Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Dân cư trong tồn tại xã hội ở tỉnh lâm đồng và sự vận động của nó hiện nay...

Tài liệu Dân cư trong tồn tại xã hội ở tỉnh lâm đồng và sự vận động của nó hiện nay

.PDF
185
1
127

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI TRUNG HƯNG DÂN CƯ TRONG TỒN TẠI XÃ HỘI Ở TỈNH LÂM ĐỒNG VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓ HIỆN NAY Luận Án Tiến Sĩ Triết Học Hà Nội – 2002 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN BÙI TRUNG HƯNG DÂN CƯ TRONG TỒN TẠI XÃ HỘI Ở TỈNH LÂM ĐỒNG VÀ SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NÓ HIỆN NAY Luận Án Tiến Sĩ Triết Học Chuyên ngành : CNDVBC và CNDVLS Mã số : 5.01.02 Người hướng dẫn khoa học : 1. GS.TS. Nguyễn Hữu Vui 2. PGS.TS Hồ Sĩ Quý Hà Nội - 2002 2 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Dân cư và sự tồn tại, phát triển của xã hội là hai vấn đề không thể tách rời nhau; bởi lẽ, dân cư là yếu tố quan trọng của sản xuất và của đời sống xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dân cư là yếu tố quan trọng của tồn tại xã hội: "Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống"(C. Mác và Ph. Ăngghen) [55. tr 32]. Mặc dầu quan trọng như vậy, song với tính cách là một hệ thống nhỏ trong hệ thống lớn là đời sống xã hội, đồng thời với tính cách là một cực trong hệ thống tương tác xã hội 3 cực của tồn tại xã hội, dân cư còn chưa thật sự được làm rõ về các nội dung và vai trò của nó. Trong nhận thức, có lúc, có nơi yếu tố dân cư dễ bị mờ nhạt đi bên cạnh yếu tố địa lý hoặc yếu tố phương thức sản xuất (yếu tố thường được coi là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội). Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì "đời sống xã hội về thực chất là có tính thực tiễn"; điều đó nói lên rằng, trong tiến trình lịch sử của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, ngoài yếu tố sản xuất, các yếu tố hoàn cảnh địa lý, dân cư là những nhân tố bên trong có thể góp phần thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển đặc thù của mỗi dân tộc. Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới, với 54 tộc người. Đảng, Nhà nước ta từ lâu đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề dân cư và đã có nhiều chủ trương, chính sách tác động tới một số mặt của vấn đề dân cư như: chính sách dân số, chính sách di dân... Mặc dầu vậy, hiệu quả của những chính sách trên, trên thực tế, còn thấp và không đồng đều ở các địa phương. Thực tiễn phát triển của dân cư Việt Nam còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, giải quyết và đưa ra những 3 kết luận, nhằm tạo cơ sở cho những chính sách phù hợp hơn với sự phát triển của xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm tới, Đảng ta đã chỉ rõ: "Khoa học xã hội và nhân văn đặt trọng tâm vào tổng kết thực tiễn, đi sâu nghiên cứu những vấn đề lớn của đất nước, khu vực và toàn cầu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế xã hội; phát huy nhân tố con người và văn hóa Việt Nam" [24. tr 205]. Với tính cách là một ngành khoa học thuộc khoa học xã hội và nhân văn, việc triết học nghiên cứu yếu tố cư dân trong tồn tại xã hội ở Lâm đồng cũng như trong cả nước là nhằm góp phần đáp ứng yêu cầu nói trên. Lâm Đồng là một tỉnh miền núi cao, thuộc nam Tây Nguyên, có nhiều tiềm năng, với hơn 30 tộc người sinh sống. Nhìn chung, hiện kinh tế Lâm Đồng còn chậm phát triển; tài nguyên, môi trường đang bị khai thác thiếu khoa học, kém hiệu quả. Một trong những nguyên nhân của tình trạng đó là dân cư Lâm Đồng đang có nhiều vấn đề cần quan tâm, chẳng hạn như: tỷ lệ tăng dân số sinh học còn cao, di dân tự do nhiều, sự phân bố, chất lượng sống của cư dân chưa thật hợp lý, các yếu tố xã hội khác đang ảnh hưởng tiêu cực tới dân cư... mặt khác, vấn đề tác động của dân cư tới sản xuất và điều kiện tự nhiên, nhất là môi trường sống ở Lâm Đồng cũng chưa được đánh giá và phát huy một cách khoa học. Với những lý do trên, chúng tôi thấy cần có sự nghiên cứu sâu hơn về yếu tố dân cư và vai trò của nó trong sự phát triển của Lâm Đồng. Trên cơ sở đó, làm rõ thêm các quan điểm khoa học về vấn đề dân cư, về tính đặc thù của nó, tìm ra những giải pháp cho sự phát triển của dân cư Lâm Đồng trong sự phát triển chung của cả nước, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 4 2. Tình hình nghiên cứu đề tài: a). Tài liệu dịch: Đa số các công trình của các tác giả nước ngoài về dân cư được phổ biến ở Việt Nam đều chủ yếu là nghiên cứu theo chuyên ngành dân số học. Chỉ có một số ít công trình tiếp cận yếu tố dân cư từ góc độ nhân khẩu học và xã hội học như: + Nhóm phân tích quan hệ giữa dân cư, dân số - môi trường có: - Amir Khan (Pakistan). Những quan hệ qua lại giữa các yếu tố dân số, phát triển và môi trường ở khu vực châu á - Thái Bình Dương. Người dịch Trần Văn Chiến. Trung tâm nghiên cứu, thông tin và tư liệu dân số (TTNC, TT & TLDS) Hà Nội 1995. Trong công trình này, tác giả đã chỉ ra những ảnh hưởng của sự tập trung dân số quá lớn vào các đô thị, ảnh hưởng của mật độ dân cư quá cao đến môi trường đô thị và môi trường sống nói chung; đề ra một số khuyến nghị có tính chất giải pháp để cải thiện tình hình. - Monowar Hossnin (Bănglađét). Những quan hệ qua lại giữa dân số và các tài nguyên: một khung phân tích. Tập san Dân số của Liên hiệp quốc 1995. Sau khi khái quát các giai đoạn lịch sử của mối quan hệ qua lại giữa con người với tự nhiên, tác giả nhấn mạnh: cùng với sự xuất hiện văn minh đô thị và khoa học kỹ thuật hiện đại, con người đã khai thác quá mức, dẫn tới vi phạm sự cân bằng trong quan hệ với tự nhiên. Tuỳ theo mức độ phát triển và lợi ích của mỗi cộng đồng con người vi phạm sự cân bằng đó, song đều theo hướng phá huỷ môi trường. Từ đó tác giả đưa ra một biểu đồ khung phân tích các liên hệ hợp lý giữa con người (cộng đồng) và môi trường thông qua các khâu trung gian như thiết chế xã hội và công nghệ để có thể tác động và giải quyết các vấn đề nảy sinh. + Các nhóm tài liệu tiếp cận dân cư từ góc độ nhân khẩu học có các công trình: - Leon Tabanh - ban dân số thuộc Ban thư ký LHQ. Từ một quá độ nhân khẩu học này sang một quá độ khác. Tập san dân số của Liên Hiệp Quốc. Người dịch Hoàng Tích Giang. TTNC, TT & TLDS. Hà nội,1995. 5 Công trình đã so sánh tình hình gia tăng dân số không đồng đều ở 3 châu lục: Âu, á, Phi, từ đó rút ra vai trò quan trọng của các nhân tố kinh tế, xã hội và văn hoá trong các quá trình quá độ nhân khẩu học của nhân loại. Tác giả đã đưa ra một số kết luận về hướng nghiên cứu các vấn đề nhân khẩu học trong quan hệ liên ngành rất đáng chú ý là: "phải thừa nhận rằng bất kỳ ý định nào định giải thích nhân khẩu học theo các quá trình dân số sẽ là ảo tưởng. Nhân khẩu học chỉ có thể giải thích các nguyên nhân nhân khẩu học của hiện tượng - ví dụ, những thay đổi về mức sinh có thể quy một phần cho những thay đổi về các kiểu kết hôn hoặc về cơ cấu tuổi; những giải thích như vậy hoàn toàn là nội tại do đó bị hạn chế. Giải thích thực sự các hiện tượng theo quy mô của quá độ nhân khẩu học phải được xét từ bên ngoaì môn nhân khẩu học và chỉ có thể đạt được qua nỗ lực phối hợp của các nhà nghiên cứu về khoa học xã hội" [50. tr 3]. Georges Photios Tapinos - Viện nghiên cứu chính sách Paris. Di cư quốc tế và sự phát triển. Tập san dân số của Liên Hiệp Quốc. Người dịch Hoàng Tích Giang. TTNC, TT&TLDS. Hà nội 1995. Tác giả đã tập trung đánh giá các tác động của di cư tới sự phát triển của từng quốc gia đến triển vọng quốc tế. Tác giả cũng khái quát sự biến động của các luồng di cư, các chính sách di dân, những mặt tích cực và tiêu cực của nó trong quan hệ với đời sống ở cả nơi xuất cư và nơi chuyển đến. Nhìn chung, các công trình trên đây tìm cách tiếp cận nhân khẩu học, xã hội học, đã đi sâu phân tích từng mặt của yếu tố dân cư trong đời sống xã hội hiện đại. Trong số đó có một số kết luận có giá trị như là những tổng kết lý luận triết học. b) Từ góc độ triết học: ở nước ta từ trước tới nay chưa có một công trình triết học riêng biệt nào nghiên cứu về dân cư với tính cách là một yếu tố của tồn tại xã hội. Mặc dù dân cư trong tồn tại xã hội đã được đề cập đến như là một yêu tố tất yếu của sản xuất và đời sống trong các giáo trình triết học, 6 song lại chủ yếu được mô tả theo khía cạnh vật chất - kỹ thuật, còn ít chú ý tới khía cạnh xã hội, tinh thần. Trong khi đó ở một số nước trên thế giới, trong một số cách giải nghĩa khái niệm dân cư, họ đã coi dân cư vừa là chủ thể của sản xuất, của tiêu dùng, vừa là nền tảng để sáng tạo, lưu giữ các giá trị tinh thần. c) Một số khía cạnh, vấn đề của yếu tố dân cư ở Việt Nam được nghiên cứu nhiều dưới góc độ chuyên ngành: dân số học, đia lý, xã hội học: + Chuyên ngành dân số học có các công trình đáng chú ý là: Nhóm các công trình nghiên cứu chuyên ngành dân số gồm : - Một số chính sách kinh tế - xã hội có quan hệ với chính sách dân số. Thông tin dân số số 1/1996 của tác giả Doãn Mậu Diệp. - Đặc điểm cơ bản của dân số nước ta hiện nay và những khuyến nghị về chính sách. Thông tin dân số số 4/2000. tr 8-12 của PGS. TS. Nguyễn Đình Cử. - Dự báo dân số theo chương trình mục tiêu cho các tỉnh thành phố đến năm 2020: công nghệ thực hiện và những nhìn nhận từ kết quả dự báo. Thông tin dân số. số 2/1998. tr10-12 của tác giả Hoàng Phước Hòa. - Quá độ dân số: Việt Nam đang ở đâu ? Thông tin dân số. số 5/1997 của Phạm Quý Thọ. - Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết BCHTW4 - khóa VII về chính sách dân số và KHHGĐ của UBQGDS - KHHGĐ do TS. Trần Thị Trung Chiến trình bày. Thông tin dân số, số 1/2000. Các công trình này tập trung xem xét thực trạng về quy mô, cơ cấu dân số… đề ra những khuyến nghị về chính sách dân số. Nhóm các công trình xem xét quan hệ của dân số với môi trường sống gồm có : - Đô thị hóa và môi trường đô thị. Tạp chí thông tin dân số số 4/1996 của PGS Lê Trọng Cúc. 7 - Xây dựng cơ sở dữ liệu dân số môi trường trên phạm vi toàn quốc. Thông tin dân số. số 1/1998, của hai tác giả: Võ Anh Dũng - PTS Đoàn Minh Lộc. - Dân số và môi trường. Hai tác giả Minh Luận - Hương Giang, trong kỷ yếu hội thảo khoa học: Hợp tác nghiên cứu và hoạt động về dân số và phát triển ở Việt Nam. Hà Nội 1999. - Một số vấn đề về mối quan hệ giữa dân số và sự phát triển. Do Trần Cao Sơn (chủ biên). NXB khoa học xã hội. Hà Nội, 1997. Các công trình trên đây và nhiều công trình khác nữa tuy tiếp cận chủ yếu từ góc độ dân số học, song đã ít nhiều nêu ra và giải quyết được một số mặt, một số vấn đề của yếu tố dân cư đối với sự phát triển. + Chuyên ngành xã hội học có các công trình đáng chú ý là: - Một số vấn đề dân số từ hướng tiếp cận xã hội học. Do GS. Tương Lai chủ biên. NXB khoa học xã hội. Hà nội, 1992. - Xóa đói giảm nghèo dưới cái nhìn văn hóa truyền thống của TS. Nguyễn Minh Hòa. Tạp chí thông tin lý luận số 12/2000. Các công trình này đã hướng cách tiếp cận trực tiếp vào một số vấn đề cụ thể của dân cư, khái quát các giải pháp mang tính lý luận có tầm triết học. d). Về dân cư ở Lâm Đồng đã có 2 tác phẩm: - Vấn đề dân tộc ở Lâm Đồng do PGS. TS. Mạc Đường chủ biên. Tác phẩm này chủ yếu nghiên cứu các cư dân bản địa ở Lâm Đồng dưới góc độ dân tộc học. - Dân tộc - dân cư Lâm Đồng của tác giả Trần Sĩ Thứ. Ngoài việc chỉ ra nguồn gốc của cư dân Lâm Đồng, tác giả thống kê các tộc người, một số đặc trưng của họ và đặc trưng dân số học của cư dân Lâm Đồng. Tác giả cũng nêu được một số thành tựu trong phát triển kinh tế và văn hoá như là những vai trò của cộng đồng cư dân Lâm Đồng trong thời gian qua. Tuy nhiên cách tiếp cận cơ bản vẫn là từ góc độ thống kê học và dân tộc học. 8 Hiện chưa có công trình nghiên cứu về yếu tố dân cư ở Lâm Đồng tiếp cận từ góc độ triết học, để đi sâu phân tích cấu trúc, vai trò thực tiễn của cư dân Lâm Đồng và từ đó đề xuất các giải pháp khoa học để giải quyết vấn đề, thúc đẩy sự phát triển của dân cư ở đây. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài: + Mục đích: Góp phần làm rõ những nội dung của dân cư và quan hệ của nó với các yếu tố khác trong tồn tại xã hội; trên cơ sở đó, khảo sát dân cư trong đời sống xã hội ở Lâm Đồng; bước đầu đánh giá và đề xuất những biện pháp nhằm phát huy vai trò của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội ở tỉnh Lâm Đồng. + Nhiệm vụ: - Phân tích nội dung và vai trò của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội. - Phân tích những hạn chế, ưu thế và xu hướng phát triển của dân cư ở Lâm Đồng. - Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò và giải quyết các vấn đề của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội ở Lâm Đồng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: + Dân cư: cấu trúc, vai trò và vị trí của nó trong tồn tại xã hội theo quan điểm của triết học Mác - Lênin. Luận án đặc biệt chú ý đến các quan điểm, các chủ trương, chính sách... của Đảng và Nhà nước ta khi kiến giải về các vấn đề đặt ra ở Lâm Đồng. + Phạm vi khảo sát thực tiễn của luận án là Lâm Đồng, vùng văn hóa có những nét đặc thù tiêu biểu cho khu vực nam Tây Nguyên. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: - Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử về xã hội của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin và Hồ Chí Minh. Luận án có chú ý thích đáng đến những thành tựu khoa học của một số học giả trong và ngoài nước khi bàn về yếu tố dân cư và các vấn đề của Lâm Đồng. 9 - Phương pháp nghiên cứu: Các phương pháp chung của CNDVBC và CNDVLS; các phương pháp: cấu trúc hệ thống, phân tích, tổng hợp, lôgic, lịch sử, so sánh, điều tra, phỏng vấn... để thu thập, phân tích, xử lý và trình bày vấn đề. 6. Cái mới của đề tài: - Đề xuất việc sử dụng thống nhất thuật ngữ dân cư để chỉ yếu tố người trong tồn tại xã hội và nêu ra khái niệm dân cư, làm rõ vai trò của dân cư với hoàn cảnh địa lý và phương thức sản xuất trong tồn tại xã hội. - Chỉ ra những nét đặc thù của yếu tố dân cư trong tồn tại xã hội ở Lâm Đồng, phân tích những mặt tích cực và hạn chế trong sự vận động phát triển của dân cư ở đây, đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của yếu tố dân cư, nhằm giải quyết tốt hơn các vấn đề đặt ra ở Lâm Đồng trong tương quan chung với sự phát triển của cả nước. 7. ý nghĩa khoa học và thực tiễn: - Luận án có thể làm tư liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy triết học Mác - Lênin về tồn tại xã hội, về hình thái kinh tế - xã hội; luận án cũng là tư liệu tham khảo cho tất cả những ai quan tâm tới các vấn đề của Lâm Đồng và nam Tây Nguyên. 8. Kết cấu của luận án: ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án gồm 3 chương với 7 tiết. 10 PHẦN NỘI DUNG Chương 1 Dân cư - yếu tố của tồn tại xã hội 1.1. Những quan điểm tiêu biểu về dân cư trong lịch sử tư tưởng tôn giáo và triết học. 1.1.1. Một số quan điểm tôn giáo và triết học trước Mác về dân cư. 1.1.1.1. Quan điểm của một số tôn giáo quốc tế. Ngoại trừ Phật giáo, các tôn giáo lớn đều cho rằng Thượng đế (hoặc trời) sinh ra vạn vật, trong đó có con người. Tuy nhiên, do mỗi tôn giáo thường gắn với những cộng đồng dân cư nhất định, hoặc những bộ phận của cộng đồng đó, cho nên các tôn giáo có sự quan tâm đáng kể đến yếu tố dân cư và vấn đề dân cư. Nếu tước bỏ đi yếu tố duy tâm, tôn giáo, thì có thể nói các tôn giáo có sự quan tâm sớm và khá chi tiết trong việc tổ chức các cộng đồng dân cư, thường được gọi là các cộng đồng giáo dân. Điều này là phổ biến ở tất cả các tôn giáo quốc tế như Phật giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo... Các cộng đồng giáo dân thường được tổ chức như là những đơn vị xã hội khép kín có đầy đủ tính chất và cơ cấu của một đơn vị xã hội của dân cư. Điểm khác biệt cơ bản của các đơn vị xã hội này là ở chỗ, trung tâm liên kết của họ là nơi thờ tự (nhà thờ, chùa, thánh đường...) với "chất" liên kết cơ bản là niềm tin tôn giáo. Đặc điểm này phổ biến và có ý nghĩa lớn ở những nơi mà một tôn giáo nào đó chiếm địa vị độc tôn; khi đó cộng đồng tôn giáo còn thể hiện như là một đơn vị hành chính. Còn ở những nơi có sự đan xen giữa các tôn giáo trong một cộng đồng dân cư thì đặc trưng trên vẫn là cơ bản, góp phần duy trì sức sống của các tôn giáo. Vì vậy, trong kinh sách của các tôn giáo, yếu tố dân cư được chú ý bàn đến khá chi tiết. Điển hình là phần "sách dân số" trong kinh Cựu ước của Ki-tô giáo. Sách này đã đề cập đến nhiều nội dung của yếu tố dân cư, dưới tên gọi là "cộng đồng dân chúa". " Sách dân số" đã mô tả quá trình hình thành các cộng 11 đồng dân cư; các quy ước như là những luật lệ về phân chia đất đai, về quyền thừa kế đất đai, tài sản; các phong tục tập quán, về điều tra dân số và quá trình di dân lập nơi ở mới v.v... Đây chính là cơ sở lý thuyết mà nhà thờ Ki-tô giáo dựa vào để xây dựng các giáo khu ở hầu hết các nước Châu Âu. Và đó cũng là lý thuyết cho mô hình được gọi là các Pha-lăng-dơ (nước chúa ngàn năm) mà các nhà XHCN không tưởng ở thế kỷ XVIII mong muốn xây dựng. 1.1.1.2. Quan điểm triết học của Nho giáo. Như đã biết, Nho giáo là một học thuyết triết học - chính trị do Khổng Tử (551-480 T.C.N), người Trung quốc sáng lập và sau đó trở thành nền tảng tư tưởng cho các chế độ Phong kiến ở một số nước châu á. Vì vậy, có thể nói quan niệm về dân cư của Nho giáo cũng là quan niệm chung cho toàn bộ thời đại phong kiến về dân cư. Dân cư ở thời phong kiến, theo quan niệm của Nho giáo, tuy có nhiều tên gọi khác nhau song tựu trung đều được gọi là "thần dân". "Khái niệm "thần dân" chỉ hết thảy những người thuộc các giai cấp, các tầng lớp trong một nước, bất kể đó là làm quan hay không làm quan, lao lực hay lao tâm, giàu sang hay nghèo hèn... đều có số phận là tôi con của triều đình, chịu sự thống trị của vua, phục vụ nhà vua và trung thành với quyền lợi của vua. Nói cách khác, đó là dân cư của triều đại phong kiến". [86.192]. Để có thể cai trị được tốt, Nho giáo cũng đã đưa ra một quan điểm rõ ràng về vai trò của dân cư và những biện pháp nhằm phát huy vai trò đó. Điều đáng lưu ý là, đôi khi, Khổng Tử đã từng quan niệm dân ngang với trời, ý dân là ý trời, vua tuy được quyền thay trời, nhưng đối với dân lại phải chịu trách nhiệm toàn diện. Dân tuy phải chịu quyền cai trị của vua, nhưng vẫn có quyền bắt vua phải theo điều lành, điều thiện mà làm: "Cái sáng suốt của trời ở cái sáng suốt của dân, sự làm cho rõ điều lành sợ điều ác của trời ở sự làm cho rõ điều lành sợ điều ác của dân, trên trời dưới dân thông đạt với nhau. Vậy nên người làm vua, làm chúa, phải kính vậy thay! (Thư: Cao - Dao mô) [45, tr 131]. 12 Mặc dầu vậy, Nho giáo luôn coi vua là "tâm" - cái tinh tuý; coi dân là "thân thể" - cái tầm thường, hai cái đó luôn liên hệ mật thiết với nhau, không thể tách rời được: tâm nhờ thân thể mà toàn, và cũng vì thân thể mà nguy; vua nhờ dân mà còn, và cũng vì dân mà mất (Lễ Kí: Trung Y. XXXIII) [45, tr133]. Tuân Tử cho rằng con người khác động vật ở chỗ sống tập thể theo xã hội mà có tổ chức, có lễ nghĩa trên dưới. Ông đã chỉ ra nguyên nhân của "loạn" trong đời sống dân cư là: thứ nhất, tuy con người sống hợp quần nhưng mỗi cá nhân chỉ có một khả năng nhất định, nếu không có sự phân công hợp lý thì sinh loạn; thứ hai, sản vật tự nhiên và của cải làm ra thì ít mà nhu cầu của con người thì vô cùng, nên dẫn tới tranh chấp. Từ đó, ông chủ trương: phải tăng cường sản xuất và tiết kiệm, trong đó lấy nông nghiệp làm cơ bản, phân rõ ngành nghề trong xã hội (sĩ, nông, công, thương); phải hạn chế nhu cầu, dục vọng, lấy lễ làm cơ sở, làm nguyên tắc đạo đức để phân chia thứ bậc và cung cách giao tiếp xã hội. Tuân Tử từng nói "Chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân". Sách Thượng thư cũng viết "Dân có thể gần, không thể coi thường. Dân là gốc nước. Gốc có vững thì nước mới yên" Muốn giữ được quyền bính thì phải được dân tin. Khi Tử Cống hỏi Khổng Tử, để làm chính trị cần có những điều gì, Khổng Tử đã trả lời có 3 điều, trong đó dân tin là quan trọng nhất: "đủ ăn, đủ binh, dân tin mình vậy. Nhược bằng trong 3 điều ấy, bất đắc dĩ phải bỏ một điều, thì nên bỏ điều nào trước? Bỏ việc binh. Còn hai điều mà bất đắc dĩ phải bỏ đi một điều nữa thì nên bỏ điều nào trước? Bỏ ăn. Vì bỏ ăn thì chết, nhưng xưa nay người ta vẫn chết, chứ dân mà không tin, thì không sao đứng vững được (Luận ngữ: Nhan Uyên, XII) [45, tr 137]. Muốn dân tin mình, theo Khổng Tử, người cầm quyền phải lấy việc nhân nghĩa mà trị dân. Bên cạnh đó, để phục vụ việc trị dân, Nho giáo rất quan tâm tới việc phát triển dân số và nâng cao chất lượng dân cư. Với quan niệm về thứ, phú, giáo, Khổng Tử cho rằng có 3 điều quan trọng mà nhà cầm quyền phải làm được, đó là: làm cho dân nhiều, làm cho dân giàu và dạy dân biết lễ 13 nghĩa. Nhiễm Hữu hỏi về phương cách trị dân, Khổng Tử đã trả lời: Trị dân mà không dạy dân, thì dân biết thế nào được cương, thường đạo lý, để giữ trật tự trong xã hội, nhưng trước khi dạy dân, cần phải làm cho dân giàu, vì có đủ ăn, đủ mặc thì mới học được lễ nghĩa (xem luận ngữ: Tử Lộ, XIII). Mạnh Tử đã phát triển tư tưởng này khi cho rằng người trị dân, trị nước là phải chăm lo việc dân, khiến cho dân được sung túc rồi phải dạy dỗ dân để cho dân đừng làm điều sai trái (Đằng Văn Công, thượng). Tuy nhiên, xuất phát từ lợi ích ích kỷ của giai cấp mình, với cái nhìn hạn hẹp, Mạnh Tử đã nhìn dân như những lực lượng thấp hèn, phải chịu địa vị nô lệ là do trời sinh ra. Mạnh Tử từng nói: "Hoặc là lao tâm, hoặc là lao lực; người lao tâm thì trị người, người lao lực thì bị người trị; bị người trị thì nuôi người, trị người thì được người nuôi. Đó là nghĩa thông thường trong thiên hạ "(Mạnh Tử Đằng Văn Công, thượng) [45, tr. 221 - 222]. Tư tưởng trên đây đã trở thành chỗ dựa cho giai cấp phong kiến thống trị củng cố địa vị mình, nô dịch, bóc lột nhân dân. ở Việt Nam, tuy ảnh hưởng của Nho giáo khá nặng nề, song do hoàn cảnh lịch sử, do yêu cầu của việc dựng nước và giữ nước, nên quan niệm về dân và vai trò của dân trong giai cấp thống trị có khác so với quan niệm Nho giáo ở Trung Quốc. Lý Thường Kiệt đã nêu lên tư tưởng "người làm vua của dân, cốt phải nuôi dân" Trần Quốc Tuấn thì nêu ra bài học cần phải làm cho "lòng dân không ly tán", "khoan sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách của sự giữ nước". Nguyễn Trãi cho rằng: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", "đem quân đi đánh giặc cốt để yên dân". Các triều đại phong kiến Việt Nam đã tạo ra một nền tảng chính sách gần dân, thân dân và phát huy tốt sức mạnh của dân trong công cuộc chống ngoại xâm, giữ vững nền độc lập dân tộc, cũng như trong việc xây dựng đất nước. 1.1.1.3. Quan niệm về dân cư trong triết học phương Tây: 14 Ngay từ thời cổ đại, với văn minh đồ sắt phát triển, ở phương Tây đã hình thành được các nhà nước mạnh, thống trị các bộ tộc bị hợp nhất lại, thường được gọi là nhà nước thành bang, với một chế độ nô lệ điển hình và với những quan niệm khá định hình về vai trò của cá nhân và xu hướng giải phóng cá nhân (tất nhiên là cá nhân chủ nô) trong quan hệ với các cộng đồng dân cư. Đó là một trong những nguyên do làm cho trong triết học phương Tây, con người thường được nghiên cứu nhiều hơn ở góc độ cá nhân, trước khi nghiên cứu trong quan hệ cộng đồng. Sau đây chúng ta xem xét vấn đề trên thông qua một số triết gia tiêu biểu. - Platôn: (427 - 347 T.C.N) đã đưa ra một quan niệm duy tâm về con người; ông đối lập giữa linh hồn và thể xác con người. Ông cho rằng linh hồn con người có 3 phần: Lý tính, xúc cảm và cảm tính, trong đó chỉ có linh hồn lý tính là bất diệt còn hai phần kia thì chết cùng thể xác. Tương ứng với ba loại linh hồn nói trên là ba loại cấu thành xã hội, tuỳ theo mức độ chủ đạo của từng phần linh hồn đó. Thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái, với linh hồn lý tính làm chủ đạo, nên có nhiều phẩm chất ưu tú, có thể đảm nhận vai trò lãnh đạo trong nhà nước lý tưởng. Thứ hai, là những người lính, với linh hồn xúc cảm làm chủ đạo, có một số phẩm chất để đảm nhận được nhiệm vụ bảo vệ nhà nước lý tưởng. Thứ ba, là những người lao động chân tay nói chung, với linh hồn cảm tính làm chủ đạo, có địa vị thấp hèn nhất, chủ yếu sinh ra để phục vụ cho nhà nước lý tưởng. Như vậy, theo Platôn, xã hội ngay từ khi sinh ra đã bao gồm những con người với các đẳng cấp khác nhau và không thể có sự bình đẳng giữa mọi người. Đa số nhân dân phải sống vì nhà nước, chứ không phải nhà nước vì nhân dân. - Arixtốt (384-322 T.C.N), tuy cũng thừa nhận con người có hai phần: linh hồn và thể xác, song ông không đối lập chúng với nhau, mà cho rằng hai phần đó có quan hệ hữu cơ với nhau. Ông quan niệm có ba loại linh hồn: linh hồn thực vật, linh hồn động vật, linh hồn lý tính ; con người là loài bao hàm 15 cả ba loại linh hồn nói trên, tức là, ngoài thượng đế ra, linh hồn lý tính chỉ có ở con người, bởi vậy con người là cao cấp nhất trong muôn loài, con người là một sinh vật xã hội, bản tính của nó là sống cộng đồng. Các hình thức cộng đồng của con người đó là gia đình (kiểu chiếm nô) và Nhà nước. Trong đó, cộng đồng gia đình là tự nhiên; nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, là sự phát triển cao của cộng đồng gia đình. Theo Arixtốt, nhà nước phải mang lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi người (tất nhiên trừ nô lệ): "Mục đích của nhà nước là cuộc sống phúc lợi... bản thân nhà nước là sự giao tiếp của các gia tộc và dân cư nhằm đạt được sự tồn tại một cách hoàn thiện và tự lập "[110.241]. Arixtốt đã nhận rõ vai trò của các cộng đồng dân cư với chính trị - xã hội theo lập trường của giai cấp chủ nô. Nhìn chung các nhà triết học cổ đại Hy Lạp đã xem xét quan hệ của dân cư và các cộng đồng trong quan hệ với nhà nước, một thiết chế chính trị đặc biệt. Điều đó đã đặt cơ sở cho những tư tưởng về xã hội công dân phát triển mạnh ở thế kỷ XVIII trong triết học phương Tây. - Tômát Hốpxơ (1588 - 1679) cho rằng mỗi dân tộc đều phải trải qua hai giai đoạn phát triển: giai đoạn tự nhiên và giai đoạn xã hội công dân (còn gọi là giai đoạn nhà nước). Nhà nước là sự sáng tạo cao nhất mà con người có thể làm ra. Nhà nước là "con người nhân tạo", mà chính phủ là linh hồn của "con người" đó. Tuy nhà nước làm hạn chế tự do của con người, làm giảm các khát vọng tự nhiên của con người, nhưng quyền làm chủ xã hội của con người chỉ thực sự có được khi họ lập ra nhà nước của mình. - Môngtexkiơ (1689 - 1775)là một trong những nhà tư tưởng sớm nhận thấy cơ sở tự nhiên của xã hội loài người; ông khẳng định, các hiện tượng tự nhiên và xã hội có sự thống nhất với nhau và đều chịu sự chi phối bởi các quy luật nhất định. Theo ông, có 2 dạng quy luật chi phối sự phát triển của xã hội loài người. Thứ nhất, đó là các quy luật tự nhiên xuất phát từ bản chất sinh vật của con người, chúng đảm bảo các nhu cầu sinh học của con người. Thứ hai 16 đó là quy luật "thuần tuý xã hội". Tuy nhiên, ông chưa đánh giá đúng mức tính đặc thù của các quy luật xã hội. Vì vậy, dù sớm nhận ra vai trò của sản xuất vật chất trong sự phát triển của xã hội và các cộng đồng người, ông lại quá nhấn mạnh vai trò quyết định của điều kiện địa lý, khi cho rằng từ sự khác nhau về điều kiện địa lý giữa các vùng trên trái đất dẫn tới sự khác nhau giữa các dân tộc, các quốc gia về chủng tộc, lối sống, văn hoá, pháp luật, thể chế, xã hội v.v... Do đó con người định cư ở khu vực nào đó trên trái đất, họ chỉ có thể làm ra lịch sử của mình trong giới hạn mà địa lý, khí hậu chi phối họ. Bởi vì, theo ông "uy quyền của khí hậu mạnh hơn mọi uy quyền" [110, tr.120]. - Giăng Giắc Rútxô (1712 - 1778), nhà tư tưởng vĩ đại của triết học khai sáng Pháp cho rằng, con người sinh ra vốn có tự do, nhưng từ trước tới giờ nó luôn bị kìm hãm, tước mất tự do. Nguyên nhân của tình trạng đó nằm ngay trong bản thân xã hội loài người, cụ thể là ở bản thân sự phát triển kinh tế và chế độ sở hữu của xã hội. Ông chia tiến trình phát triển của lịch sử thành 2 giai đoạn. Giai đoạn đầu, hay " trạng thái tự nhiên", là giai đoạn thuần khiết chưa có sự phân chia đẳng cấp, đó là một thời kỳ dài, bình yên và hạnh phúc nhất trong lịch sử nhân loại. Giai đoạn sau hay "trạng thái công dân", là giai đoạn trí tuệ của con người phát triển, đặc biệt là sự xuất hiện của sở hữu tư nhân đã phá vỡ "trạng thái tự nhiên" của xã hội, xã hội công dân xuất hiện. Theo ông do sở hữu tư nhân dẫn tới bất bình đẳng về thu nhập mà làm nảy sinh bất bình đẳng về xã hội, giai cấp xuất hiện, đòi hỏi phải có các đạo luật xã hội để điều tiết. Ông cho rằng bản tính con người là sống cộng đồng, nên nhà nước đã ra đời trên cơ sở "khế ước xã hội" do nhân dân lập ra một cách thầm lặng. Theo ông, "sự thoả thuận cơ bản không những không phá vỡ bình đẳng, tự nhiên, mà ngược lại, thay thế sự bình đẳng về thể lực mà giới tự nhiên có thể tạo ra bằng sự bình đẳng về đạo đức và pháp luật. Mọi người tuy không đều nhau về thể lực và trí tuệ, trở thành ngang nhau trong hiệu lực của khế 17 ước " [110, II tr.127]. Mặc dù vậy, có thể thấy rằng, trong xã hội đương thời, "khế ước xã hội" có thể trở thành phương tiện hợp pháp hoá sở hữu tư nhân và mọi bất công trong xã hội. Trạng thái thứ ba là thông qua cách mạng xã hội đưa xã hội trở về với "trạng thái tự nhiên" ban đầu của nó, nhưng ở mức cao hơn. Ông cho rằng các điều kiện địa lý, khí hậu đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của xã hội và dân cư. - Thuyết nhân khẩu học phản tiến bộ của Mantút (1766-1834), nhà kinh tế học người Anh: Do phát triển những quan điểm kinh tế học tư sản cực đoan trong việc xem xét các vấn đề dân cư, Mantút đã nhìn nhận sự tồn tại và phát triển của dân cư thuần tuý về mặt số lượng. Bằng quan điểm duy tâm về lịch sử, Mantút đã cắt nghĩa sự tồn tại và phát triển của dân cư như là một trật tự thiên định. "Đặc điểm của Mantút là ... coi sự nghèo khổ của nhân dân là một sự trừng phạt đối với tội lỗi, và nói chung, hắn không thể không viện đến cái cảnh "trần gian khổ ải", nhưng đồng thời khi nghĩ đến những khoản thu nhập của giáo hội mà hắn đã nhận được và khi sử dụng giáo lý về định mệnh thì hắn lại thấy rằng, làm cho cuộc sống trong cảnh trần gian khổ ải ấy "bớt đau thương" đối với giai cấp thống trị thì đó là một điều rất có lợi cho hắn" - nhận xét của C. Mác [63, tr.67]. Với tư tưởng chủ đạo đó, Mantút gán cho những người lao động nghèo khổ phải chịu trách nhiệm về nạn nhân khẩu thừa. Thứ nhất, do họ sinh đẻ nhiều; thứ hai, trước khi trở thành người lao động, xã hội phải nuôi không họ một thời gian, Mantút viết: "Do bản chất của dân số, số tăng của dân số lao động không thể được đưa ra thị trường sớm hơn 16 - 18 năm sau để thoả mãn một số lượng cầu đặc biệt, trong lúc đó, thì việc biến thu nhập thành tư bản bằng cách tiết kiệm lại có thể diễn ra nhanh hơn nhiều, một nước bao giờ cũng có nguy cơ là những quỹ dùng để nuôi sống lao động sẽ tăng nhanh hơn dân số" [63, tr.42]. Mantút cho rằng dân số luôn tăng lên theo cấp số nhân, trong khi của cải lại chỉ tăng lên theo cấp số cộng, do đó trên trái đất luôn có nhân khẩu thừa. Từ 18 đó ông chủ trương phải hạn chế nhân khẩu thừa bằng nhiều biện pháp. C. Mác đã phê phán các chủ trương của Mantút là "sử dụng đến những thủ đoạn nhân tạo. Những thủ đoạn này là: thuế khoá cao, một số lượng lớn các chức vụ béo bở của nhà nước và nhà thờ, những đội quân lớn, những khoản tiền hưu bổng, thuế thập phân cho các mục sự, quốc trái lớn và thỉnh thoảng có những cuộc chiến tranh rất tốn kém" [64, tr.64]. Trên thực tế, Mantút chủ trương ủng hộ những sinh hoạt xa hoa lãng phí của tầng lớp trên, ăn bám trong xã hội mà ông ta gọi là "những người tiêu dùng không sản xuất". Mặt khác với những "nhân khẩu thừa", thì Mantút cho rằng, phải giảm bớt đi bằng cách để cho họ phải chết đói và buộc họ phải sống độc thân để không sinh đẻ thêm nhân khẩu. Theo Mantút, việc mọi người đều có tư liệu sản xuất và bình đẳng về các quyền lợi khác là không thể thực hiện được. Người thừa phải chịu lấy trách nhiệm về sự dư thừa của chính mình, vì trước khi anh ta ra đời anh ta đã không hỏi xem "xã hội có cần sự ra đời của anh ta không". Chẳng phải ngẫu nhiên mà lâu nay, quan điểm của Mantút đã bị chỉ trích và phê phán từ nhiều lập trường khác nhau. Ngoài ra cũng cần xem xét thêm một số quan điểm ngoài mácxit hiện đại để làm rõ hơn vấn đề dân cư với tính cách là một vấn đề triết học: Từ cách tiếp cận nhân học - xã hội, tác giả người Pháp Gioóc Condôminát trong cuốn "Không gian xã hội vùng Đông Nam á" đã xem xét các cộng đồng dân cư qua khái niệm "không gian xã hội", tác giả định nghĩa: "Không gian xã hội là cái không gian được xác định bởi một tập hợp các hệ thống quan hệ đặc trưng cho một nhóm người nào đó" [29, tr.16]. Theo ông, không gian xã hội có các khía cạnh cơ bản là: - Những mối liên hệ với không gian và thời gian: xem xét sự tồn tại của các cộng đồng dân cư trong không gian và thời gian sinh thái. - Những quan hệ với môi trường: xem xét quan hệ giữa dân cư với môi trường sinh thái. 19 - Những quan hệ về trao đổi của cải: quan hệ của dân cư với kinh tế. - Những quan hệ về giao tiếp: ngôn ngữ và chữ viết. Xem xét các công cụ chuyển tải các quan hệ trong cộng đồng dân cư. - Những quan hệ họ hàng, xóm giềng: xem xét các quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng dân cư như là một hệ thống nhỏ trong hệ thống lớn nhất là xã hội. Cũng với cách tiếp cận này, tác giả Christian Taildard thì đưa ra định nghĩa: "Không gian xã hội của các mối quan hệ tập hợp những đơn vị chính trị - xã hội cùng loại trong lòng một đơn vị dân cư, đơn vị dân cư này là khung tham chiếu chung của các nhóm đó cũng như các cá nhân mà các nhóm đó tập hợp, không gian có một sự năng động xã hội riêng, liên kết các quan hệ cạnh tranh và hợp tác cho phép mỗi đơn vị đó tái sản sinh gần giống hệt với các đơn vị khác" [29, tr.65]. Có thể thấy rằng, dân cư với tính cộng đồng nổi trội của nó trong quan niệm của Christian Taildard cũng như trong quan niệm của Gioóc Condôminát đều có những điểm hợp lý nhất định. Chúng tôi sẽ sử dụng những điểm hợp lý đó để phân tích vấn đề đặt ra trong luận án này. 1.1.2. Quan điểm của triết học Mác-Lênin về dân cư. Để xem xét các quan niệm của triết học Mác-Lênin về dân cư, cần thiết phải điểm lại và khẳng định những tư tưởng chủ đạo trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về tồn tại xã hội. Bởi vì xem xét vấn đề dân cư là xem xét một bộ phận quan trọng của tồn tại xã hội. Xung quanh phạm trù tồn tại xã hội, vào những năm 60-70 (thế kỷ XX), trong giới triết học mácxít ở các nước XHCN đã có nhiều tranh luận với những cách hiểu khác nhau. Điển hình cho sự tranh luận đó là những quan điểm khác nhau của các nhà triết học Bungari và Liên xô. Có quan điểm cho rằng tồn tại xã hội chỉ cần được hiểu bao gồm lực lượng sản xuất và quan hệ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan