong từng khoảng thời gian nhất định; còn lúng túng trong lãnh đạo Nhà nước về BVMT; sự phân công, phân cấp trách nhiệm của các cấp ủy 3 đảng về lãnh đạo CTBVMT có một số điểm chưa cụ thể, rõ ràng; công tác tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân về CTBVMT còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Sự lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan chức năng trong xác minh và xử lý tập thể, cá nhân vi phạm gây hậu quả nghiêm trọng về môi trường có lúc chưa kịp thời, quyết liệt và nghiêm minh; việc lãnh đạo hợp tác quốc tế về BVMT còn nhiều hạn chế, hiệu quả thấp… Nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, tìm giải pháp khả thi phát huy ưu điểm, khắc phục những hạn chế, yếu kém nêu trên; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT giai đoạn hiện nay thực sự là vấn đề rất cấp thiết. Để góp phần giải quyết vấn đề cấp thiết nêu trên, nghiên cứu sinh chọn và thực hiện đề tài luận án tiến sỹ “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác bảo vệ môi trường giai đoạn hiện nay”. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTBVMT, luận án đề xuất giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT đến năm 2030. 2.2. Nhiệm vụ - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra kết quả đạt được và những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ. - Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTBVMT trong giai đoạn hiện nay; - Khảo sát, đánh giá thực trạng CTBVMT và thực trạng Đảng lãnh đạo CTBVMT ở nước ta trong những năm qua; chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nhiệm. - Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT đến năm 2030. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CTBVMT nước ta giai đoạn hiện nay. 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu Về thời gian: Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với CTBVMT từ năm 2004 đến nay; phương hướng và giải pháp đề xuất trong luận án có giá trị đến năm 2030. Về không gian: Luận án nghiên cứu CTBVMT và Đảng lãnh đạo CTBVMT; tập trung nghiên cứu vấn đề này ở một số tỉnh đặc thù của ba miền nước ta; miền Bắc (Hà Nội), miền Trung (Hà Tĩnh), miền Nam (thành phố Hồ Chí Minh). Đây là những tỉnh, thành phố tập trung khu công nghiệp, khu chế xuất, đông dân cư tiềm ẩn lớn sự ô nhiễm môi trường. 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng ta về môi trường, BVMT và sự lãnh đạo của Đảng đối với các lĩnh vực đời sống xã hội 4.2. Cơ sở thực tiễn Cơ sở thực tiễn của luận án là thực tiễn CTBVMT ở nước ta và sự lãnh đạo CTBVMT của Đảng từ năm 2004 - 2018 qua nghiên cứu thực tế và các đánhg giá của Đảng, Nhà nước, các cấp ủy, chính quyền ở một số tỉnh, thành điển hình. 4.3. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp: logíc kết hợp với phương pháp lịch sử; phân tích kết hợp với tổng hợp; thống kê, so sánh; điều tra xã hội học; coi trọng phương pháp khảo sát, tổng kết thực tiễn. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án - Khái niệm: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTBVMT là toàn bộ hoạt động của Đảng, như: xây dựng, ban hành các nghị quyết, chỉ thị về BVMT; quán triệt, tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát việc thực hiện của các tổ chức đảng và đảng viên, các tổ chức trong hệ thống chính trị (HTCT), tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và nhân dân theo quy định làm cho môi trường trong lành, cân bằng, bền vững. 5 - Hai kinh nghiệm về Đảng lãnh đạo CTBVMT từ năm 2004 đến nay. Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của HTCT, các tổ chức, và toàn dân, mọi nguồn lực trong và ngoài nước để BVMT. Hai là, Đảng đặc biệt coi trọng lãnh đạo việc xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức và cá nhân vi phạm Luật BVMT. - Hai giải pháp đột phá tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với CTBVMT đến năm 2030: thứ nhất, xây dựng Nhà nước và chính quyền các cấp vững mạnh, bảo đảm thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về BVMT. Thứ hai, xây dựng và phát huy vai trò của các tổ chức cơ sở đảng, cán bộ, đảng viên, nhất là các đảng bộ xã, phường, thị trấn thực hiện tốt việc tuyên truyền, vận động, tổ chức nhân dân BVMT. 6. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Luận án góp phần làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo CTBVMT nước ta giai đoạn hiện nay. Luận án góp phần cung cấp những luận cứ khoa học cho Đảng nghiên cứu xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo CTBVMT trong những năm tới. Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ học tập, nghiên cứu môn xây dựng Đảng ở các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Đảng, Nhà nước ta, nhất là ở Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các trường chính trị tỉnh, thành phố trong cả nước. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, các công trình khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 9 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ MÔI TRƯỜNG VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 1.1.1. Công trình khoa học ở Việt Nam - Nguyễn Đức Khiển, Nguyễn Kim Hoàng, “Đạo đức môi trường” [92]. Các tác giả nhận định, sự phát triển của loài người song hành cùng sự phát triển của khoa học công nghệ, của máy móc hiện đại đã để lại nhiều tác động đến môi trường. Tác giả đã giành chương 4 tập trung cho vấn đề đạo đức môi trường, bàn về khía cạnh đạo đức trong BVMT. Từ thực trạng của sự suy thoái môi trường hiện nay, tác giả luận giải, con người là nạn nhân của ô nhiễm, nhưng chính bản thân họ cũng là những thủ phạm gây nên những thảm họa về môi trường. Trong quá trình sinh sống do khai thác tài nguyên, thiên nhiên không hợp lý làm cho môi trường tự nhiên bị suy kiệt; do thiếu ý thức mà con người xả rác bừa bãi, nhận thức và ý thức BVMT kém đã làm cho môi trường bị suy thoái ngày càng nghiêm trọng - Đỗ Thị Ngọc Lan, “Môi trường tự nhiên trong hoạt động cuộc sống của con người” [99]. Tác giả nhận định: con người và xã hội loài người là bộ phận đặc biệt của tự nhiên, cho nên trước khi biến đổi được tự nhiên con người cần phải thích nghi được với nó; nhưng trong thực tế, con người hầu như không quan tâm tới mối liên hệ biến đổi và thích nghi, bất chấp quy luật tự nhiên, bất chấp sự giới hạn của giới tự nhiên và môi trường. Theo tác giả, chính sự khai thác tài nguyên quá mức của con người đã làm suy thoái môi trường; phá vỡ tính đa dạng sinh học; hủy hoại các hệ sinh thái. Tác giả khẳng định, để phát triển bền vững mối quan hệ thích nghi và biến đổi môi trường tự nhiên, cần có những giải pháp đồng bộ; như, giữ tỷ lệ tăng dân số một cách hợp lý; trong sự tăng trưởng kinh tế cần có sự cân nhắc giữa chi phí và lợi ích, giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; nhanh chóng áp dụng thành tựu của khoa học công nghệ mới vào khai thác tài nguyên và xử lý chất thải; đẩy mạnh giáo dục nhận thức về môi trường sống. 7 - Nguyễn Minh Hằng, “Môi trường sinh thái - vấn đề của mọi người” [72] Tác giả khẳng định, môi trường suy thoái (MTST) là một mạng lưới chỉnh thể có mối liên quan chặt chẽ với nhau giữa đất, nước, không khí và các cơ thể sống trong phạm vi toàn cầu. Vì vậy, chỉ cần rối loạn, bất ổn định ở một khâu nào đó trong hệ thống sẽ gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng. Trong quá trình sinh sống, con người là chủ thể bồi đắp cho thiên nhiên; nhưng cũng vì lợi ích và nhu cầu của cuộc sống, đã khai thác triệt để nguồn tài nguyên thiên nhiên (TNTN) làm suy thoái MTST, dần dần con người trở nên đối lập với thiên nhiên. Suy thoái môi trường làm cho trái đất nóng lên do “hiệu ứng nhà kính”; ô nhiễm nguồn nước ngày càng nghiêm trọng; tầng ôzon suy thoái tác động mạnh đến mọi sinh vật trên trái đất, làm giảm khả năng miễn dịch của con người, gia tăng bệnh tật. Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, trong cuốn sách “Môi trường sinh thái - vấn đề và giải pháp” [161]. Tác giả khẳng định: mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên là mối quan hệ biện chứng. Theo tác giả, nghiên cứu, xem xét mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên thông qua cơ sở lý luận, phương pháp luận. Thứ nhất, tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của sự thống nhất biện chứng giữa xã hội, tự nhiên với con người; thứ hai, sự điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên; thứ ba, sự phụ thuộc của con người, xã hội và tự nhiên vào trình độ phát triển của xã hội. Tác giả nhận định, cùng với sự phát triển của xã hội, sự tác động của con người, làm cho môi trường biến đổi theo chiều hướng ngày càng xấu đi. Nguyên nhân chính là từ nhận thức và ý thức của con người đối với môi trường hạn chế. Để BVMT cần phải thay đổi quan niệm về tự nhiên; coi vấn đề giáo dục trở thành một nột dung quan trọng trong chương trình giáo dục và đào tạo. - Hà Huy Thành, Lê Cao Đoàn, “Vấn đề môi trường trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội theo hướng bền vững ở Việt Nam” [149]. Các tác giả đã phân tích và nhận định: tài nguyên, môi trường, một mặt, là cơ sở nền tảng của sự phát triển xã hội, bao gồm phát triển kinh tế và các lĩnh vực xã hội ngoài kinh tế; mặt khác, tài nguyên, môi trường là một bộ phận cấu thành của một hệ thống kinh tế xã hội; BVMT là bảo vệ nguồn lợi và nguồn vốn của con người thu được từ thiên nhiên. 8 Các tác giả đã dành một chương để trình bày kết quả nghiên cứu thực trạng những vấn đề môi trường và nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm môi trường; cụ thể là, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chủ yếu dựa vào khai thác, sử dụng nhiều TNTN mà không quan tâm đến việc sử dụng hợp lý tài nguyên và BVMT. Điều đó đã dẫn đến tình trạng tàn phá, hủy diệt, làm cạn kiệt nguồn tài nguyên; môi trường nước, không khí, rác thải ở cả đô thị và nông thôn bị ô nhiễm nghiêm trọng gây nhiều hệ lụy cho sự phát triển kinh tế, xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người; trong khi đó, việc quản lý nhà nước về môi trường còn nhiều bất cập. - Nguyễn Thị Khương, “Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở nước ta hiện nay” [97]. Dưới góc độ triết học, tác giả tập trung làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa tăng trưởng kinh tế với BVMT sinh thái và khẳng định: tăng trưởng kinh tế tác động tới bảo vệ MTST thông qua yếu tố người lao động, tài nguyên thiên nhiên, khoa học và công nghệ - là những yếu tố cơ bản quyết định tới sự tăng trưởng của nền kinh tế và ảnh hưởng tới quá trình bảo vệ MTST. Ngược lại, MTST giữ vai trò tiền đề, điều kiện tiên quyết cho sự hình thành, phát triển của con người cũng như nền sản xuất vật chất của xã hội; nó cung cấp những điều kiện vật chất - tức là nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn để con người sản xuất ra của cải, duy trì sự sinh tồn và phát triển. Vì vậy, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo vệ MTST là hai nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt, luôn đồng hành với nhau trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức, hàng loạt mâu thuẫn nẩy sinh giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ MTST đòi hỏi phải nhận thức, tìm cách giải quyết để đưa đất nước phát triển ngày càng bền vững. - Nguyễn Đức Trí, Nguyễn Thị Hoàng Yến, “Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ở Việt Nam” [162]. Các nhà khoa học nhận định, muốn phát triển bền vững phải tính đến yếu tố môi trường. Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội có quan hệ chặt chẽ, khăng khít, tác động qua lại lẫn nhau. Chính trong quá trình sản xuất, con người do thiếu ý thức, thiếu hiểu biết, tận khai thác đã và đang tác động tiêu cực đến môi trường; hủy hoại những giá trị của môi trường. Các tác giả đã đánh giá cụ thể về hiện trạng của ô 9 nhiễm môi trường; như, mức độ ô nhiễm ở hạ lưu các con sông ngày càng tăng, chất lượng đất và diện tích đất canh tác bị thu hẹp, ô nhiễm không khí, tiếng ồn giao thông… sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu cho đời sống, sức khỏe con người, cho sự phát triển kinh tế - xã hội; hậu quả đó không phải chỉ một quốc gia phải gánh chịu và còn gây hậu quả trên phạm vi toàn cầu. - Trần Thiết, “Bảo vệ môi trường để phát triển bền vững” [155]. Tác giả chỉ rõ, mức độ nguy hiểm của biến đổi khí hậu toàn cầu và suy giảm môi trường; trong đó, Việt Nam là nước ảnh hưởng nặng nề nhất. Theo tác giả, nguyên nhân dẫn tới môi trường bị suy giảm, ngoài yếu tố khách quan có nguyên nhân chủ quan thuộc về nhận thức và ý thức của người dân và chủ doanh nghiệp. Việc BVMT để phát triển bền vững là trách nhiệm của cả HTCT, của toàn dân, mà trước hết là vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng. Lê Thị Thanh Hà,“Vai trò của nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam” [69]. Tác giả khái quát đặc điểm của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam, chỉ rõ những tác động tiêu cực của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn đến môi trường nước ta hiện nay, như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tác động trực tiếp đến môi trường; quá trình đô thị hóa đã thu hẹp tài nguyên đất sản xuất nông nghiệp; dân số tăng cộng với các dịch vụ khác đã gây sức ép lớn cho môi trường; sự phát triển của làng nghề làm gia tăng chất thải nguy hại; tác động của việc khai thác khoáng sản làm nảy sinh vấn đề môi trường bức xúc. Tác giả khẳng định vai trò của nhà nước trong CTBVMT thời gian qua và chỉ rõ những hạn chế, bất cập của pháp luật BVMT; hạn chế của tổ chức bộ máy; hạn chế trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia BVMT... - Trương Mạnh Tiến, “Sự phát triển của thương mại tự do trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay với vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái” [159]. Tác giả đã tập trung làm rõ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về tự do thương mại và bảo vệ MTST ở nước ta. Khi nghiên cứu về nền kinh tế thị trường và quá trình tự do hóa thương mại, tác giả phân tích mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái. Trên cơ sở đó, tác giả đi đến nhận định: sự bền vững về MTST chính là cơ sở để tăng trưởng kinh tế; con đường khả 10 thi duy nhất để tăng trưởng kinh tế lâu bền là cân bằng các nguồn lực kinh tế, sinh thái, con người. Trên cơ sở đánh giá những thuận lợi và chỉ rõ những hậu quả về mặt môi trường của các chính sách kinh tế tự do hóa thương mại gây ra; tác giả cho rằng, quy mô hoạt động thương mại tăng, sẽ dẫn đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, và ô nhiễm MTST cũng tăng theo; các hoạt động tự do hóa thương mại như nhập hàng hóa kém chất lượng, rác thải công nghiệp, xuất khẩu gỗ, thủy hải sản… để lại nhiều hậu quả về MTST; tự do hóa thương mại dẫn tới tăng trưởng kinh tế cao hơn, nhu cầu sử dụng tài nguyên cho các ngành công nghiệp gia tăng, việc khai thác TNTN sẽ dẫn đến tình trạng MTST ô nhiễm ngày càng nặng nề hơn. Tác giả rút ra kết luận: sự phát triển tự do thương mại trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta ảnh hưởng rõ rệt tới MTST, nhưng tự do hóa thương mại có vai trò thúc đẩy kinh tế phát triển bền vững; vì vậy, cần phải có biện pháp để BVMT sinh thái trong điều kiện tự do hóa thương mại ở nước ta. - Nguyễn Đình Hòa, “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở nước ta hiện nay - khía cạnh môi trường sống” [81]. Tác giả khẳng định, ở nước ta các vấn đề về môi trường sống nảy sinh trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay đang trở nên hết sức phức tạp, tạo nên sức ép to lớn đối với môi trường sống khu vực này, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng, cản trở quá trình phát triển. Nguy cơ cạn kiệt một số nguồn tài TNTN do các hoạt động sản xuất và dân sinh, vấn đề ô nhiễm môi trường do tác động của quá trình CNH, HĐH; nguy cơ giảm đa dạng sinh học chủ yếu do các hoạt động sản xuất và dân sinh; các khu công nghiệp, cụm công nghiệp được triển khai tại nhiều địa phương góp phần gây ô nhiễm… là vấn đề cấp bách hiện nay cần có những giải pháp căn cơ để khắc phục. - Nguyễn Thị Nga, “Vấn đề bảo vệ môi trường tự nhiên trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam hiện nay” [121]. Tác giả phân tích những đặc điểm của môi trường tự nhiên ở nước ta; chỉ rõ nội dung cơ bản của công tác BVMT trong tiến trình CNH, HĐH ở nước ta trong giai đoạn hiện nay; tác giả đánh giá hiện trạng và hoạt động của môi trường tự nhiên liên quan đến các lĩnh vực như: tài nguyên đất, tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản; tài nguyên rừng và đa dạng sinh học; chỉ rõ những ưu điểm và hạn 11 chế của nhà nước, của doanh nghiệp và của người dân đối với việc bảo vệ môi trường tự nhiên. Trên cơ sở đó, tác giả đề ra các nhóm giải pháp để BVMT trong tiến trình CNH, HĐH; trong đó, coi trọng giải pháp tăng cường vai trò của nhà nước đối với hoạt động này; như, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về BVMT tự nhiên; vận dụng kinh nghiệm của các nước đi trước trong BVMT và tăng cường đầu tư nguồn tài chính cho CTBVMT. - Nguyễn Hữu Cát, Vương Cường, “Khảo sát thực trạng quản lý Nhà nước về môi trường tại một số tỉnh phía Nam ở nước ta hiện nay” [23]. Các tác giả đã đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về môi trường qua khảo sát ở một số tỉnh phía Nam, chỉ rõ những yếu kém, bất cập trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ và tái tạo môi trường của hệ thống pháp luật ở nước ta, yếu kém của đội ngũ cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực môi trường. Trên cơ sở đó, các tác giả đề xuất hệ thống giải pháp để thực hiện tốt công tác quản lý môi trường trong thời gian tới, đó là: hoàn chỉnh hệ thống pháp luật; tăng cường bộ máy quản lý Nhà nước về môi trường và nâng cao hiệu quả hoạt động của nó; tăng cường giáo dục ý thức môi trường cho người dân... - Nguyễn Minh Quang, “Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên môi trường” [133]. Tác giả khẳng định, BVMT được nhìn nhận là vấn đề sống còn, được coi là một trong ba trụ cột để phát triển đất nước. Tác giả đánh giá và khẳng định những kết quả đạt được trong CTBVMT, cụ thể: nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của CTBVMT của các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị - xã hội và người dân đã có những chuyển biến tích cực; mức độ gia tăng ô nhiễm môi trường được hạn chế; công tác phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm môi trường được đẩy mạnh. Tuy nhiên, MTST nước ta cũng đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức như biến đổi khí hậu, nước biển dâng, triều cường, xâm nhập mặn, ô nhiễm môi trường gia tăng. Tác giả nhấn mạnh, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên môi trường là nhiệm vụ có ý nghĩa sống còn; là nhiệm vụ của cả HTCT; là cơ sở tiền đề cho hoạch định đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội; là nhân tố quyết định sự phát triển bền vững của đất nước; là trách 12 nhiệm của mỗi tổ chức cá nhân và cộng đồng, trong đó nhà nước giữ vai trò chủ đạo dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự tham gia giám sát của toàn xã hội. - Trần Đắc Hiến, “Ô nhiễm môi trường ở nước ta hiện nay - thực trạng và một số giải pháp khắc phục” [75]. Tác giả cho rằng, trong những năm đầu thực hiện đường lối đổi mới, việc phát triển kinh tế gắn với môi trường chưa chú trọng đúng mức, dẫn đến ô nhiễm môi trường ở Việt Nam ngày càng nghiêm trọng, nóng bỏng và là vấn đề gây bức xúc trong dư luận xã hội. Theo tác giả, tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng là do bất cập của cơ chế, chính sách; quyền hạn pháp lý của các cơ quan BVMT chưa đủ mạnh; chính quyền chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của CTBVMT. Giải quyết được tình trạng này, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về BVMT, trong đó các chế tài xử phạt phải đủ sức răn đe; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường; chú trọng công tác quy hoạch khu công nghiệp, cụm công nghiệp; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục nhân dân nâng cao ý thức trách nhiệm BVMT. - Trần Thị Thu Hường, “Tăng cường hiệu quả xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường” [90]. Trên cơ sở nghiên cứu Nghị định số 155/2016/NĐ-CP, tác giả chỉ rõ tám nhóm hành vi vi phạm chính về quy định BVMT gồm: hành vi vi phạm về kế hoạch BVMT, đánh giá tác động môi trường; hành vi gây ô nhiễm môi trường; hành vi vi phạm về xử lý chất thải; hành vi vi phạm về quy định BVMT của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ và khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh doanh dịch vụ tập trung; hành vi vi phạm quy định về BVMT trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị; hành vi vi phạm trong hoạt động lễ hội, du lịch và khai thác khoáng sản... Tác giả cho rằng, việc xác định trách nhiệm và cơ chế phối hợp trong hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử phạt của Nghị định 155, đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi bức thiết, góp phần thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm quy định về môi trường được thống nhất, hiệu quả, có tính răn đe cao; buộc các tổ chức, doanh nghiệp phải thay đổi hành vi BVMT, nâng cao tinh thần thượng tôn pháp luật cho các tổ chức, doanh nghiệp trong CTBVMT. 13 - Nguyễn Hằng, “Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và đa dạng hóa các hoạt động truyền thông trong công tác bảo vệ môi trường” [74]. Tác giả phân tích và khái quát vai trò của công tác tuyên truyền đối với CTBVMT, công tác tuyên truyền là một hoạt động góp phần thúc đẩy thực hiện thắng lợi các mục tiêu, kế hoạch, nhiệm vụ đặt ra đối với CTBVMT. Vì vậy, cần tổ chức truyền thông, phổ biến các cơ chế, chính sách, chủ trương lớn về tài nguyên và môi trường ngay từ khi chuẩn bị, ban hành và tổ chức triển khai. Tác giả chỉ rõ biện pháp chủ yếu trong công tác truyền thông là: chú trọng tuyên truyền, hướng dẫn cho người dân thực hiện các biện pháp sử dụng tiết kiệm, hiệu quả các nguồn TNTN, ý thức trách nhiệm trong CTBVMT; phổ biến, hướng dẫn, tăng cường năng lực cho các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp thực hiện chức năng giám sát, phản biện và tham vấn cộng đồng về tài nguyên và môi trường; chú trọng ứng dụng công nghệ và phương thức truyền thông để lắng nghe ý kiến của doanh nghiệp, người dân và cộng đồng xã hội, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về môi trường. - Vũ Ngọc Lân, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong công tác bảo vệ môi trường” [102]. Tác giả đánh giá kết quả đạt được khi người dân tham gia BVMT trong thời gian qua như: xu hướng người dân tham gia trực tiếp vào CTBVMT ở địa bàn cơ sở ngày càng tăng; việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã từng bước cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trên nhiều lĩnh vực, tạo chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, trong đó có BVMT. Tuy nhiên, theo tác giả, ở nhiều nơi người dân chưa biết được việc xử lý, BVMT trên địa bàn của mình như thế nào nên cũng không thể bàn và kiểm tra, do các khu công nghiệp, khu chế xuất và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được bao bọc, khép kín và người dân bất khả xâm phạm. Tác giả nhận định, trách nhiệm trước hết là do người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan tham mưu, thẩm định dự án về môi trường; các tổ chức đoàn thể chưa đủ chuyên môn về môi trường để giám sát và phản biện. Tác giả cho rằng, để thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong công tác BVMT cần phải có các quy chế, quy định mang tính pháp quy; phát huy hơn nữa thế mạnh của các phương tiện thông tin đại 14 chúng; việc công khai phê bình các tổ chức, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp về vi phạm BVMT trên báo chí cần phải được tái lập, đây là những giải pháp thiết thực để nhân dân tham gia công tác BVMT. - Bùi Cách Tuyến, “Giám sát xã hội và bảo vệ môi trường ở Việt Nam” [164]. Tác giả đã nhận định: để nâng cao hiệu quả của CTBVMT thì một trong những biện pháp cần được thực hiện thường xuyên đó là làm tốt chức năng giám sát xã hội đối với hoạt động này. Tác giả xác định rõ, chủ thể của giám sát xã hội là MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, cá nhân, công dân hoặc cộng đồng dân cư, các cơ quan truyền thông đại chúng. Đối tượng chịu sự giám sát xã hội là cơ quan nhà nước, các tổ chức cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh, họ có nghĩa vụ chấp hành Luật BVMT. Theo tác giả, thời gian qua, hoạt động giám sát xã hội về BVMT ở Việt Nam đã được tiến hành khá tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết về cả tổ chức thực thi và phương diện hoàn thiện thể chế. Vì vậy, các cấp ủy đảng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần nhận thức đúng về bản chất và thiết lập khuôn khổ pháp lý để hoạt động giám sát xã hội về BVMT diễn ra một cách thuận lợi và đạt kết quả. - Nguyễn Văn Kim, “Mối quan hệ giữa phát triển và môi trường - kinh nghiệm của Nhật Bản” [98]. Từ thực tiễn phát triển kinh tế của Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XX, tác giả nhận xét: chính hoạt động và ý thức của con người khi khai thác quá mức tài nguyên đã tác động xấu đến MTST; bên cạnh đó, sự tập trung quá mức các nguồn tài nguyên phục vụ cho các ngành sản xuất đã dẫn đến mất cân bằng sinh thái và ô nhiễm môi trường. Tác giả luận giải và nhận định, dù là có ý thức hay vô thức, thì chính con người là tác nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm môi trường, tàn phá, hủy hoại môi trường. Hậu quả của nó lại chính con người phải gánh chịu. Chính vì mục tiêu tăng trưởng nhanh, chính phủ Nhật bản chưa tập trung cho CTBVMT mà còn dung túng cho các tổ chức hủy hoại môi trường. Tác giả khái quát những kết quả đạt được của Nhật Bản trong BVMT, và nêu một số kinh nghiệm của Nhật Bản trong CTBVMT, đó là: luật hóa và tăng cường thực thi pháp luật về BVMT; thiết lập cơ quan chuyên trách BVMT; sử dụng công nghệ sạch, đảm bảo an toàn; giáo dục cho người dân hiểu rõ về ý nghĩa và trách 15 nhiệm của BVMT và vận động nhân dân tham gia tích cực phòng chống ô nhiễm; thay đổi chiến lược phát triển kinh tế... Theo tác giả, đây là bài học kinh nghiệm đáng để Việt Nam nghiên cứu vận dụng nhằm thực hiện tốt việc BVMT. Jung Gun Young, “Quản lý nhà nước về môi trường ở Hàn Quốc - Những giá trị tham khảo cho Việt Nam” [91]. Tác giả tập trung phân tích, đánh giá, so sánh thực tiễn quản lý nhà nước về BVMT ở Hàn Quốc và Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; cụ thể như, so sánh về mô hình tổ chức và hoạt động của chính phủ trong quản lý nhà nước về môi trường, thông qua nghiên cứu điển hình và phân tích chuyên sâu về các mô hình tổ chức này tại Hàn Quốc và Việt Nam trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội khác nhau. Từ đó, tác giả khẳng định những kinh nghiệm của Hàn Quốc trong BVMT mà Việt Nam cần ưu tiên vận dụng đó là: cần quyết liệt và nhanh chóng triển khai các chính sách phòng ngừa ô nhiễm môi trường trong tất cả các ngành kinh tế; tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước, đặc biệt là công tác kiểm tra, giám sát, kiềm chế ô nhiễm môi trường thông qua một đầu mối để tránh sự chồng chéo, trùng lắp và tiết kiệm ngân sách; cải cách mạnh mẽ chính sách phí và thuế môi trường. Trần Thị Duyên, “Các giải pháp, chính sách của Đài Loan đối với các vấn đề môi trường” [41]. Tác giả phân tích và chỉ rõ, kế hoạch BVMT mang tính tổng thể đã được chính quyền Đài Loan đặc biệt lưu tâm từ năm 1990. Luật BVMT ở Đài Loan không chỉ tiến bộ về mặt tinh thần mà còn phối hợp với cơ chế kiểm soát môi trường hiện đại để hạn chế những tác động xấu của các vấn đề môi trường đặt ra. Bài viết đã phân tích cụ thể các chính sách của chính phủ Đài Loan đối với việc BVMT không khí và tầng ozone; chính sách BVMT nước, kiểm soát tiếng ồn; chính sách, biện pháp để giảm thiểu và tái chế rác thải... Tác giả nhấn mạnh, vấn đề môi trường là vấn đề manh tính toàn cầu; vì vậy, để giải quyết triệt để vấn đề này, không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của riêng Đài Loan, mà cần có sự hợp tác của tất cả các nước trên thế giới để vừa phát triển kinh tế, vừa đảm bảo giữ vững môi trường sinh thái.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan